Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận “Ra quyết định trong lãnh đạo quản lý, vận dụng trong nâng cao hiệu quả ra quyết định lãnh đạo quản lý bộ đội ở đơn vị hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.5 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Ra quyết định có vai trị rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo - quản lý;
bởi vì ra quyết định sẽ chi phối tồn bộ q trình thực hiện một nhiệm vụ của cá
nhân và tổ chức.Việc ra quyết định đúng hay sai, chính xác hay khơng chính xác dù
ở cấp độ nào cũng quyết định đến sự thành công hay thất bại của công việc. Ra
quyết định nếu như không đúng, không trúng, không khách quan, khoa học, thì sẽ
gây ra những bất lợi, kìm hãm sự phát triển của cá nhân cũng như tổ chức.
Trong hoạt động quân sự, vấn đề ra quyết định là hoạt động tất yếu,
thường xuyên của người lãnh đạo, chỉ huy. Thực tế cho thấy, trong quá trình ra
quyết định, phần lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo-quản lý ở các đơn vị luôn bám sát
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh,
điều lệ quân đội và chỉ thỉ thị mệnh lệnh của cấp trên. Đa số các quyết định đều
mang tính khoa học, đúng đắn và thể hiện được phẩm chất năng lực của người
lãnh đạo - quản lý cũng như phát huy được sức mạnh trí tuệ tập thể.
Tuy nhiên, trong cơng tác lãnh đạo-quản lý, vẫn cịn có những quyết định
khi ban hành không phù hợp với thực tế, giải quyết vấn đề một cách chung
chung, không đảm bảo khách quan và cơng bằng. Ở một cơ quan, đơn vị cịn
xảy ra tình trạng “mơ phỏng” nghị quyết của cấp ủy đảng cấp trên, mà thiếu tính
sáng tạo, vận dụng phù hợp sát với thực tiễn của đơn vị mình. Bên cạnh đó, cịn
có cán bộ lãnh đạo- quản lý do quá tin tưởng vào cơ quan tham mưu, người dự
thảo, không xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, không lắng nghe ý kiến người tham
gia, người phản biện. Dẫn đến việc ra những quyết định không đúng thẩm
quyền, không đủ căn cứ pháp lý, quyết định có nội dung cịn trùng lặp, chồng
chéo. Vì vậy, để nâng cao chất lượng hiệu quả của việc ra quyết định trong hoạt
quản lý nói chung và hoạt động lãnh đạo - quản lý bộ đội nói riêng cần phải có
các biện pháp tâm lý tác động phù hợp.
Với ý nghĩa đó, tơi chọn chủ đề: “Ra quyết định trong lãnh đạo - quản
lý, vận dụng trong nâng cao hiệu quả ra quyết định lãnh đạo- quản lý bộ đội
1



ở đơn vị hiện nay” làm nội dung viết thu hoạch.
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RA QUYẾT ĐỊNH TRONG LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
1. Quan niệm về quyết định và ra quyết định trong lãnh đạo, quản lý

a, Quyết định trong hoạt động lãnh đạo - quản lý
*Khái niệm
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định
quản lý liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của tồn bộ q trình quản
lý. Quyết định quản lý được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người
lãnh đạo thể hiện tài năng của mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện
quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu
quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vài trò và yêu cầu của quyết định
quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách khoa
học. Nghiên cứu về vấn đề ra quyết định có nhiều quan niệm khác nhau:
Theo V.Gapharaxep: Quyết định quản lý là hành vi của cơ quan quản lý,
hoặc của người lãnh đạo (viết hoặc nói) trong đó xác định mục tiêu, đề ra nhiệm
vụ cho khách thể quản lý. Quyết định là giai đoạn đầu tiên trong thực hiện bất kì
chu kì quản lý nào. Việc quản lý có kết quả phụ thuộc vào quyết định được
chuẩn bị tốt đến đâu.Năng lực chuẩn bị và ra quyết định là hình thức chủ yếu
của cơng tác quản lý. Từ đó tác giả đưa ra yêu cầu với người ra quyết định là
phải phát hiện ra vấn đề, phân tích vấn đề một cách tỷ mỉ, khoa học; đề ra mục
tiêu, nhiệm vụ, thu thập và xử lý thông tin, trình bày vấn đề một cách chính xác;
xây dựng và đánh giá những phương án có thể lựa chọn, phát hiện và đánh giá
những hiệu quả có thể xẩy ra của quyết định, xây dựng thực hiện các quyết định.
V.I.Mekhaep cho rằng: Quyết định quản lý là điều kiện then chốt của quản
lý, là hoạt động sáng tạo nhất trong tất cả các loại hoạt động. Nó sáng tạo ra
phương hướng, cách thức và nội dung lao động của tập thể. Để ra quyết định
chính xác, yêu cầu người lãnh đạo - quản lý phải xây dựng được hàng loạt các
phương án, phải có các phẩm chất như: tự tin, quyết đoán, biết quy tụ các
2



chuyên gia, phải biết thừa nhận những sai lầm và dũng cảm gạt bỏ những quyết
định không đúng.
A.I. Kitov quan niệm: quá trình ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết
định của người quản lý điều có sự tham gia của năng lực chuẩn đoán, năng lực
sáng tạo và năng lực tổ chức. Trong đó năng lực chuẩn đốn cho phép tạo ra
khái niệm rõ ràng về các tổ chức hiện tại và tương lai, năng lực sáng tạo cho
phép khải thảo những quyết định thích hợp với nhiệm vụ và mục tiêu quản lý,
năng lực tổ chức bảo đảm thực hiện được những quyết định ấy.
E.Ph. Xulimov coi quản lý là công tác của con người và đối với con
người. Hoạt động quản lý được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật, chủ
yếu thông qua giải quyết mối quan hệ giữa các quân nhân. Vì vậy, người lãnh
đạo - quản lý với tư cách là chủ thể của hoạt động quản lý bộ đội cần có năng
lực nhận thức - nhận thức luận, năng lực tổ chức sáng tạo và năng lực tác
động xã hội.
Khái niệm quyết định quản lý trong Giáo trình Khoa học quản lý cho
rằng: quản lý là những hành vi sáng tạo của chủ thể quản lý nhằm định ra mục
tiêu, chương trình và tính chất hoạt động của tổ chức để giải quyết một vấn đề
đã chín muồi trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động khách quan và phân tích,
xử lý những thông tin về tổ chức và môi trường.
Giáo sư Mai Hữu Khuê trong tác phẩm “Những khía cạnh tâm lý của
quản lý” cho rằng: ra quyết định là vấn đề trung tâm của hoạt động quản lý, khía
cạnh tâm lý học quan trọng nhất của ra quyết định là phải làm sáng tỏ vấn đề.
Người lãnh đạo - quản lý đang gặp khó khăn gì trong q trình tư duy, người đó
đang trải qua những cảm xúc và tình cảm nào. Người lãnh đạo quản lý dùng ý
chí mình ra sao? điều quan trọng là người lãnh đạo phải tìm giải pháp để quản lý
tình huống trong điều kiện có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hồn cảnh (tư duy,
cảm xúc, tình cảm) ý chí, yếu tố tình huống có vai trị quan trọng đối với q
trình ra quyết định của người lãnh đạo - quản lý.

Giáo sư Đỗ Hoàng Toàn đã nghiên cứu về quyết định, nguyên tắc cơ
bản ra quyết định, yêu cầu đối với các quyết định và các yếu tố tác động đến
3


việc ra quyết định quản trị kinh doanh. Tác giả cho rằng: hiệu quả của các
quyết định phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, bản lĩnh, uy tín và trách nhiệm
của người quản lý. Các yếu tố khách quan tác động đến quá trình ra quyết
định và tổ chức thực hiện quyết định của giám đốc doanh nghiệp là tính đồng
bộ, tính hợp lý của hệ thống chính sách kinh tế, pháp luật của nhà nước, khả
năng của chủ thể và thị trường.
Nguyễn Đức Minh và Nguyễn Hải Khoát trong tác phẩm “Cơ sở tâm lý
học của công tác quản lý trường học” đã nghiên cứu bản chất của quyết định
quản lý, phân loại các quyết định, các giai đoạn của quá trình ra quyết định và
cho rằng: Hoạt động người lãnh đạo - quản lý muốn có chất lượng hiệu quả cao
người lãnh đạo - quản lý phải có các phẩm chất như : óc sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tầm nhìn xa trơng rộng, có nghệ thuật quy tụ
và khai thác trí tuệ của các chuyên gia. Quyết định là hành vi thể hiện ý chí của
chủ thể ra quyết định, ý chí đó được định ra và thể hiện dước một hình thức nhất
định, có tính bắt buộc đối với đối tượng phải thi hành nhằm đạt được mục đích
mà chủ thể đó mong muốn.
Như vậy, các nhà Tâm lý học trong và ngoài nước đều thấy được tầm quan
trọng của quyết định trong hoạt động lãnh đạo - quản lý; Quyết định là hành vi,
là phương án của cá nhân hay tập thể về vấn đề nào đó. Và theo nghĩa chung
nhất thì quyết định là một hành động lựa chọn một giải pháp cho một vấn đề đã
được xác định.
Lãnh đạo - quản lý bộ đội là một quá trình: Chủ thể lãnh đạo - quản lý
gồm: cá nhân người lãnh đạo, chỉ huy và tập thể lãnh đạo - quản lý; khách thể
lãnh đạo - quản lý gồm: cán bộ, chiến sĩ và tập thể cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền.
Chủ thể lãnh đạo - quản lý điều khiển đối tượng lãnh đạo - quản lý thông qua

các quyết định và hành động trong lãnh đạo - quản lý. Đó là: Các chỉ thị, mệnh
lệnh; các gợi ý, hướng dẫn .v.v. Hiệu quả thực hiện hành động của đối tượng
lãnh đạo - quản lý là cái có thể kiểm tra, đo đạc và báo ngược về cho chủ thể
lãnh đạo - quản lý để có thể điều chỉnh các quyết định và hành động trong lãnh
đạo - quản lý.
4


Từ cách tiếp cận trên có thể quan niệm: “Quyết định trong hoạt động lãnh
đạo - quản lý bộ đội là phương án tối ưu của nhà lãnh đạo - quản lý nhằm xử lý
mâu thuẫn giữa diễn biến của tình huống, hồn cảnh, các địi hỏi của nhiệm vụ
đơn vị phải hoàn thành cùng các khả năng thực hiện chúng”.
* Đặc điểm của quyết định trong hoạt động lãnh đạo- quản lý:
Quyết định trong hoạt động lãnh đạo- quản lý là quyết định do chủ thể quản
lý ban hành để giải quyết các vấn đề trong phạm vi quản lý của mình. Trong bộ
máy quản lý, mỗi bộ phận hay cá nhân đều có một vị trí nhất định và từ vị trí đó
được phép ra các quyết định nhất định để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
vị trí mà mình đảm nhận. Chỉ có chủ thể quản lý mới có quyền ra quyết định
quản lý để giải quyết vấn đề phát sinh trong hoạt động quản lý. Phạm vi ra quyết
định quản lý phụ thuộc vào thẩm quyền được trao cho chủ thể quản lý. Chủ thể
quản lý có thể là cá nhân hoặc tập thể.
Quyết định trong hoạt động lãnh đạo- quản lý bộ đội là sản phẩm của chủ
thể quản lý, vì vậy ln phản ánh ý chí chủ quan, cách thức nhìn nhận vấn đề
của các người quản lý. Như vậy, các quyết định quản lý thường mang tính chủ
quan, gắn với những nhận định chủ quan của các người quản lý về vấn đề cần
giải quyết. Điều đó lý giải vì sao các vấn đề giống nhau lại được những người
quản lý khác nhau đưa ra các quyết định khác nhau. Tuy nhiên, khi ra các quyết
định, không người quản lý nào chỉ quan tâm tới mong muốn của mình mà cịn
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên ngồi mơi trường khác. Quyết định quản
lý được người quản lý đưa ra phải dựa trên cơ sở hiểu biết và vận dụng những

quy luật khách quan vào thực tiễn hoạt động quản lý. Do đó, quyết định trong
lãnh đạo - quản lý bao hàm trong đó cả tri thức của khoa học quản lý, của q
trình phân tích logic vấn đề, đồng thời có cả sự sáng tạo và nghệ thuật điều hành
của người quản lý. Các quyết trong lãnh đạo-quản lý định quản lý đều có những
tác động lên đối tượng của quyết định, làm thay đổi hành vi, tính chất của đối
tượng mặc dù mức độ ảnh hưởng có thể khác nhau.
Bên cạnh các đặc điểm chung, xuất phát từ những đặc điểm của chủ thể ban
hành và đối tượng tác động của quyết định quản lý mà quyết định trong lãnh đạo
5


- quản lý bộ đội có những đặc điểm riêng chủ yếu sau:
Quyết định lãnh đạo - quản lý trong hoạt động quân sự được ban hành dựa
trên các quy định của pháp luật, điều lệnh, điều lệ quân đội, chỉ thị mệnh lệnh của
cấp trên. Hoạt động lãnh đạo- quản lý bộ đội là quản lý bằng pháp luật và theo
pháp luật, do đó các quyết định lãnh đạo- quản lý đưa ra phải phù hợp với các quy
định của pháp luật hiện hành. Những quyết định này có thể chứa đựng các quy tắc
xử sự chung, bắt buộc thi hành đối với các cá nhân, tổ chức (quyết định quy
phạm) hoặc được ban hành để xử lý một công việc cá biệt cụ thể (quyết định cá
biệt). Bên cạnh đó, quyết định lãnh đạo - quản lý trong hoạt động qn sự có tính
thứ bậc, tức là quyết định của cơ quan cấp trên có giá trị pháp lý cao hơn quyết
định của cơ quan cấp dưới. Theo đó, khi cần thiết phải điều chỉnh hay bãi bỏ một
quyết định lãnh đạo - quản lý thì cần sử dụng quyết định của chính cơ quan đã
ban hành quyết định đó hoặc của cơ quan cấp trên.
b, Ra quyết định trong hoạt động lãnh đạo - quản lý bộ đội
*Khái niệm:
Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”, Harold Kôtz và các
cộng sự cho rằng: ra quyết định là sự lựa chọn một trong số các phương án hành
động, là cốt lõi của việc xây dựng kế hoạch, ra quyết định có hiệu quả địi hỏi
người lãnh đạo quản lý phải biết lựa chọn phương án hành động tối ưu, trong

nhiều phương án được đưa ra.
Penten Drucke (người Anh) cho rằng: Bản chất của ra quyết định quản lý
là sự nhận xét và lựa chọn trong số các phương án hành động, trong đó khơng có
phương án nào hồn tồn đúng và hồn tồn sai. Vì trong tổ chức thực hiện nó
mới bộc lộ ra vấn đề sai sót mà trước đây ra quyết định khơng tính đến, hoặc dự
báo đến.
Tác giả Jonathan Baron (người Anh) trong tác phẩm “Suy nghĩ và ra
quyết định” quan niệm: Trước mỗi tình huống đặt ra trong cuộc sống địi hỏi con
người phải suy nghĩ quyết định cần làm gì và làm như thế nào, bản chất của việc
ra quyết định là sự lựa chọn hành động, nó được quy định bởi niềm tin, mục
đích của chủ thể và quá trình tư duy của người quản lý.
6


F.F. Aunapu quan niệm: ra quyết định quản lý là chức năng quan trọng
nhất trong số các chức năng cơ bản của người lãnh đạo quản lý, mọi công việc
của người lãnh đạo - quản lý đều dẫn tới việc ra quyết định và tổ chức thực hiện
quyết định ấy.
V.I. Mekheev cho rằng: ra quyết định quản lý là điều then chốt trong quản
lý, ra quyết định quản lý là hoạt động tư duy sáng tạo của chủ thể quản lý. Nó
sáng tạo ra phương hướng, phương pháp, hình thức và nội dung lao động của tập
thể đông đảo, ra quyết định quản lý chịu sự tác động trực tiếp của các yếu tố chủ
quan và yếu tố khách quan mới trong quản lý.
Theo Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên quan niệm: ra quyết định
là hành động ý chí hình thành theo trình tự của những hành động, nhằm thực
hiện mục đích. Trên cơ sở biến đổi thơng tin ban đầu theo tình huống bất định.
Q trình ra quyết định là khâu trung tâm của các giai đoạn biến đổi thông tin và
điều chỉnh tâm lý trong hệ thống hoạt động có mục đích. Những bước cơ bản
của ra quyết định quản lý là chuẩn bị thơng tin, phân tích thơng tin, xây dựng mơ
hình thơng tin.

Theo Giáo sư Đỗ Hoàng Toàn: ra quyết định quản lý là hành vi sáng tạo
của chủ doanh nghiệp (giám đốc) nhằm định ra mục tiêu, chương trình và tính
chất hoạt động của doanh nghiệp để giải quyết một vấn đề chín mười.
Tác giả Nguyễn Hữu Sơn cho rằng: ra quyết định là quá trình xác định
vấn đề và lựa chọn một chương trình hành động thích hợp trong số nhiều
chương trình hành động khác nhau đã được chuẩn bị nhằm đáp ứng những nhu
cầu của tình huống.
Theo các nhà tâm lý học quân sự thì: Quyết định trong hoạt động lãnh đạo
quản lý chính là phương án tối ưu của nhà lãnh đạo quản lý nhằm xử lý mâu
thuẫn giữa diễn biến của tình huống và hồn cảnh, các địi hỏi nhiệm vụ của đơn
vị phải hồn thành cùng các khả năng thực hiện chúng.
Như vây, thực chất của việc ra quyết định trong hoạt động lãnh đạo –
quản lý là quá trình tìm được phương án tối ưu để thực hiện các nhiệm vụ của
đơn vị một cách có hiệu quả.
7


Từ các quan niệm trên, có thể đưa ra khái niệm ra quyết định trong lãnh
đạo - quản lý như sau:
Ra quyết định trong lãnh đạo - quản lý bộ đội là quá trình xác định vấn đề,
đề xuất các phương án hành động và lựa chọn một phương án hành động của
người lãnh đạo - quản lý (tập thể lãnh đạo - quản lý) để tổ chức thực hiện nhiệm
vụ của đơn vị trong các điều kiện hoạt động quân sự khác nhau.
* Quy trình ra quyết định trong lãnh đạo - quản lý:
Bước 1: Xác định vấn đề ra quyết định:
Vấn đề ra quyết định được hiểu là một nhiệm vụ mà tổ chức cần giải
quyết bằng một quyết định, nếu khơng tổ chức sẽ khó có thể phát triển được.
Xác định vấn đề là bước đầu tiên có vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc ra
quyết định. Trong thực tiễn, hiện tượng thường dễ nhận ra nhưng vấn đề không
phải lúc nào cũng dễ dàng phát hiện được. Vấn đề ra quyết định có thể được

xác định thông qua kinh nghiệm, qua trắc nghiệm phân tích của nhà quản lý
hoặc của các chuyên gia, các bộ phận chức năng, cũng có thể của cấp dưới.
Trong tình huống đơn giản, nhà quản lý có thể nhanh chóng xác định được vấn
đề quyết định. Ngược lại, trong những tình huống phức tạp thường phải đề ra
quyết định một cách sơ bộ và tiếp tục thu thập, phân tích thơng tin để là rõ
nhiệm vụ quyết định. Khơng phải mọi vấn đề trong tổ chức, mọi sự sai lệch,
mọi cơ hội đều trở thành vấn đề quyết định. Chỉ những vấn đề "chín muồi" mới
trở thành vấn đề quyết định.
Bước 2: Chọn tiêu chuẩn đánh giá phương án:
Muốn so sánh các phương án một cách khách quan để lựa chọn được
phương án tốt nhất cần xác định tiêu chuẩn đánh giá các phương án. Tiêu
chuẩn này được biểu hiện bằng các chỉ tiêu số lượng và chất lượng, phản ánh
kết quả đạt mục tiêu của tổ chức hay kết quả mong muốn của việc giải quyết
vấn đề quyết định. Ví dụ để ra quyết định về lựa chọn cán bộ quản lý thường
có các tiêu chuẩn về năng lực và phẩm chất; để ra quyết định về đầu tư thường
có các tiêu chuẩn về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Lựa chọn các tiêu
chuẩn là việc không đơn giản. Nếu tiêu chuẩn không được xác định rõ thì việc
8


đánh giá và lựa chọn quyết định sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn đến tình trạng tùy
tiện, chủ quan.
Bước 3: Tìm kiếm các phương án để giải quyết các vấn đề:
Một vấn đề quyết định có thể được giải quyết bằng nhiều cách khác nhau.
Cần tìm đến tất cả các phương án quyết định có thể có, ngay cả đối với những
phương án mà mới nhìn tưởng chừng khơng thể thực hiện được. Tuy nhiên, nếu
số lượng phương án quá nhiều thì quá trình lựa chọn phương án sẽ gặp khó
khăn. Để thuận lợi cho việc phân tích và lựa chọn chỉ nên giữ lại một số phương
án thiết thực, loại bỏ những phương án khơng có tính khả thi, nhóm các phương
án tương tự lại với nhau...

Bước 4: Đánh giá phương án:
Đánh giá phương án là xác định giá trị của phương án theo tiêu chuẩn hiệu
quả. Việc đo lường hiệu quả của từng phương án cần được thực hiện theo cả hai
hướng: phân tích định lượng và phân tích định hướng. Đánh giá đúng hiệu quả
mà phương án sẽ mang lại sẽ lựa chọ được quyết định đúng. Nói một cách tổng
qt, đánh giá các phương án chính là chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của từng
phương án. Đánh giá phương án có hai nhiệm vụ: một là, xác định số đo hiệu
quả của từng phương án; hai là, loại bỏ các phương án không đáng giá. Việc
đánh giá phương án cần được tiến hành theo các phương pháp và kỹ thuật đánh
giá khoa học.
Bước 5: Lựa chọn phương án và ra quyết định:
Trong các phương án đáng giá cần phải chọn ra một phương án thỏa mãn
cao nhất các tiêu chuẩn hiệu quả, đồng thời khắc phục được những yếu tố hạn
chế. Việc lựa chọn phương án nên có sự tham gia của tập thể, của những chun
gia có kinh nghiệm, thậm chí của cấp trên. Có hai khả năng khi lựa chọn phương
án: lựa chọn theo một tiêu chuẩn và lựa chọn theo nhiều tiêu chuẩn: Trường hợp
lựa chọn theo một tiêu chuẩn, phương án nào có mức đáp ứng cao nhất tiêu
chuẩn đã đặt ra và khơng có những yếu tố hạn chế không thể khắc phục, được
xem là phương án tốt nhất. Trường hợp lựa chọn theo nhiều tiêu chuẩn, các
phương án có mức đáp ứng khác nhau về tiêu chuẩn cần phải đưa chúng về một
9


chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đáp ứng mọi tiêu
chuẩn. Trong trường hợp này, phương án nào có chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp có
giá trị lớn nhất đồng thời các tiêu chuẩn đều ở mức chấp nhận được, khơng có
yếu tố hạn chế, được xem là phương án tốt nhất.
Như vậy, ra quyết định là một quá trình hành động thực tế, là kết quả tổng
hợp dưới sự tác động của nhiều yếu tố: tâm lý cá nhân, trình độ nhận thức, suy
luận, kỹ năng thực hành…. Ra quyết định là một trong những hoạt động cơ bản

của lãnh đạo - quản lý, bên cạnh các hoạt động như: xác định mục tiêu của tổ
chức, hình thành tầm nhìn chiến lược, tổ chức và huy động các nguồn lực, xây
dựng cơ chế phản hồi và điều chỉnh, ổn định tổ chức, theo dõi và giám sát, nhằm
lựa chọn ra phương án hành động làm cơ sở cho quá trình tổ chức thực hiện.
2. Các hình thức ra quyết định
Hình thức ra quyết định là cách thức mà chủ thể quyết định dùng để thực
hiện một, một số hoặc tất cả các bước của quá trình đề ra quyết định. Trong quá
trình đề ra quyết định chủ thể quản lý có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau,
cụ thể là:
a, Ra quyết định cá nhân:
Ra quyết định cá nhân là hình thức ra quyết định dựa phần lớn vào ý chí
cá nhân, khơng có sự đóng góp ý kiến của tập thể. Một quyết định được ban
hành theo phương pháp ra quyết định cá nhân thường mang nặng ý chí chủ quan
của người ra quyết định. Hình thức ra quyết định này thường thấy ở những nhà
quản lý có phong cách lãnh đạo độc đoán. Tuy nhiên, ngay cả những nhà quản lý
có phong cách lãnh đạo dân chủ hay tự do, trong những trường hợp nhất định
cần thiết, cũng phải ra quyết định theo phương pháp này. Hình thức ra quyết
định cá nhân tuy mang nặng tính chủ quan và do đó đơi khi quyết định khơng
chuẩn xác do thiếu sự suy xét thấu đáo và thông tin cần thiết nhưng lại đặc biệt
có giá trị khi cần giải quyết các trường hợp khẩn cấp. Hình thức này thể hiện sự
quyết đoán của người ra quyết định.
b, Ra quyết định tập thể:
Ra quyết định tập thể được hiểu là một hình thức mà người lãnh đạo không
10


chỉ dựa vào kiến thức và kinh nghiệm cá nhân của mình mà cịn dựa vào kiến
thức và kinh nghiệm của tập thể để đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm về
quyết định được đưa ra. Ra quyết định tập thể thường được sử dụng để quyết
định những vấn đề quan trọng, những vấn đề phức tạp, những vấn đề có ảnh

hưởng lâu dài đến phát triển tổ chức.
Hình thức ra quyết định tập thể rất phong phú như: sự tham gia của hội
đồng tư vấn, nhóm nghiên cứu, sự tham gia của một số chuyên gia, sự tham gia
của tập thể hoặc một số cá nhân, một số bộ phận trong tổ chức. Kết quả thảo
luận của tập thể là những căn cứ quan trọng giúp các nhà quản lý đưa ra được
những quyết định đúng đắn trong phạm vi quyền hạn của mình.
Hình thức ra quyết định tập thể có ưu điểm như: Thu hút được sáng kiến
của nhiều người, đặc biệt là các chuyên gia và những người sẽ thực thi quyết
định; đảm bảo tính dân chủ của tổ chức. Tuy nhiên hình thức này có hạn chế đó
là thường kéo dài thời gian; dễ có sự ảnh hưởng của một hoặc một số cá nhân
trong tập thể đến kết luận của tập thể; có trường hợp trách nhiệm của người ra
quyết định không rõ ràng (chủ thể quyết định là cá nhân hay tập thể).
* Một số kỹ thuật của ra quyết định trong lãnh đạo-quản lý:
Trong quá trình thực hiện ra quyết định tập thể có thể áp dụng một số các
kỹ thuật như:
Kỹ thuật động não: Động não là kỹ thuật được dùng trong q trình tìm
tịi các sáng kiến của mọi người tham gia thảo luận về vấn đề sẽ quyết định. Ví
dụ, trong một cuộc họp có nhiều người tham gia, người chủ tọa nêu rõ ràng vấn
đề sao cho tất cả mọi người đều hiểu, tất cả các thành viên tự do nêu ý kiến của
mình trong khoảng thời gian ấn định trước. Kỹ thuật động não có nhược điểm là
ý kiến của mọi người trong cuộc họp dễ bị ảnh hưởng lẫn nhau.
Kỹ thuật nhóm danh nghĩa: Nhóm danh nghĩa là kỹ thuật được dùng khơng
chỉ tìm ra sáng kiến mà còn đi đến kết luận của cuộc họp. Ví dụ, các thành viên
của nhóm có mặt tại cuộc họp. Chủ tọa phát biểu về nhiệm vụ cuộc họp. Các
thành viên viết ra giấy những suy nghĩ của họ. Từng thành viên đọc những điều
họ viết. Nhóm thảo luận và đánh giá các ý kiến của từng thành viên. Từng thành
11


viên độc lập cho biết thứ tự của các ý kiến theo mức độ đúng đắn của chúng. Kết

luận cuối cùng sẽ thuộc về ý kiến có thứ bậc được tổng hợp cao nhất.
Kỹ thuật Delphi: Là kỹ thuật ra quyết định theo nhóm khi các thành viên
khơng được triệu tập tới một cuộc họp. Đây là kỹ thuật phức tạp và tốn thời
gian. Kỹ thuật Delphi giống với kỹ thuật nhóm danh nghĩa chỉ khác là các thành
viên khơng ngồi trực diện với nhau. Kỹ thuật này bao gồm các bước sau:
+ Vấn đề được xác định và các thành viên được yêu cầu đưa ra những ý
kiến qua một phiếu câu hỏi đã được chuẩn bị kỹ.
+ Mỗi thành viên hoàn thành phiếu câu hỏi một cách độc lập và nặc danh.
+ Kết quả của phiếu câu hỏi được một trung tâm thu lại, xử lý và in ra.
+ Mỗi thành viên nhận được bản in kết quả đã xử lý.
+ Sau khi xem xét kết quả, các thành viên lại được yêu cầu cho biết ý kiến
của họ. Kết quả là các thành viên thường đưa ra những ý kiến mới có sự thay đổi
so với ý kiến ban đầu của họ. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi có sự thống nhất
ý kiến. Ngồi ra, trong các lĩnh vực quản lý khác nhau, người ta còn sử dụng
nhiều phương pháp và kỹ thuật ra quyết định khác nhau như: phương pháp định
lượng toán học (sử dụng các bài tốn dự trữ, bài tốn đơn hình, bài toán vận tải,
bài toán đồng bộ ...); phương pháp cây quyết định; phương pháp phân tích độ
mạo hiểm, phương pháp linh cảm (trực giác, ngoại cảm) ...
3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tính chất của quyết định

Quá trình ra quyết định, chủ thể lãnh đạo - quản lý luôn chịu sự chi phối,
ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan và chủ quan. Cụ thể là:
a, Diễn biến của tình huống và hồn cảnh
Nếu trong điều kiện, hồn cảnh bình thường thì việc ra quyết định của
người lãnh đạo - quản lý ít phải cân nhắc, tính tốn. Ngược lại, nếu trong điều
kiện, hồn cảnh cấp bách, khó khăn phức tạp thì người lãnh đạo - quản lý phải
quyết đoán, ra quyết định khẩn trương, kịp thời, cân nhắc kỹ mọi tình huống có
thể xảy ra. Đặc biệt trong tình huống chiến đấu, một quyết định sai lầm của
người lãnh đạo, chỉ huy có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, tổn hại đến
sinh mạng của bộ đội.

12


b, Khả năng nhận thức tình huống của người lãnh đạo - quản lý
Để ra được quyết định đúng đắn, kịp thời, đòi hỏi người lãnh đạo - quản lý
phải có khả năng nhận thức rõ tình huống có vấn đề. Tình huống ở đây có thể là
những sự kiện, hiện tượng tạo ra sự quan tâm của người lãnh đạo - quản lý. Ví
dụ: Trong một đơn vị A của sư đoàn đoàn làm việc thiếu kế hoạch, kỷ luật lỏng
lẻo, mất đoàn kết.v.v. Người lãnh đạo - quản lý sư đồn đã nắm được tình hình
này, ý thức được cần phải giải quyết. Như vậy, lãnh đạo - quản lý sư đồn đã
nhận thức được tình huống có vấn đề.
Nếu người lãnh đạo - quản lý có khả năng nhận thức tình huống sâu sắc,
nhạy cảm sẽ làm cho việc ra quyết định kịp thời, chính xác. Ngược lại, nếu
người lãnh đạo - quản lý nhận thức tình huống nông cạn, hời hợt, không đầy đủ,
thiếu cơ sở khoa học thì việc ra quyết định thường sai lầm, đặc biệt là trong điều
kiện chiến đấu khẩn trương, phức tạp. Thực tế lãnh đạo - quản lý ở đơn vị cho
thấy, nhiều khi do nghiên cứu vấn đề không đầy đủ, thiếu chính xác, lại bị các
yếu tố như kinh nghiệm, thói quen, sự ảnh hưởng của người khác chi phối đã
dẫn đến sự sai sót trong quyết định quản lý.
Để ra được quyết định đúng đắn, kịp thời, người lãnh đạo - quản lý cần
không ngừng nâng cao trình độ, năng lực tư duy, khả năng nhận thức tình huống
có vấn đề đáp ứng u cầu lãnh đạo - quản lý bộ đội.
c, Sự tác động qua lại của những người cùng tham gia quyết định
Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng là: Lãnh đạo tập thể đi đôi với cá nhân
phụ trách. Do vậy, quá trình ra quyết định cần có sự tham gia của tập thể cấp
ủy; tập thể chi bộ, đảng ủy; chỉ huy.
Nếu cấp uỷ, chỉ huy ln có sự thống nhất cao, mọi người đều thấu suốt
nhiệm vụ, hiểu rõ thuận lợi, khó khăn, dân chủ bàn bạc cùng đưa ra quyết
định thì quyết định sẽ mang tính chất tích cực, đúng đắn và có sức mạnh.
Ngược lại, nếu chỉ huy, lãnh đạo thiếu nhất trí, nhận thức thiếu nhất qn thì

quyết định sẽ khơng có sức mạnh.
d, Đặc điểm tâm lý cá nhân của người ra quyết định
13


Quá trình ra quyết định của người lãnh đạo - quản lý không chỉ phụ thuộc
vào yếu tố khách quan mà còn chịu sự chi phối, ảnh hưởng bởi nhân tố chủ quan
đó là: Các đặc điểm tâm lý cá nhân của người ra quyết định. Trong đó, năng lực
ra quyết định của người lãnh đạo - quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng.
Những đặc điểm tâm lý cá nhân của người lãnh đạo - quản lý có ảnh hưởng
tới quá trình ra quyết định, bao gồm: Phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức; đặc
điểm cảm xúc, tình cảm, ý chí ; trình độ tri thức, kỹ xảo, kỹ năng ; các thuộc tính
tâm lý của nhân cách: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực. Thực tế cho thấy,
nếu người lãnh đạo - quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ, năng
lực chun mơn giỏi, nhạy cảm, quyết đốn, linh hoạt, sáng tạo, có trạng thái
tâm lý cân bằng, có tính cách ổn định thì những quyết định đưa ra thường đúng
đắn và sáng suốt.
Năng lực ra quyết định trong lãnh đạo - quản lý là một trong những yếu tố
tâm lý chủ quan quy định trực tiếp chất lượng, hiệu quả của các quyết định lãnh
đạo - quản lý (trong những điều kiện khách quan như nhau, nếu người lãnh đạo quản lý nào có năng lực ra quyết định tốt thì sẽ đưa ra được những quyết định
đúng đắn). Năng lực ra quyết định được hình thành, biểu hiện và phát triển trong
hoạt động lãnh đạo - quản lý. Nó được coi là một trong những thành tố cốt lõi
trong cấu trúc năng lực lãnh đạo - quản lý. Đó là tổ hợp của sự thành thạo
nghiệp vụ quân sự chun mơn cụ thể và các phẩm chất trí tuệ (sự thông minh,
linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo). Tuy nhiên, năng lực ra quyết định của người lãnh
đạo - quản lý là một năng lực chuyên biệt, nó cũng có cấu trúc riêng. Bao gồm:
Năng lực thu thập, sắp xếp và xử lý thơng tin.
Năng lực dự báo, dự đốn các biện pháp giải quyết các nhiệm vụ đặt ra và
đặt chúng vào những điều kiện, hồn cảnh hay tình huống lãnh đạo thực hiện
thực tế.

Năng lực phân tích các dữ liệu để lựa chọn phương án tối ưu và ra quyết
định có hiệu quả.
Biết vận dụng khéo léo các kiến nghị của bản thân, thường xuyên sử dụng
các kinh nghiệm nghề nghiệp và tình cảm trong quá trình ra quyết định.
14


Tích cực sử dụng các chuyên gia vào việc nắm bắt, nghiên cứu các vấn đề
cụ thể có liên quan đến quá trình ra quyết định. Đánh giá được hiệu quả của
những phương án hay khả năng để giải quyết vấn đề.
Trong thực tế, nhiều nhà lãnh đạo - quản lý có đầy đủ những phẩm chất tâm lý
cá nhân, có năng lực chun mơn nhưng lại thiếu năng lực quyết định, không nắm
bắt được nghệ thuật ra quyết định dẫn tới quyết định đề ra hiệu quả khơng cao.
Tóm lại, việc ra quyết định của người lãnh đạo - quản lý chịu sự tác động,
ảnh hưởng bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Mỗi yếu tố có vai trị, vị trí riêng.
Bởi vậy, khi ra quyết định, người lãnh đạo - quản lý phải tính tới các yếu tố ảnh
hưởng và không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao năng lực ra quyết định, góp
phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
*Một số yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến việc ra quyết định
Q trình ra quyết định ln bị ảnh hưởng bởi các yếu tố Tâm lý xã hội,
những khó khăn về mặt tâm lý mà việc khắc phục nó địi hỏi người lãnh đạo quản lý phải có đủ phẩm chất và ý chí cần thiết. Một số yếu tố Tâm lý xã hội
với tư cách là những khó khăn về mặt tâm lý mà người lãnh đạo - quản lý cần
phải chú ý để vượt qua, đó là:
Do thiếu thơng tin và gắn việc xử lý nó với lợi ích, giá trị của cá nhân
hay nhóm người (cục bộ địa phương, thân quen…) nên việc ra quyết định
không đúng đắn.
Quá thận trọng trong ra quyết định: Quyết định nào cũng phải “tối ưu”,
cái gì cũng muốn được, sợ thất bại, không giám quyết định.
Tâm lý tiểu nông như: đại khái, qua loa, không dám chịu trách nhiệm cá
nhân, dựa dẫm, chủ nghĩa tình cảm.

Háo danh, uy quyền mà đưa ra những quyết định có tính chất độc tài,
trấn áp và làm cho cấp dưới sợ hãi.
Sức ỳ về mặt thói quen, sự chậm trễ trong việc nắm bắt hồn cảnh mới,
tư tưởng mới. Vì khi quyết định mới ban hành và đưa vào thực hiện bao giờ
cũng chứa đựng những nhân tố mới, kèm theo những thay đổi về qui chế, qui
trình làm việc của tập thể, làm đảo lộn nếp nghĩ, thói quen làm việc theo qui chế
15


cũ nên thường gặp phải sự chống đối về mặt tâm lý của những người thừa hành
nhiệm vụ, muốn duy trì những thói quen làm việc cũ.
II. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TÂM LÝ-XÃ HỘI
NÂNG CAO HIỆU QUẢ RA QUYẾT ĐỊNH TRONG LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ BỘ ĐỘI HIỆN NAY
1. Thực trạng ra quyết định trong lãnh đạo - quản lý bộ đội

Hoạt động quân sự là một lĩnh vực đặc thù của xã hội - một loại hình “lao
động đặc biệt”, gắn liền với việc chuẩn bị chiến dấu và sẵn sàng chiến đấu. Hoạt
động mang tính chất hiệp đồng tập thể, có kỉ luật giác và nghiêm minh, diễn ra
trong mơi trường khắc nghiệt, với khó khăn, thử thách, cường độ huấn luyện
cao. Do đó, địi hỏi người cán bộ lãnh đạo- quản lý bộ đội phải có quyết định
chính xác, kịp thời, linh hoạt, có hệ thống và mang tính bao qt tồn cục trong
cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo.
Quyết định của người chỉ huy trong lãnh đạo- quản lý bộ đội là chỉ thị,
mệnh lệnh của người lãnh đạo xác định rõ lực lượng, phương tiện, biện pháp
tiến hành để đạt mục đích đặt ra, nó tác động trực tiếp đến cán bộ chiến sỹ dưới
quyền trong thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị. Quyết định của người lãnh đạo,
chỉ huy là sản phẩm của hoạt động của lãnh đạo, chỉ huy, thể hiện quyền lực, trí
tuệ, năng lực của người lãnh đạo - quản lý.
Ra quyết định trong hoạt động lãnh đạo chỉ huy nói chung, lãnh đạoquản lý trong hoạt động quân sự nói riêng là hoạt động tất yếu, thường xuyên
của người lãnh đạo, chỉ huy. Thực tế tiến hành công tác lãnh đạo, quản lý bộ

đội cho thấy, nếu quyết định của người lãnh đạo chỉ huy được ban hành
không đúng đắn, tổ chức thực hiện không nghiêm túc thì khơng những khơng
phát huy được vai trị, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động huấn luyện sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu, mà cịn gây thiệt hại, lãng phí về nhân lực, vật lực,
thời gian thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người cán bộ thừa
hành mệnh lệnh.
16


a, Ưu điểm của ra quyết định trong lãnh đạo - quản lý bộ đội
Hiện nay, phần lớn đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý trong toàn quân có
sự phát triển, trưởng thành về mọi mặt, được đào tạo cơ bản, có năng lực lãnh
đạo, chỉ huy quản lý đơn vị; nhạy cảm quyết đoán, linh hoạt sáng tạo, có trạng
thái tâm lý cân bằng, tính cách ổn định và đưa ra những quyết định thường đúng
đắn và sáng suốt. Trong q trình ra quyết định, ln bám sát chủ trương, đường
lối của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, Điệu lệnh điều lệ quân
đội và chỉ thỉ thị mệnh lệnh của cấp trên.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý các cấp có khả năng
nhận thức tình huống sâu sắc, nhạy cảm, phần lớn việc ra quyết định được kịp
thời, chính xác, phù hợp với đối tượng cán bộ chiến sĩ thuộc quyền. Việc ra các
quyết định đều được cấp uỷ, ban chỉ huy trao đổi, dân chủ bàn bạc thống nhất
cao. Mọi cấp uỷ và người lãnh đạo, quản lý đều quán triệt, nhận thức đúng
nhiệm vụ, xác định những thuận lợi khó khăn cũng như khả năng thực hiện
nhiệm vụ của đơn vị, dân chủ bàn bạc cùng nhau ra quyết định . Do vậy, phần
lớn ra các quyết định đều mang tính tích cực, đúng đắn và thể hiện sức mạnh
của ý chí tập thể, phù hợp với quan điểm, đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và quân đội.
Cùng với việc tập trung ra quyết định nhằm giải quyết những vấn đề cấp
thiết ở đơn vị; các cấp ủy đảng, người lãnh đạo- quản lý các cấp trong tồn qn
ln ln chú trọng đến việc kiểm tra thực hiện quyết định. Việc kiểm tra thực

hiện quyết định được tiến hành thường xuyên, liên tục, từ đó kịp thời nắm bắt
những thuận lợi cũng như khó khăn, từ đó có điều chỉnh kịp thời, đảm bảo quyết
định phù hợp với tình hình thực tế, đem lại hiệu quả cao.
b, Hạn chế của việc ra quyết định trong lãnh đạo - quản lý bộ đội
Trong thời gian qua việc ra quyết định ở một số cán bộ lãnh đạo, quản
lý các đơn vị trong tồn qn cịn bộc lộ những hạn chế bất cập, như:
Một bộ phận người lãnh đạo, chỉ huy nhận thức tình huống cịn chưa
đầy đủ, thiếu cơ sở khoa học; việc ra quyết định thường mắc phải những sai
17


lầm, nhất là trong điều kiện chiến đấu khẩn chương phức tạp; trong việc khen
thưởng, kỷ luật; trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chiến sỹ thuộc quyền…chưa
khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, chưa đúng đường lối quan điểm,
phương châm, của Đảng, của Nhà nước, của quân đội về vấn đề ra quyết định.
Còn xuất hiện các biểu hiện vi phạm nguyên tắc, gia trưởng, độc đoán, thiếu
dân chủ trong ra quyết định. Trước các vấn đề quan trọng liên quan đến nhiệm
vụ, quyền lợi của tập thể, cịn có biểu hiện người lãnh đạo tự quyết định mà
không trưng cầu ý kiến của cán bộ chiến sĩ dưới quyền, hoặc khi các thành viên
có đề xuất những giải pháp mang tính khả thi nhưng khơng chấp nhận. Điều này
không những làm cho quyết định không phù hợp mà cịn tạo ra bầu khơng khí
căng thẳng trong tập thể. Mặt khác, trong một số tập thể, khi lãnh đạo, quản lý
lấy ý kiến đóng góp để chuẩn bị ban hành quy định, quyết định, quy chế thì các
các thành viên khơng tham gia góp ý, đến khi ban hành thực hiện thì lại có ý
chống đối, khơng muốn thực hiện.
Bên cạnh đó, cịn có những quyết định của người lãnh đạo - quản lý khi
ban hành không phù hợp với thực tế, khó thực hiện, giải quyết vấn đề một cách
chung chung, không đảm bảo khách quan và cơng bằng.Vẫn cịn tình trạng “lạm
phát” các quyết định lãnh đạo - quản lý, các quyết định cịn mang tính dàn trải
chưa đi vào vấn đề cấp bách, có tính đột phá của đơn vị. Ở một đơn vị còn xảy

ra tình trạng “mơ phỏng” nghị quyết của cấp ủy đảng cấp trên, mà thiếu tính
sáng tạo, vận dụng phù hợp sát với thực tiễn của đơn vị mình.
Ngồi ra, cịn có cán bộ lãnh đạo- quản lý do q tin vào cơ quan tham
mưu, người dự thảo, không xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, không lắng nghe hết
ý kiến người tham gia, người phản biện, hay quá tin vào những hiểu biết chủ
quan của mình dẫn đến việc ra những quyết định không đúng thẩm quyền,
không đủ căn cứ pháp lý, quyết định có nội dung trùng lặp, chồng chéo ngay
trong bản thân quyết định hoặc những quyết định đã ra trước đó.
2. Một số biện pháp tâm lý - xã hội nâng cao hiệu quả
việc ra quyết định
18


Trong hoạt động quân sự, mặc dù việc ra quyết định quản lý đều giống
nhau về nguyên tắc, nhưng do đặc thù tính chất quản lý và đối tượng quản lý mà
người lãnh đạo - quản lý bộ đội khi ra quyết định có những điểm khác biệt.
Đồng thời, để ra được những quyết được ban hành mang tính định chủ động,
thận trọng, chính xác, đi đúng định hướng tuân thủ theo pháp luật, điều lệnh,
điều lệ quân đội; và mang lại hiệu lực, hiệu quả quản lý, người lãnh đạo - quản
lý cần chú ý tới những khía cạnh tâm lý sau:
a, Người lãnh đạo - quản lý cần cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện, tình
huống, hồn cảnh trước khi đưa ra quyết định
Quá trình ra quyết định luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng nhiều yếu tố
khách quan, chủ quan, thuận lợi, khó khăn… Do vậy, việc ra quyết định của
người lãnh đạo - quản lý cần phải tính tới tất cả các yếu tố đó.
Phải tính tới các giai đoạn, các bước của quá trình ra quyết định, gồm 3
giai đoạn:
Giai đoạn 1: Suy nghĩ và xây dựng nội dung quyết định trong đầu.
Giai đoạn 2: Hiện thực quyết định thành văn bản.
Giai đoạn 3: Thông qua con đường công văn hay truyền miệng đến người

thực hiện.
Tuy nhiên, tiến trình ra quyết định như trên khơng phải là đơn giản mà nó
gặp phải khá nhiều khó khăn khách quan và chủ quan. Do vậy, phải tính tới các
điều kiện khó khăn về khách quan và chủ quan.
Về khách quan: là những khó khăn có liên quan đến các điều kiện vật chất,
kỹ thuật cho việc thực hiện các quyết định; liên quan đến khả năng của đội ngũ
lãnh đạo - quản lý khi triển khai quyết định; các hạn chế về thời gian, về thông
tin và mức độ xử lý thông tin khi ra quyết định.
Về chủ quan: Đó là những khó khăn xuất phát từ bản thân người lãnh đạo quản lý, thể hiện ở việc hạn chế và phẩm chất tâm lý cá nhân (Phẩm chất chính
trị, đạo đức, tác phong, cá tính; phẩm chất trí tuệ; năng lực chun mơn…). u
cầu người lãnh đạo - quản lý cần không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn và tích luỹ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn quân sự.
19


b, Người lãnh đạo - quản lý phải căn cứ vào kế hoạch cơng tác và khả
năng hồn thành nhiệm vụ của người thực hiện quyết định
Cấp dưới là người trực tiếp thực hiện các quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của
người lãnh đạo - quản lý. Do vậy, nếu tính đến điều này thì các quyết định đề ra
sẽ mang tính khả thi, khơng mâu thuẫn và cản trở các kế hoạch đã có, đồng thời
phát huy được sức mạnh khả năng, sở trưởng của cấp dưới.
Do đó, người lãnh đạo - quản lý phải sâu sát cấp dưới, đánh giá đúng phẩm
chất, năng lực của cấp dưới. Giao việc cho cấp dưới đúng tầm, đúng sở trường,
đúng lúc và biết tạo điều kiện cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Giải quyết tốt
mối quan hệ cấp trên, cấp dưới. Có như vậy mới tạo ra sự nhất trí cao, sự ủng hộ
của cấp dưới làm cho các quyết định có sức mạnh thực sự.
c, Người lãnh đạo - quản lý phải tính đến đặc điểm tâm lý cá nhân của
người trực tiếp thực hiện quyết định
Mỗi cá nhân là một nhân cách có đặc điểm tâm lý khác nhau. Biểu hiện:
Nhận thức, cảm xúc - tình cảm, ý chí khác nhau; xu hướng, tính cách, khí chất,

năng lực khác nhau…. Trong thực tế, có người xu hướng chính trị, đạo đức, xu
hướng nghề nghiệp tốt nhưng trình độ năng lực chun mơn có thể khơng tốt; có
người trung thực, thẳng thắn nhưng tính tình nóng nảy, hấp tấp, vội vàng; có
người có khả năng hồn thành tốt nhiệm vụ nhưng lại thiếu cẩn thận, tỉ mỉ…
Chính vì vậy, việc ra quyết định, giao nhiệm vụ cho cấp dưới cần phải tính
tới đặc điểm tâm lý cá nhân của người thực hiện quyết định để phát huy được
sức mạnh của từng người, phù hợp với trình độ, năng lực của họ, bảo đảm cho
họ tiến hành công việc trôi chảy, thuận lợi, tránh được rủi ro.
d, Người lãnh đạo - quản lý cần phải chú ý đến hiệu quả giáo dục của
các quyết định
Quyết định chỉ mang tính giáo dục khi nó phản ánh được ý chí chung của
cả tập thể, phản ánh được nguyện vọng của từng thành viên trong tập thể.
Những quyết định như vậy sẽ tạo cho mọi người tin tưởng, ủng hộ, thơi thúc
họ tích cực khắc phục khó khăn để hồn thành tốt mọi nhiệm vụ.
20


Tính giáo dục của các quyết định được đặc biệt chú ý khi liên quan tới
vấn đề khen thưởng, kỷ luật, đề bạt, bổ nhiệm…Vì, đó là một lĩnh vực nhạy
cảm trong quan hệ người - người. Nếu đúng người, đúng việc thì sẽ có tác
dụng kích thích, thúc đẩy…. Ngược lại, thì sẽ triệt tiêu động lực, dẫn tới làm
giảm sút hiệu quả làm việc của cá nhân và tập thể. Do đó, người lãnh đạo quản lý cần đưa ra quyết định có tính giáo dục cao thì sẽ tạo ra sức mạnh và
mang lại hiệu quả cao. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đối với những người có thành tích
phải khen thưởng, đối với những người mắc sai lầm thì phải phê bình, kiểm thảo
giúp họ sửa chữa. Khi cần thiết thì phải thi hành kỷ luật nghiêm minh, đúng
mức”. Đây là lĩnh vực nhạy cảm trong quan hệ người - người (văn hố phương
đơng…), một khía cạnh tâm lý đòi hỏi người lãnh đạo - quản lý cần đặc biệt
quan tâm khi ra quyết định.

21



KẾT LUẬN
Ra quyết định trong lãnh đạo - quản lý bộ đội là quá trình xác định vấn đề,
đề xuất các phương án hành động và lựa chọn một phương án hành động của
người lãnh đạo - quản lý (tập thể lãnh đạo - quản lý) để tổ chức thực hiện nhiệm
vụ của đơn vị trong các điều kiện hoạt động qn sự khác nhau.
Ra quyết định có vai trị rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo - quản lý;
bởi vì ra quyết định sẽ chi phối tồn bộ quá trình thực hiện một nhiệm vụ của cá
nhân và tổ chức. Ra quyết định nếu như không đúng, không trúng, khơng khách
quan, khoa học, thì sẽ gây ra những bất lợi, kìm hãm sự phát triển của cá nhân cũng
như tổ chức. Chính vì vậy, nghiên cứu những vấn đề tâm lý học trong ra quyết
định có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo
quản lý bộ đội hiện nay. Để ra được quyết định đúng đắn, đòi hỏi người lãnh
đạo- quản lý cần phải nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến tính chất của các
quyết định cũng như những khía cạnh tâm lý xã hội cần chú ý trong ra quyết
định. Đồng thời phải không ngừng học tập nâng cao phẩm chất, năng lực,
phương pháp tác phong công tác của bản thân, đặc biệt là nâng cao năng lực ra
quyết định đáp ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Anh Chiến, Cơ sở tâm lý của hạ quyết tâm chiến đấu của người chỉ
huy - sư đoàn trưởng, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, H.1995.
2. Lê Văn Chiến, Bùi Phương Đình, Giáo trình Khoa học lãnh đạo, Nxb Lý
luận Chính trị, H 2018
3. Nguyễn Ngọc Chỉnh- Phạm Ngọc Uyển, Tâm lý học quản lý, Nxb GD,
H,1998.

4. Vũ Dũng, Giáo trình Tâm lý học quản lý, Nxb, ĐHSP, H. 2017
5. Nguyễn Bá Dương, Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo, Nxb CTQG,
H.2000.
6. Đỗ Duy Mơn, Giáo trình Tâm lý học lãnh đạo - quản lý bộ đội, Nxb,
QĐND, H. 2017.
7. Phạm Xuân Nguyên, Năng lực ra quyết định của sư đoàn trưởng trong chỉ
huy chiến đấu, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, H. 2010.
8. Ngơ Cơng Hồn, Tâm lý học xã hội trong quản lý, Nxb ĐHQG, H.1977.
9. Nguyễn Hải Khốt, Những khía cạnh tâm lý của cơng tác cán bộ, Nxb
CTQG, H.1996.

23



×