Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sự phát triển tâm lí trẻ em và cơ hội trong xã hội học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.9 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE


Educational Sci., 2013, Vol. 58, No. 8, pp. 14-22
This paper is available online at


<b>SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ TRẺ EM VÀ CƠ HỘI TRONG XÃ HỘI HỌC TẬP</b>


Lê Minh Nguyệt


<i>Trường Đại học sư phạm Hà Nội</i>


<b>Tóm tắt.</b>Bài báo trình bày một số khía cạnh chung của sự phát triển tâm lí trẻ em
từ giác độ tâm lí học - giáo dục học. Dựa trên tư tưởng về sự hình thành và phát
triển nhân cách thơng qua việc học và vai trị của giáo dục, tác giả đã giới thiệu một
số quy luật phát triển tâm lí của trẻ. Những quy luật này là cơ sở để tổ chức hoạt
động giáo dục cho trẻ. Đó là: quy luật về sự học, hiện thực hóa các tiềm năng của
trẻ, sự quy định về xã hội trong sự phát triển và sự tương tác cũng như quy luật phát
triển khơng đồng đều trong q trình phát triển tâm lí. Các vấn đề hiện nay trong
giáo dục và đời sống xã hội cũng được phân tích theo tiếp cận phát triển.


<i><b>Từ khóa:</b></i>Tâm lí trẻ em, cơ hội, xã hội học tập.


<b>1.</b>

<b>Mở đầu</b>



Gần như mặc định, nói tới xã hội học tập (XHHT), nhiều người nghĩ ngay đến việc
hướng tới một xã hội trong đó mọi người dân, chủ yếu là người lớn đều được học và học
suốt đời, nhằm thích ứng với sự thay đổi không ngừng của khoa học và xã hội. Không phải
ngẫu nhiên, ngay từ năm 1949, tại Đan Mạch, người ta đã bàn đến giáo dục cho người lớn
và suốt từ đó đến nay hàng chục hội nghị Quốc tế về XHHT đều hướng đến chủ đề này.
Đối với các nước phát triển, điều này là đương nhiên, vì ở đó, giáo dục cho trẻ em về cơ
bản đã đáp ứng được yêu cầu của “xã hội học tập cho trẻ em” cả về quy mơ và chất lượng.
Trong khi đó, sự phát triển và biến đổi nhanh chóng của kinh tế, khoa học và xã hội đặt ra


thách thức đối với người lớn: khơng học khơng thích ứng được với điều kiện sống và làm
việc trong xã hội biến đổi liên tục. Tuy nhiên, ở những nước chậm và đang phát triển, vấn
đề được đến trường học tập của trẻ em vẫn là một mục tiêu phía trước. Vì vậy, ở các quốc
gia này, xây dựng xã hội học tập, không chỉ hướng tới dành cho người lớn tuổi mà trước
hết cần đảm bảo cho mọi trẻ em được đến trường và được phát triển mọi tiềm năng của
mình.


Ngày nhận bài: 1/12/2012. Ngày nhận đăng: 15/8/2013.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Bài toán xây dựng một xã hội học tập cho trẻ em có hai nghiệm: thứ nhất: mọi trẻ
em đều được học, được đến trường và thứ hai: mọi trẻ em đều học được. Ở Việt nam, năm
2000 đã hồn thành xố mù chữ và phổ cập xong giáo dục tiểu học. Năm 2010 cả nước
cũng đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Với thành tựu đó, chúng ta đã tạo ra
một xã hội học tập cho trẻ em về quy mơ và đặt nền móng cho học tập suốt đời ở các giai
đoạn lứa tuổi sau. Trên thực tế, những năm qua, chúng ta đã cố gắng đi tìm lời giải cho
cả hai vấn đề của một xã hội học tập cho trẻ em và đã thu được nhiều kết quả khả quan.
Tuy nhiên, do đặc điểm là đất nước đang chuyển đổi về kinh tế và quản lí xã hội, nên chất
lượng giáo dục cho trẻ em còn nhiều bất cập, những vấn đề cơ bản vẫn chưa có lời giải
thực sự hợp lí và thỏa đáng. Bài viết này hướng đến góp phần làm sáng tỏ cơ sở để giải
quyết bài toán xây dựng xã hội học tập cho trẻ em, bằng cách chỉ ra những quy luật khách
quan của sự phát triển trẻ em và các giải pháp giáo dục phù hợp với quy luật phát triển
của trẻ.


<b>2.</b>

<b>Nội dung nghiên cứu</b>



<b>2.1.</b>

<b>Trẻ em và quy luật phát triển của trẻ em trong xã hội hiện đại</b>



<b>2.1.1.</b> <b>Quan niệm hiện đại về trẻ em</b>


Trải qua hàng ngàn năm, nhân loại vẫn tồn tại dai dẳng quan niệm “trẻ em là người


lớn thu nhỏ” và đối xử với chúng như với người lớn (có thể đây chính là căn nguyên
của cách hành xử lấy người lớn làm trung tâm, vẫn còn tồn tại phổ biến trong giáo dục
trẻ em ngày nay). Chỉ đến khi xuất hiện các tuyên ngôn nổi tiếng của nhà khai sáng
J.J.Rousseau về trẻ em: trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ [13] và hàng loạt cơng
trình sau đó nghiên cứu về sự phát triển của trẻ em, thì quan niệm sai lầm trên mới dần
được khắc phục.


Ngày nay, trong giới khoa học và trong giáo dục tuy vẫn còn chịu ảnh hưởng ít
nhiều của cách nhìn trẻ em nặng về góc độ sinh học, bẩm sinh, di truyền hoặc thiên về sự
tác động của môi trường sống, nhưng tư tưởng chủ đạo coi trẻ em là thực thể văn hóa, tự
sinh ra chính bản thân mình bằng hoạt động và tương tác xã hội. Điều đó có nghĩa là trẻ
em là sản phẩm của sự tương tác giữa các tố chất của bản thân với sự tác động của các yếu
tố môi trường thông qua hoạt động và tương tác của chính các em. Dưới góc độ phát triển,
trẻ em là sản phẩm thứ sinh, là sản phẩm do chính mình tạo ra.


<b>2.1.2.</b> <b>Các quy luật phát triển của trẻ em</b>


Quá trình phát triển của trẻ em hiện đại diễn ra theo nhiều quy luật, trong đó có các
quy luật phổ quát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

của xã hội thành kinh nghiệm cá nhân [L.X.Vưgotxki,1997; A.N.Leonchev,1979]; sự xã
hội hóa; cá nhân hóa; sự cấu trúc và tái cấu trúc các chức năng tâm lí trẻ em [18]v.v. Tất
cả sự diễn đạt đó đều là biểu hiện của HỌC. Trẻ có thể sử dụng các cơ chế bắt chước, nhận
thức hay trí tuệ v,v, nhưng tất cả cơ chế đó đều là cơ chế HỌC. Để thông báo một trạng
thái cảm xúc của mình, trẻ có thể kêu ú ớ, đó là phản xạ bản năng. Nhưng cũng để thể
hiện trạng thái đó, trẻ biết dùng tiếng nói (ngơn ngữ) chung của cộng đồng, thì đó khơng
cịn là bản năng nữa, mà là sự phát triển, là con người văn hóa. Tương tự, trẻ biết đọc,
biết viết, biết tính tốn; biết lao động tạo ra của cải, biết sáng tạo ra khoa học, công nghệ,
nghệ thuật, thi ca, đạo đức, pháp luật; biết yêu, biết ghét, biết tôn trọng, chấp nhận và hợp
tác với người khác v.v. Có thể kể ra hàng triệu, triệu cái biết khác, mà nhờ chúng trẻ em


trở thành một thành viên có thể sống “đàng hồng” trong gia đình, làng xóm, nhà trường,
xã hội hiện tại, được hình thành khơng phải bằng con đường phản xạ tự nhiên, mà bằng
con đường học. Nói khái quát, tất cả mọi cái của trẻ em, từ không biết đến biết, từ khơng
đến có; từ đứa trẻ - một cá thể động vật, trở thành đứa trẻ - một cá nhân có văn hóa trong
cộng đồng, đều là kết quả của học.


Mặt khác,<i>trẻ em là con đẻ của thời đại</i>. Mỗi thời đại có hình mẫu riêng về trẻ em
của thời đại mình. Điều này khơng phải do sự áp đặt thơ bạo, máy móc của xã hội đối với
trẻ, mà là do phương thức dạy và học của xã hội tạo nên. Thời cổ xưa và trong xã hội kinh
tế nơng nghiệp tĩnh, chưa có trường học hoặc chỉ có số ít dành cho thiểu số trẻ em con
tầng lớp trên, nên việc dạy và học để giúp quảng đại trẻ em trở thành thành viên của xã
hội là do toàn dân đảm nhận bằng giáo dục dân gian theo phương thức trao tay, tương ứng
kiểu dạy này là học dân gian. Trong xã hội hiện đại giáo dục nhà trường trở thành tiêu chí
bắt buộc đối với trẻ em; là một chỉ báo quan trọng về sự phát triển không đầy đủ của các
em; là sự bất hạnh không chỉ của riêng đứa trẻ mà còn là sự bất hạnh và là biểu hiện về sự
kém phát triển của xã hội.


<i>- Quy luật thứ hai:</i>Trẻ em là một thực thể đầy tiềm năng phát triển và là thế giới
tiềm năng bỏ ngỏ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

dạng vận động, trí thơng minh cá nhân, trí thơng minh khoa học, trí thơng minh giao tiếp
[9;20]. Điều quan trọng là nhận định của H.Gardner chưa phải là kết luận cuối cùng về
trí thơng minh của trẻ em thời hiện đại. Tuy nhiên, các nhà tâm lí học cũng đã phát hiện
ra sự phát triển tiềm năng nhất định nào đó của trẻ em có mối quan hệ chặt chẽ với “mơi
trường được làm giàu”, mà ở đó trẻ được tạo điều kiện thuận lợi nhất để tự do hoạt động
tương ứng với tiềm năng của mình. Cả thế giới đều biết tới nghệ sĩ Đặng Thái Sơn hay
nhà tốn học Ngơ Bảo Châu và cả thế giới cũng đều biết họ có mơi trường âm nhạc hay
mơi trường tốn học tuyệt với để các tiềm năng âm nhạc và tốn học của mình được phát
lộ và phát triển. Ở đây có một nguyên lí: Trẻ em có tiềm năng phát triển vơ cùng đa tầng
và đa hướng, nhưng hiện thực phát triển của từng em đạt mức nào, theo hướng nào là tùy


thuộc vào chiều sâu, độ phong phú và đa dạng của xã hội học tập dành cho các em. Vì lẽ
đó, xây dựng một xã hội học tập cho trẻ em là xây dựng môi trường học tập tương ứng với
tiềm năng phát triển của trẻ em, mà trong đó mọi trẻ em được tạo điều kiện thuận lợi nhất
để có thể tích cực hoạt động và phát triển hồn tồn các năng lực vốn có của mình.


<i>- Quy luật thứ ba:</i>Sự phát triển của trẻ em diễn ra trong mối tương tác chặt chẽ giữa
các yếu tố thuộc về chủ thể và sự tác động của mơi trường.


Dưới góc nhìn hệ thống, sự phát triển của trẻ em là giá trị thặng dư của sự tương
tác mạnh giữa ba đơn vị: sự tích cực hoạt động của cá nhân các tố chất (thể chất và tâm
lí) của cá nhân sự tác động của các yếu tố thuộc môi trường sống. Hoạt động và tương tác
xã hội là nguồn gốc, là phương thức phát triển của trẻ em. Trẻ em chỉ có thể phát triển
thơng qua hoạt động và tương tác xã hội. Khơng có hoạt động và tương tác của trẻ em với
thế giới thì khơng có sự phát triển. Tuy nhiên, hoạt động tích cực của trẻ em phải dựa trên
cơ sở thể chất nhất định. Khơng thể có một tâm hồn lành mạnh trong một cơ thể ốm yếu.
Hơn nữa, sự phát triển của trẻ luôn luôn chịu tác động bởi yếu tố môi trường sống, đặc
biệt là mơi trường kinh tế - xã hội - văn hóa mà ở đó, trẻ em được tắm mình và cảm nhận
nó hàng ngày. Trong đó, tác động của gia đình, nhà trường, nhóm bạn và của các phương
tiện thơng tin, giải trí có sức mạnh to lớn. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, do thành tựu
của khoa học, công nghệ và giao lưu quốc tế, sự tác động của môi trường ngày càng rộng
hơn, mạnh hơn, phong phú hơn, cả mặt tích cực và tiêu cực đến hoạt động và phát triển
của trẻ em. Mặt khác, sự phát triển tâm lí của trẻ em tác động đến các yếu tố thể chất của
mình và tác động vào mơi trường sống, từng bước làm chủ chúng, phục vụ cho sự phát
triển của mình.


<i>- Quy luật thứ tư:</i>Sự phát triển của cá nhân diễn ra theo quy luật không đều


Các công trình nghiên cứu trong tâm lí học phát triển đã phát hiện sự phát triển
không đều giữa các giai đoạn lứa tuổi trong cả cuộc đời của mỗi cá nhân và có sự khơng
đều giữa các cá nhân trẻ em trong quá trình phát triển.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

phát triển của trẻ em trong 6 năm đầu, tiếp đến là giai đoạn tuổi dậy thì là các giai đoạn có
ý nghĩa quyết định đối với cả đời người.Trong các giai đoạn này, nếu trẻ em khơng được
chăm sóc và giáo dục chu đáo sẽ dẫn đến tổn thất lớn cho sự phát triển về sau của trẻ.


Mặt khác, giữa các cá nhân có sự khơng đều trong q trình phát triển cả về tốc độ
và mức độ. Khi mới sinh và lớn lên, mỗi trẻ em có cấu trúc cơ thể riêng (về hệ thần kinh,
các giác quan và các cơ quan khác của cơ thể). Đồng thời được nuôi dưỡng, được hoạt
động trong những mơi trường riêng (gia đình, nhóm bạn, nhà trường v.v). Sự khác biệt đó
tạo ra ở mỗi trẻ em có tiềm năng, điều kiện, mơi trường phát triển riêng của mình, khơng
giống người khác. Vì vậy giữa các trẻ em có sự khác biệt và khơng đều về cả mức độ và
tốc độ phát triển. Điều này đặt ra vấn đề là giáo dục trẻ em không chỉ quan tâm và tôn
trọng sự khác biệt cá nhân trong qúa trình phát triển của các em, mà còn cần phải tạo điều
kiện thuận lợi để mỗi cá nhân phát huy đến mức tối đa mọi tiềm năng của mình, nhằm
hướng đến mức phát triển cao nhất so với chính bản thân mình.


<i>- Quy luật thứ năm:</i>Sự phát triển của trẻ em diễn ra theo xu hướng chuyển tâm qua
các lứa tuổi.


Sự chuyển tâm trong quá trình phát triển của trẻ em qua các lứa tuổi diễn ra trong
mọi chức năng tâm sinh lí của trẻ. Đó là q trình hình thành các cấu trúc tâm lí đặc trưng,
trên cơ sở cấu trúc lại các chức năng tâm lí đã có. Chẳng hạn, Sự phát triển cấu trúc nhận
thức của trẻ em từ các chức năng nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) ở giai đoạn mầm
non chuyển sang tư duy cụ thể (học sinh đầu tiểu học) và tư duy lí luận (học sinh THCS);
sự phát triển lĩnh vực xúc cảm - tình cảm cũng bắt đầu từ các các xúc cảm mang tính
tức thời, khơng ổn định (tuổi mầm non và đầu tiểu học), chuyển lên mức độ tình cảm ổn
địnhgắn liền với các đối tượng thân quen (tuổi tiểu học) và cuối cùng là các tình cảm cao
cấp tương ứng với ý thức trách nhiệm, lí tưởng và giá trị sống (tuổi THPT). Trong lĩnh vực
hành động cũng diễn ra theo quy luật tương tự. Trẻ em chuyển từ các hành động cảm xúc,
ngẫu hứng, không ổn định (trẻ em trước tuổi đến trường phổ thơng) lên mức hành động


có ý thức, hành động ý chí (tuổi thanh niên).


Sự chuyển tâm trong q trình phát triển của trẻ em diễn ra theo nguyên lí tiệm tiến
và nhảy vọt, tạo thành các giai đoạn lứa tuổi: sơ sinh, mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS
và THPT. Mỗi lứa tuổi có đặc thù riêng về hoạt động, giao tiếp và các chức năng tâm lí.
Tính đặc thù của mỗi lứa tuổi là cơ sở để tổ chức các lớp học, cấp học cho trẻ em trong
một xã hội học tập của trẻ.


Trên đây là một số quy luật mang tính phổ quát về sự phát triển của trẻ em có quan
hệ trực tiếp tới xã hội học tập của trẻ em


<b>2.2.</b>

<b>Cơ hội đối với trẻ em trong xã hội học tập</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chí Minh đã thể hiện sự quan tâm đến việc trẻ em được học tập. Theo Chủ Tịch, "Trẻ em
như búp trên cành/Biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan". Vì vậy, quyết tâm xây dựng
một nền giáo dục mới - nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập. "Một nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em" [6]. Ngày 2/9/1990, Việt Nam là
nước thứ hai trên thế giới kí cơng ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, trong đó trẻ em có
quyền được học hành. Nghĩa vụ của thầy cơ giáo là lên lớp và giảng dạy tốt, khi uốn nắn
trẻ em không được làm tổn hại đến các em, không được xúc phạm trẻ em. Luật Giáo dục
sửa đổi năm 2009 cũng đã chỉ rõ: phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; phổ cập giáo
dục tiểu học và trung học. Nghị Quyết Đại hội Đảng qua các nhiệm kì IX, X, XI đều xác
định đầu tư cho giáo dục là quyết sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Trên thực tế,
năm 2000 chúng ta đã hồn thành xố mù chữ và phổ cập xong giáo dục tiểu học [2]. Năm
2010 cả nước cũng đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Toàn bộ tư tưởng
chiến lược cũng như hành động thực tiễn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang
thực hiện đều hướng đến tạo cơ hội thuận lợi để tất cả trẻ em trên khắp mọi miền của tổ
quốc đều có thể đến trường.


<b>2.3.</b>

<b>Các rào cản và thách thức đối với quyền được đi học và khả năng học</b>



<b>được của trẻ em</b>



Bên cạnh cơ hội được đến trường học tập, trẻ em trên thế giới cũng như ở Việt Nam
đang phải đối mặt với những rào cản và thách thức, làm xói mịn quyền được đi học và
khả năng học được của các em:


- Những rào cản và thách thức từ phía xã hội đối với quyền được đến trường: Đói
nghèo, chiến tranh, kì thị, bạo hành, lạm dụng trẻ em và tác động mặt trái của thời đại
máy tính, điện thoại thơng minh và các phương tiện thơng tin, giải trí khác đang là vấn
nạn trên phạm vi toàn cầu và của mỗi quốc gia, thậm chí của các gia đình trong xã hội
hiện đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

viết; 19,5% học hết cấp một; 2,75% có trình độ trung học chuyên nghiệp hay chứng chỉ
học nghề, và ít hơn 0.1% có bằng đại học hoặc cao đẳng. Nhìn chung, chỉ có khoảng 3%
được đào tạo nghề chun mơn, và chỉ hơn 4% người có việc làm ổn định. Hiện có hơn
40% người khuyết tật sống dưới chuẩn nghèo (Bộ LĐTBXH, 2005). Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) thống và cho thấy, khoảng 150 triệu trẻ em gái và 73 triệu trẻ em trai dưới 18
tuổi đã bị bạo lực và lạm dụng tình dục. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng ước tính
có khoảng 1,2 triệu trẻ em bị bn bán mỗi năm.


Bên cạnh đó, các bệnh của xã hội văn minh, xã hội của máy tính và điện thoại thơng
minh cũng đang trở thành phổ biến ở mọi quốc gia. Trẻ em ngày nay có xu hướng dành
nhiều thời gian cho sự tương tác với máy tính hay điện thoại hơn là sự tương tác với người
khác. Hệ quả là khơng ít trẻ em bỏ trường lớp, xa lánh mọi người cũng như xuất hiện hàng
loạt hành vi lệch chuẩn khác. Các tật xấu như nghiện game, nghiện điện thoại v.v đang
ngày càng gia tăng ở trẻ em, tới mức nhiều quốc gia thành lập các bệnh viện điều trị các
chứng nghiện này như nghiện ma túy. Theo thống kê của Sở GD&ĐT Hà Nội, năm học
2009-2010, khảo sát trên 1121 trường học trong thành phố với tổng số 370.387 học sinh,
có 215.568 HS đến Đại lí Internet chơi game online 1 - 3 lần/ tuần; 90.326 hs 4 - 6 lần;
51.769 hs chơi 7 - 9 lần và 12.724 hs chơi trên 10 lần. Thời gian trung bình cho một lần


chơi: 1 giờ: 188.726 HS; 2 - 3 giờ: 157.745 HS; 4 - 5 giờ: 18.237 HS; 6 - 7 giờ: 3.875
HS; 8 - 9 giờ: 1.120 HS; 10 giờ: 625 HS. Thời gian chơi: 1 năm: 129.985 HS; 2 - 3 năm:
122.143 HS; 3 - 4 năm: 94.844 HS; trên 5 năm: 23.415. (Báo<i>Giáo dục và Thời đại</i>, bản
điện tử ngày 28/12/2010).


- Những thách thức từ phía nhà trường: mục tiêu giáo dục; nội dung học tập quá
nặng và khuôn mẫu sơ cứng, chưa thực sự hướng đến phát triển các tiềm năng đa dạng của
học sinh; chương trình dạy học và giáo dục chưa thực sự phù hợp vơi tâm lí lứa tuổi; quan
hệ thầy - trò chưa thực sự thân thiện v.v, đang tạo ra sức ép lớn đối với bộ phận khơng nhỏ
học sinh, dẫn đến sói mịn hứng thú học tập của các em.


</div>

<!--links-->

×