Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.89 KB, 98 trang )

1



Luận văn

Giải pháp nâng cao hiệu
quả huy động vốn FDI
trong các doanh nghiệp của
ngành dệt may
2

Lời mở đầu
Cùng với quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới,
Việt Nam khi bước vào thời kỳ CNH-HĐH đất nước thì không thông hình
thành một ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Nhưng thiếu vốn
đang là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, không thể
có con đường nào khác là phát triển liên doanh liên kết với nước ngoài nhằm
thu hút thêm vốn để hiện đại hoá công nghệ sản xuất những mặt hàng chất
lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
có ảnh hưởng lớn tới việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam. Chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu và
thay thế hàng nhập khẩu đó là một hướng đi đúng đắn trong chiến lược phát
triển ngành công nghiệp của ta. Hoà chung trong xu thế đó ngành công
nghiệp dệt may góp một phần không nhỏ của mình trong tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá của nước ta ra bên ngoài. Trong đó, sản phẩm hàng dệt
may thuộc khu vực đầu tư nước ngoài Việt Nam có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đây
chính là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động
nữ, suất đầu tư cho mỗi lao động thấp, triển khai hoạt động đầu tư nhanh, rất
thích ứng với những nước đang phát triển như nước ta. Đó cũng chính là lý
do mà tại sao ngành dệt may là một trong những ngành thu hút được nhiều


vốn dự án đầu tư nhất.
Đầu tư nước ngoài trong ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn lao
động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy nhược điểm lớn
nhất vẫn là chưa thoát khỏi phương thức gia công còn đơn giản, phía Việt
Nam chưa chủ động tạo ra khuôn mẫu mã, kiểu dáng, tiếp cận thị trường bên
ngoài và khác hàng mà phần lớn là do đối tác nước ngoài đảm trách. Bên
cạnh đó, ở Việt Nam dường như có sự khập khiễng giữa 2 ngành này trong
vấn đề giải quyết nguyên liệu cho ngành dệt và ngành dệt là sản phẩm đầu
vào cho ngành may. Do đó, mà chưa có tiếng nói chung giữa 2 ngành để
cùng phát triển.
3

Mặt khác, do tính phân công lao động tự nhiên dựa trên giá nhân công
trên thế giới và xu hướng chuyển dịch ngành dệt may thế giới vào các nước
đang phát triển như nước ta. Cho nên, ngành dệt may của ta đang là ngành
có lợi thế so sánh với các nước có trình độ phát triển cao hơn.
Với những lợi thế và khó khăn chung của nền kinh tế nói chung và của
ngành dệt may nói riêng. Chúng ta cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể,
những hướng đi đúng đắn nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành
dệt may tạo ra một bước đi đột phá trong công nghiệp dệt may xứng đáng là
một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của phần vào tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá chung của nước ta. Đưa nước ta trở thành một nước
CNH – HĐH xứng tầm khu vực và thế giới.
Chính từ sự trăn trở đó, cũng như ý nghĩa vai trò to lớn của đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dệt may, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng
cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt
may” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.Tuy nhiên, đây là vấn đề
khó cần được phân tích tổng hợp ở mức độ cao nhưng do khả năng và thông
tin có hạn, nên bài viết sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở tiềm năng và triển vọng
của hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua, phân tích và đánh giá
thực trạng của ngành dệt may. Từ đó đưa ra những giải pháp để tăng cường
khả năng thu hút thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thay đổi hướng
sản xuất, đầu tư trang thiết bị máy móc cho toàn ngành nhằm đẩy mạnh khả
năng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Nội dung đề tài bao gồm các phần sau:
Chương I : Một số lýluận chung về đầu tư , đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may .
4

Chương III : Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài .















PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)

VỚI TĂNG TRỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
5

I. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ:
1-Khái niệm về vốn đầu tư và các nguồn hình vốn đầu tư
1.1.Khái niệm:
Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá để tiến hành bất kỳ hoạt
động sản xuất kinh doanh nào đều cần phải có vốn.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mới hình thành, số tiền này được
dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị để tạo ra các cơ sở vật
chất kỹ thuật (các tài sản cố định) cho các cơ sở này tạo ra vốn lưu động
thông qua hoạt động mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao
động trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động, thì số tiền này dùng
để mua sắm thêm máy móc thiết bị xây dựng thêm nhà xưởng hoặc mua sắm
thêm các tài sản cố định thay thế các tài sản cố định đã bị hư hỏng hoặc đã bị
hao mòn.
Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động là rất lớn, không thể trích ra
một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các cơ sở, các xã hội vì điều
này sẽ làm xáo động mọi hoạt động bình thường của sản xuất và sinh hoạt
của xã hội. Do vậy số tiền sử dụng cho các hoạt động trên đây chỉ có thể là
tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh là tiền tiết kiệm
của nhân dân và vốn huy động từ nước ngoài.
Từ đây ta có thể rút ra định nghĩa ngắn gọn về vốn đầu tư.
’Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh
doanh, là tiền tiết kiệm của nhân dân đa vào nhằm thay thế tài sản cố định bị
loại thải để tăng tài sản cố định mới và tăng tài sản tồn kho’’
1.2. Các nguồn hình thành vốn đầu tư
Bất kỳ một xã hội nào muốn phát triển không ngừng đều phải tiến
hành đầu tư để đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở

6

rộng. Cụ thể là phải tạo ra các nguồn đầu vào cho sản xuất như sức lao động,
tư liệu lao động. Nói cách khác chúng ta cần phải có tiền để trang trải các
chi phí ứng trước này.
1.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước:
* Vốn ngân sách Nhà nước:
Được hình thành từ quỹ tiết kiệm ngân sách. Tiết kiệm ngân sách của
Nhà nước là khoản chênh lệch giữa tổng thu ngân sách và chi của Chính
phủ.
* Vốn tự có của doanh nghiệp: được hình thành do doanh nghiệp tự bỏ
ra nếu là doanh nghiệp Nhà nước; là doanh nghiệp liên doanh thì các bên
cùng bỏ vốn; là doanh nghiệp tư nhân do tư nhân tự bỏ vốn ra. Lợi nhuận
của doanh nghiệp có một phần để bổ xung cho vốn kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Vốn của tư nhân và vốn các hộ gia đình: là các khoản tiết kiệm từ các
nguồn thu có được từ dân cư và từ các hộ gia đình.
* Vốn của các tổ chức tín dụng: là nguồn vốn được các tổ chức tín
dụng huy động từ vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và dân
cư thông qua các kênh tín dụng.
1.1.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
* Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không
hoàn lại và các khoản viện trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn với lãi suất thấp
và thời gian gia hạn dài) của chính phủ, các nước của tổ chức liên hợp quốc,
các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế như: ngân hàng thế giới
(WB), ngân hàng phát triển châu á (ADB), quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) dành
cho chính phủ nhân dân nước viện trợ mà chủ yếu dành cho các nước đang
phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi của các nước này.
7


- Đặc điểm của nguồn vốn ODA:
+ Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không
trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp.
+ Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu
đãi.
+ Các nước nhận vốn ODA phải có một số điều kiện nhất định theo quy
định của từng nhà tài trợ mới đợc nhận tài trợ.
+ Chủ yếu dành sự hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như
giao thông vận tải, y tế, giáo dục
+ Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương hoặc các tổ chức
viện trợ song phương.
* Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (non - Government
organization - NGO).
Viện trợ NGO đều là các viện trợ không hoàn lại, trước đây loại viện
trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo như: cung cấp
thuốc men cho các trung tâm y tế, lương thức cho các nạn nhân thiên
tai, Hiện nay hình thức này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chơng
trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trơ của các chuyên gia thường trú về các
mặt như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập các
dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn, cung cấp dinh dưỡng và
sức khoẻ ban đầu
* Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct investment - FDI)
Đây là nguồn vốn của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát
triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm sau:
Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư nước
ngoài quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao,
8


không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho
nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp
liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu
vực chủ đầu tư chỉ đợc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong
một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ
phần của bên nước ngoài nhỏ hơn 49%. Trong khi đó, Luật đầu tư nước
ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước
ngoài và quyết định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định
của dự án.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi quản lý là những mục tiêu mà các
hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ
đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn
bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng
nh vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được.
2.Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó, những thay
đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để
đo lường hiệu quả của vốn đầu tư thấy được vai trò của vốn đầu tư với tăng
trởng kinh tế, ta lần lợt xem xét các lý thuyết:
2.1. Mô hình tái sản xuất mở rộng trong lý thuyết kinh điển:
Trong tác phẩm “Tư bản”, C. Mác đã dành phần quan trọng để nghiên
cứu về cân đối kinh tế về mối quan hệ về giữa hai khu vực của nền sản
xuất xã hội để đảm bảo quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng và các
vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ.
9


Với những giả định về một nền kinh tế không có trao đổi ngoại thương
C.Mác đã chững minh điều kiện để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng
không ngừng.
Nền kinh tế chia thành hai khu vực:
Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất.
Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Và cơ cấu tổng giá trị của các khu vực bao gồm (C+V+M) trong đó:
C là phần tiêu hao vật chất;
V+M là giá trị mới sáng tạo ra.
Để quá trình tái sản xuất mở rộng được thực hiện phải đảm bảo giá trị
mới sáng tạo ra (V+M)I của khu vực I phải lớn hơn tiêu hao vật chất CII
của khu vực II:
(V+M) > CII
hay là (C+V+M)I > (CI+CII)
Như vậy, tư liệu sản xuất làm ra không những chỉ bồi hoàn cho những
tiêu hao (CI+CII) trong cả hai khu vực của nền kinh tế mà tư liệu sản xuất
còn phải sản xuất dư thừa để tham gia quá trình đầu tư làm tăng thêm quy
mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao quát nhiều quá trình rộng lớn từ lực l-
ợng sản xuất cho đến quan hệ sản xuất. Đầu tư là nhằm tạo ra vốn sản xuất,
một yếu tố quan trọng cùng với tái tạo lưc lượng lao động sẽ đảm bảo quá
trình tái sản xuất không ngừng. Trong điều kiện mới của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ ngày nay, đầu tư với số vốn như trước cũng có thể
tạo ra những vốn sản xuất có năng lực lớn hơn.

2.2 Mô hình tăng trởng của Harrod - Domas
10
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40, với sự nghiên cứu
của một cách độc lập hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay

Domas ở Mỹ đã đa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế
và thất nghiệp ở các nước phát triển, mô hình này cũng được sử dụng rộng
rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và
các nhu cầu về vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị nào, dù là một công ty, một
ngành, hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trởng của đầu ra là g thì:
g=
t
Y
Y



Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S:
s =
t
t
Y
S

Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn
bằng tiết kiệm S
t
= I
t

s =
t
t

Y
I

Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do I
t
= K
t
+ 1
Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn - đầu ra ta sẽ có:
k =
Y
1K
t



hay k =
Y
I
t



t
Y
Y

=
tt
t

Y.I
Y.Y

=
Y
I
:
Y
I
t
t
t


tức là: g =
k
s

11
Trong đó:
S: số tiền tiết kiệm hàng năm.
I: Vốn đầu tư hàng năm.
K: Vốn sản xuất hàng năm.
Ở đây k gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói
lên rằng vốn đợc tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trởng. Hệ số
này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản
xuất của đầu tư.
Hệ số ICOR giữa các nước khác nhau là khác nhau. Các nước càng
phát triển thì hệ số ICOR càng lớn. Kinh nghiệm các nước cho thấy chỉ tiêu
ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các

ngành các lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế
nói chung. Thông thờng ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế (chủ yếu tận dụng do năng
lực sản xuất sẵn có) thấp hơn trong giai đoạn tạo tiền đề cho đẩy mạnh công
nghiệp hoá (phải xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong những năm tới).
Tóm lại, mặc dù mô hình Harrod - Domas đơn giản nhng cho ta thấy rõ
đợc vai trò của vốn đầu tư với tăng trởng kinh tế. Các nhà lập kế hoạch có
thể căn cứ vào mô hình này để xác định tỷ lệ tiết kiệm và vốn đầu tư cần
thiết để đạt được mức độ tăng trởng kinh tế đề ra.
2.3 Tác động của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo kinh tế học vĩ mô, khi có một sự thay đổi trong đầu tư có thể tác
động lớn đối với tổng cầu do vậy sẽ tác động sản lượng công ăn việc làm.




DL
DL
1

DL
0

Y
0
Y
1

AS
AD

1

AD
0

12






Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này
làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD
0
- AD
1
do vậy làm cho mức sản
lượng tăng lên từ Y
0
- Y
1
và mức giá cũng tăng lên từ DL
0
- DL
1
.
Ngày nay, vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của
quá trĩnh, vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất tăng năng lực

sản xuất của các doanh nghiệp và nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để
nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư
theo chiều sâu , hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng
góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở
rộng ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất.
II. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nớc ngoài với tăng trưởng,
phát triển kinh tế
1.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn
đầu tư và người sử dụng vốn là cùng một chủ thể. Có nghĩa là các
doanh nghiệp , các cá nhân ngời nớc ngoài (chủ đầu tư )trực tiếp tham gia
vào quá trình quản lý, sử dụng và vận hành kết quả đầu t nhằm thu hồi vốn
đã bỏ ra và có lãi.
2.Vai trò của vốn FDI với tăng trưởng kinh tế.
13
Đầu tư là nhân tố quan trọng của mọi quá trình phát triển kinh tế xã hội
cho mọi quốc gia. Đối với tất cả các nước thì đầu tư nước ngoài là bộ phận
quan trọng không thể thiếu được trong tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế xã
hội của đất nước đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và các nền kinh
tế chuyển đổi như Việt Nam, các nước Trung- Đông Âu Nó là điều kiện
quan trọng để khai thác và phát triển nguồn lực trong nước. Việc thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những chính sách kinh tế
quan trọng của mỗi nước. Ví vậy, họ đều cố gắng đa ra những chính sách cởi
mở nhất để đầu tư nước ngoài.
Thực chất của đầu tư nước ngoài là hình thức hợp tác kinh tế giữa
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài nhằm các mục tiêu
khác nhau cả trên góc độ nhà đầu tư và nước chủ nhà.Đầu tư trực tiếp nước
ngoài phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ hai khi thị trường tư bản phát
triển, cạnh tranh quốc tế trở nên gay gắt, các khu vực kinh tế thế giới xuất
hiện và bớc vào sự phân công quốc tế mới về kinh tế.

Đối với các nhà đầu tư, đầu tư nước ngoài là một hình thức đầu tư để
thu lợi nhuận cho công ty. Nó quyết định sự sống còn và phát triển của công
ty ở một thị trường nước ngoài nhờ khai thác lợi thế so sánh của nước ngoài
như nguyên liệu, lao động, thị trường . Đối với các nước công nghiệp mới
và các nền kinh tế chuyển đổi thì đầu tư nước ngoài không những cung cấp
vốn cho phát triển kinh tế trong nứơc mà còn tạo thêm việc làm cho ngời
lao động góp phần giảm thất nghiệp, tạo ra những ngành công nghiệp mới,
đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao và các
ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu.
Vai trò của đầu tư trực tiếp nớc ngoài đối với các nước nhận đầu tư đư-
ợc thể hiện ở một số mặt cụ thể sau:
Một là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung một nguồn vốn quan
trọng, bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở các nước đang
phát triển tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế.
14
Hai là: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần phát triển
nguồn nhân lực, tạo việc làm và tăng thu nhập cho ngời lao động. Các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đòi hỏi nguồn lao động có chất lợng cao
do đó sự gia tăng của các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt các nước sở tại
trước yêu cầu khách quan là phải nâng cao chất lợng , trình độ chuyên môn
kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ cho người lao động.
Ba là: Đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến cân đối của nền kinh tế,
hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng tỉ trọng xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo khả năng
chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi.
Bốn là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá để tham gia ngày càng
nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế, thu hút ngày càng nhiều
vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của
mình cho phù hợp. Mặt khác, sự gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài

đã làm xuất hiện nhiều ngành mới, lĩnh vực mới, góp phần thúc đẩy sự phát
triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật, công nghệ của nhiều ngành kinh tế, thúc
đẩy sự tăng năng suất lao động của các ngành này và làm tăng tỷ phần của
nó trong nền kinh tế . Nhiều ngành được kích thích phát triển còn nhiều
ngành bị mai một và đi đến xoá sổ.
Năm là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở
các nước đang phát triển, tận dụng, tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước
ngoài, các nước đang phát triển đã sử dụng để thực hiện các mục tiêu trong
chiến lược phát triển kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trởng kinh tế, thoát
khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
Sáu là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh của Việt Nam. Khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị
trường trong nước thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt
là các hoạt động dịch vụ như thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ
15
cao tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ
hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài cũng tạo nên những mô hình quản lý và phương thức kinh
doanh hiện đại, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới tư duy, thay
đổi cách thức quản lý, cải tạo nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức
cạnh tranh trên thị trường.
Bên cạnh những vai trò quan trọng trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế:
Thứ nhất: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh
với các doanh nghiệp trong nước.Với ưu thế về vốn, công nghệ, các dự án
đầu tư nước ngoài đã đặt các doanh nghiệp trong nước vào vòng xoáy cạnh
tranh khốc liệt về thị trừơng, lao động và các yếu tố nguồn lực khác.
Thứ hai: Chi phí để tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài lớn. Các nước
nhận đầu tư đã phải áp dụng nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài

như: miễn giảm thuế, giảm tiền thuê đất, nhà xưởng
Thứ ba: Đầu tư nước ngoài đã tạo ra một cơ cấu bất hợp lý, hiệu quả
kinh tế xã hội chưa cao. Mục đích chính của các nhà đầu tư nước ngoài là
tìm kiếm lợi nhuận ngày càng nhiều do đó họ chủ yếu đầu tư vào các ngành
công nghiệp, dịch vụ nơi có mức tỷ suất lợi nhuận cao.
Thứ tư: Chuyển giao công nghệ lạc hậu. Dưới sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật, quá trình nghiên cứu-ứng dụng ngày càng
được rút ngắn, máy móc thiết bị nhanh chóng trở nên lạc hậu. Để loại bỏ
chúng, nhiều nhà đầu tư đã cho chuyển giao sang các nước nhận đầu tư như
một phần vốn góp. Việc làm đó đã làm cho trình độ công nghệ của các nước
nhận đầu tư ngày càng lạc hậu.
Thứ năm: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại hiện tượng
“chảy máu chất xám”.Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo nhiều điều kiện
thuận lợi về thu nhập, việc làm do đó đã lôi kéo một bộ phận không nhỏ cán
16
bộ khoa học kỹ thuật, nhà nghiên cứu, công nhân lành nghề của nước ta về
làm việc cho họ.
Thứ sáu: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có thể gây ra
những bất ổn về chính trị, mang theo nhiều tệ nạn xã hội mới xâm nhập vào
nước ta.
3-Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a, Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Là hình thức liên kết giữa các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước để
cùng nhau tiến hành một hay nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam theo
từng văn bản hợp đồng cụ thể trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên không thành lập pháp nhân mới.
Hình thức này có đặc điểm:
- Không cho ra đời một công ty nào mới.
- Trong nội dung chính phải phản ánh là quyền lợi trách nhiệm của các
bên đối với nhau (không nhất thiết phả dề cập đến việc góp vốn của các

bên).
- Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với
tính chất mục tiêu kinh doanh.
- Trong quá trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp
nhân của mình.
b, Doanh nghiệp liên doanh.
Theo khoản 7 điều 2 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định:
“Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết
giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ
nước ngoài hoặc là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với
17
doanh nghiệp Việt Nam, hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà
đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”.
Hình thức này có đặc điểm:
- Thành lập doanh nghiệp mới (pháp nhân mới) hoạt động trên nguyên
tắc hạch toán độc lập, dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Phần góp vốn của nước ngoài không hạn chế mức tối đa nhưng tối
thiểu không được dới 30% vốn pháp định và trong quá trình hoạt động
không đợc giảm vốn pháp định.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng
quản trị, mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ vốn
góp của các bên, nhưng ít nhất phải là 2 người. Tổng giám đốc hoặc phó
tổng giám đốc thứ nhất của liên doanh phải là người bên Việt Nam và thư-
ờng trú tại Việt Nam.
- Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi do
theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên trong vốn pháp định.
c, Doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài.
Là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư là người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn
thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh trên đất nước Việt Nam, họ trực tiếp nắm

quyền điều hành và quản lý các cơ sở này, chịu trách nhiệm hữu hạn có tư
cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
d, Các hình thức khác.
* Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BOT là văn bản ký
kết giữa chủ đầu tư nước ngoài với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây
dựng các cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư xây
dựng và kinh doanh trên công trình đó, đủ để thu hồ vốn và có lãi hợp lý, sau
đó phải có nghĩa vụ chuyển giao công trình để cho Nhà nước Việt Nam.
* Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BOT) là văn bản ký
kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước
18
ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt
Nam cho nhà đầu tư quyền kinh doanh trên công trình đó trong một khoảng
thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý.
* Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà
nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
III- XU HỚNG VẬN ĐỘNG CỦA FDI TRONG THẬP KỶ QUA VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT FDI TRONG GIAI ĐOẠN HẬU KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC
1- Xu hướng vận động của FDI trong thập kỷ qua.
a, Dòng vốn FDI trên thế giới ngày càng gia tăng và chịu sự chi phối
chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển.
Trong những năm đầu thập kỷ 90, quy mô vốn FDI trên thế giới bình
quân hàng năm khoảng 190 tỷ USD, nhng đến năm 1995 đã đạt khoảng 315
tỷ USD, các nước công nghiệp phát triển đóng vai trò chủ yếu trong dòng

vận động của vốn FDI. Từ đầu những năm 90 trở về trước, nguồn vốn FDI
có từ quê hương những nước công nghiệp phát triển chiếm trên 93% và hiện
nay cung chiếm 85% tổng vốn FDI của thế giới. Đồng thời các bớc tư bản
phát triển cũng thu hút 3/4 vốn FDI của thế giới. Tính riêng năm 1995, các
nước công nghiệp phát triển đầu tư ra nước ngoài tới 270 tỷ USD và cũng
thu hút FDI vào nước mình 203 tỷ USD. Các dòng vốn đầu t tập trung vào
một số ít nước. Chỉ tính riêng 10 quốc gia thu hút vốn FDI lớn nhất đã chiếm
tới 2/3 vốn FDI của năm 1995. Dòng đầu tư lẫn giữa các nước phát triển là
xu hớng vận động chủ đạo của đầu tư quốc tế và là nhân tố chính thức đẩy
quá trình toàn cầu hoá.
19
Sở dĩ có hiện tượng tăng cuờng lẫn nhau giữa các nước công nghiệp
phát triển là do một số nguyên nhân chính sau:
+ Cách mạng kho học công nghệ đã làm xuất hiện nhiều ngành công
nghiệp mới, nhiều sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao (như
viễn thông, tin học, điện tử ) đây là những ngành hứa hẹn lợi nhuận siêu
ngạch lớn đem lại khả năng chi phối kinh tế thế giới trong tương lai nếu làm
chủ nó, vì vậy có sức hấp dẫn mạnh tới đầu tư.
+ Môi trường đầu tư của các nước phát triển đã hoàn thiện, chế độ
chính trị khá ổn định, trình độ công nghệ cao phù hợp với yêu cầu đầu tư của
các tập đoàn xuyên quốc gia.
+ Xu thế hình thành các khối hợp tác kinh tế khu vực đang gia tăng, do
đó các nước tăng cường đầu tư vào các khối hợp tác kinh tế này (EU,
AFTA ) để được hưởng tự do về thương mại và đầu tư.
b, Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi
nhánh công ty nước ngoài.
Sự phát triển gần đây của dòng vốn FDI đã phản ánh sự gia tăng của
các công ty có vốn FDI, làm cho hoạt động FDI có tính toàn cầu, để phản
ứng lại áp lực cạnh tranh. Việc hợp nhất, mua lại các công ty để thành lập
chi nhánh sản xuất ở nước ngoài giúp các tập đoàn xuyên quốc gia bảo vệ,

củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong quá trình cạnh tranh quốc tế.
Đặc biệt hình thức đầu tư này giúp sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và
hệ thống phân phối sẵn có để phục vụ tốt hơn cho khách hàng toàn cầu, mở
rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh và thu lợi nhuận.
Giá trị của các giao dịch hợp nhất, mua bán cổ phần các công ty nước
ngoài trong năm 1995 đạt 229 tỷ USD trong đó chủ yếu là các giao dịch mua
bán. Những ngành công nghiệp diễn ra những hoạt động hợp nhất mua bán
hợp vốn với nước ngoài nhộn nhịp nhất là viễn thông, dược phẩm, cung cấp
năng lượng và dịch vụ tài chính. Chỉ tính năm trong năm 1995 các nước Tây
Âu đã dành 66 tỷ USD để mua cổ phần hợp nhất hoặc hợp vốn công ty và bán
20
ra cũng đạt 50 tỷ USD. Hoạt động này chủ yếu diễn ra trong liên minh Châu
Âu.
c, Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới.
Sự phát triển kinh tế luôn đặt ra vấn đề là phải dịch chuyển cơ cấu kinh
tế theo hướng hiện đại hoá và phù hợp với xu thế hội nhập với nên kinh tế
thế giới. Để giải quyết vấn đề này phả bắt đầu từ hoạt động đầu tư, việc thay
đổi cơ cấu đầu tư làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dưới tác động của cách
mạng khoa học công nghệ, ngày càng có nhiều ngành kinh tế ra đời và phát
triển nhanh chóng, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới xuất hiện thay
thế cho nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh truyền thống trước đây.
Trong giai đoạn hiên nay hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ là lĩnh
vực thu hút vốn đầu tư thị trường nước ngoài mạnh nhất, còn các ngành
truyền thống như khai khoáng và nông nghiệp giảm đi, sở dĩ FDI tập trung
nhiều vào hai ngành đó là do:
- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất đời sống nhân dân ngày
càng nâng cao, vì vậy nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ sản xuất kinh
doanh và đời sống tăng lên mạnh mẽ nhất là về mặt dịch vụ kỹ thuật, tài
chính, du lịch đòi hỏi ngành dịch vụ phải phát triển tương ứng.
- Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những

phân ngành đó thuộc lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ nh điện tử, thông tin liên lạc vật liệu mới
- Do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ dàng thực hiện sự hợp
tác.
d, Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò rất quan trọng
trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạn quá trình đầu tư ra nư-
ớc ngoài. Hiện nay các TNCs đang chi phối , kiểm soát phần lớn sản xuất,
kinh doanh trên thế giới. Từ thập kỷ 80 đến nay các công ty xuyên quốc gia
đã kiểm soát toi 90% vốn FDI.
21
e, Dòng vốn FDI vào các nớc đang phát triển gia tăng mạnh mẽ, đặc
biệt là các nước đang phát triển ở Châu Á
Nguồn vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng cả về quy mô lẫn
tốc độ dẫn đến tỷ trọng thu hút vốn FDI của các nước này tăng nhanh. Trong
năm 1990 các nước đang phát triển tiếp nhận được 33,7 tỷ USD thì đến năm
1985 đã tiếp nhận được 99,7 tỷ USD chiếm 32% tổng vốn FDI của thế giới.
Tuy nhiên nguồn vốn FDI phân bố không đồng đều giữa các nước đang
phát triển mà chỉ tập trung vào một số nước và khu vực nhất định. So với các
nước đang phát triển thì các nước thì các nước và nền kinh tế khu vực Đông
Nam Á thu hút vốn FDI mạnh nhất, tạo nên sự bùng nổ về thu hút vốn FDI
những năm qua, đặc biệt là từ cuối thập kỷ 80 trở lại đây, trong đó đặc biệt
là Trung Quốc, các nớc NICs châu á, các nớc ASEAN.
2-Các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI :
Trên thế giới đã từng diễn ra rất nhiều cuộc khủng hoảng với quy mô
và mức độ thiệt hại lớn nhỏ khác nhau. Nó ảnh hởng đến nhiều lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia hay khu vực đó. Bằng những biện
pháp khắc phục khác nhau của Chính phủ từng nước đã hạn chế được phần
nào ảnh hưởng của các khủng hoảng đó. Nhưng sau các khủng hoảng không
phải các lĩnh vực của quốc gia khu vực đó có thể phục hồi và phát triển ngay
lại đợc mà nó còn phụ thuộc vào các chính sách sau này của từng nước.

Trong số các lĩnh vực đó thì lĩnh vực huy động vốn FDI chịu rất nhiều ảnh
hưởng:
2.1 Sự mất ổn định về kinh tế chính trị.
Chính trị là yếu tố hàng đầu mà các nhà đầu tư cần phải xem xét có nên
đầu tư một nước nào đó hay không kinh nghiệm cho thấy chính trị ổn định
sẽ khuyến khích FDI, rủi ro của các nhà đầu tư nước ngoài có liên quan đến
sự bất ổn định chính trị.
22
Sự ổn định kinh tế là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi
đầu tư. Đối với vốn nước ngoài điều này càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Để thu hút đợc dòng vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế nội địa phải là nơi
an toàn cho sự vận động của tiền vốn, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao
hơn các nớc khác.
Nhng một nền kinh tế nào đó đã rơi vào tình trạng khủng hoảng thì dù
sau đó có khắc phục được đi nữa thì nền kinh tế đó vẫn không thể phát triển
ngay lại được, tỷ lệ tăng trởng kinh tế thấp, các hoạt động kinh tế phát triển
chậm chạp. Bên cạnh sự phát triển kinh tế thấp, tình hình chính trị cũng mất
sự ổn định. Sự mất ổn định về kinh tế, chính trị này sẽ còn kéo dài không thể
khắc phục ngay được và sẽ hạn chế rất nhiều việc huy động vốn FDI.
2.2 Các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn tới FDI nhất là các chính sách
kinh tế trực tiếp giải quyết vốn để đầu tư như các quy định về chuyển giao
lợi nhuận, các chính sách thơng mại Chính sách thơng mại và đầu tư có
ảnh hưởng lớn đến khả năng nhập khẩu các thiết bị máy móc, nguyên vật
liệu sản xuất và do đó thực sự trở thành mối quan tâm của các ngành, đặc
biệt là ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu, mà ngành này thường muốn có
chi phí sản xuất thấp để tăng tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, các chính sách
kinh tế cũng phải giả quyết được vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ.
Trong giai đoạn hậu khủng hoảng Chính phủ các nước thường đa ra các
chính sách kinh tế vĩ mô nhằm khắc phục ảnh hưởng khủng hoảng, và các

chính sách đó có thể khuyến khích hoặc hạn chế FDI, các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ xem xét tìm hiểu các chính sách mới của nước đó có lợi cho mình
hay không rồi mới quyết định có đầu tư vào nước đó hay không.
2.3 Luật đầu tư nước ngoài:
Nhân tố này sẽ kìm hãm hoặc thúc đẩy sự gia tăng của hoạt động đầu tư
nước ngoài thông qua:cơ chế, chính sách, thủ tục, ưu đãi được quy định
trong luật. Luật đầu tư nước ngoài được coi là thông thoáng và hấp dẫn khi
23
thủ tục cấp giấy phép đầu tư nhanh chóng và thuận tiện, các biện pháp
khuyến khích và bảo đảm của Chính phủ đối với các dự án đầu tư phải rõ
ràng, cụ thể không có sự phân biệt về giá đất, về thuế giữa các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài. Khi luật đầu tư hấp dẫn, các nhà đầu t nớc ngoài
nhận thấy đầu tư vào Việt Nam hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước khác
trong khu vực thì họ sẽ đầu tư vào Việt Nam thay vì đầu tư vào các nước
sang các nước khác

2.4.Đặc điểm của thị trường nhân lực
Giá thuê nhân công rẻ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư
nước ngoài đặc biệt là đối với những dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
sử dụng nhiều lao động. Giá nhân công rẻ đồng nghĩa với việc thu được
nhiều lợi nhuận hơn. Mà lợi nhuận lại là thước đo khẳng định các nhà đầu tư
có tiến hành đầu tư hay không.Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn kĩ
thuật,trình độ học vấn cũng có ý nghĩa nhất định. Do đó, muốn thu hút đ-
ược nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài trong những năm tới để phục vụ
cho quá trình phát triển của nền kinh tế, bên cạnh việc tiếp tục phát huy lợi
thế so sánh về nhân lực chúng ta cần có những biện pháp nâng cao tay nghề
của người lao động .
2.5.Công tác quản lý nhà nước đối với FDI còn yếu kém và sơ hở,
vừa buông lỏng, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp FDI. Thủ tục đầu tư còn phức tạp nhiều tiêu cực

gây khó khăn cho quá trình triển khai dự án, tốn kém thời gian , tiền của của
nhà đầu tư ,ảnh hởng xấu đến môi trờng đầu tư .
2.6.Một số yếu tố khác: Sức mua của thị trờng bản địa, tâm lý của các
nhà đầu tư , khả năng thu hồi vốn, mức độ ổn định của chính sách tiền tệ và
mức độ rủi ro của tiền tệ ở nước nhận đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu
IV-/ KINH NGHIỆM HUY ĐỘNG VỐN FDI CỦA MỘT SỐ NƯỚC.
1-Kinh nghiệm thu hút FDI của Malaysia:
24
Malaysia là một trong những nước có tốc độ thu hút vốn FDI cao trong
các nước ASEAN. Năm 1968, Chính phủ Malaysia đã công bố luật đầu tư
nước ngoài với những quy định:
+ Không quốc hữu hoá các doanh nghiệp có vốn FDI.
+ Cho phép các công ty hoạt động trong khu vực của đồng bảng Anh
được phép hoàn lại vốn tự do chuyển ra nước ngoài.
+ Ưu đãi thuế về hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) nếu đầu t vào các
ngành, khu vực khuyến khích.
Malaysia thực hiện:
- Miễn thuế 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh và được kéo
dài 5 năm nữa nếu nhà đầu tư đáp ứng được những tiêu chuẩn của cơ quan
đầu tư như giá trị kim ngạch xuất khẩu, tình hình thu hút và sử dụng lao
động.
- Thực hiện miễn thuế hoặc giảm thuế lợi tức trong 5 năm kể từ khi có
lãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 50% sản phẩm đầu ra và trong sản
phẩm sản xuất kinh doanh sử dụng trên 50% nguyên liệu của họ.
- Trong giá thành sản phẩm, khoản chi phí đào tạo được phép nhân hệ
số để khuyến khích các doanh nghiệp có vón FDI nâng cao tay nghề, đào tạo
cán bộ quản lý và công nhân Malaysia.
2-Kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc:
Đối với Trung Quốc, FDI đợc coi là chìa khoá vàng trong sự tăng trởng
kinh tế trong nhiều năm qua. Thật vậy, từ năm 1979 đến năm 1996, Trung

Quốc đã phê chuẩn 283.793 dự án dùng vốn nớc ngoài với tổng số vốn ký
kết đạt 469,33 tỷ USD. Trong đó có 177,22 tỷ USD đã đa vào sử dụng, tỷ lệ
vốn đợc sử dụng là 37,76%. Vào thời điểm cuối năm 1996 ở Trung Quốc đã
có khoảng 140.000 xí nghiệp dùng vốn nớc ngoài đang hoạt động. Khoảng
200 trong tổng số 500 tập đoàn kinh doanh lớn nhất trên thế giới đã đầu tư
vào Trung Quốc. Từ năm 1993 đến nay Trung Quốc chỉ đứng thứ 2 sau Hoa
25
Kỳ xét về khối lượng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Rõ ràng một khối lợng
vốn lớn nh vậy đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh
tế và CNH - HĐH ở Trung Quốc. Để có được những kết quả khả quan trên,
Trung Quốc đã sử dụng một số biện pháp sau:
+ Mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư và tạo môi trờng kinh doanh
thuận lợi.
+ Thực hiện các chính sách ưu đãi đặc biệt là thuế. Trong thời kỳ đầu mở
cửa, các cơ sở mới với thời gian liên doanh hơn 10 năm được hưởng các chế
độ miễn thuế thu nhập trong 1 năm đầu làm ra lãi và được giảm 50% thuế thu
nhập trong 2 năm tiếp theo. Về sau thời gian giảm thuế tăng lên tương ứng là
2 - 3 năm. Các cơ sở ở các đặc khu kinh tế hay những xí nghiệp sản xuất kinh
doanh phục vụ xuất khẩu, nhập khẩu vật tư được miễn thuế hải quan từ 5 -
25%.
+ Đa dạng hoá các hình thức đầu tư và chủ đầu tư.
+ Thúc đẩy cải cách hành chính, tài chính và cải cách hệ thống các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường bảo vệ quyền lợi của
các nhà kinh doanh nước ngoài thông qua việc tăng cường các quy định
pháp luật.
* Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu xem xét đánh giá các chính sách thu hút và
sử dụng FDI ở một số nước trên, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam nh sau:

Thứ nhất: ổn định chính trị, kinh tế là cơ sở để tăng cường thu hút
FDI. Khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư dài hạn thì ổn định kinh tế
chính trị là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là các nước mới chuyển đổi
như Việt Nam và Trung Quốc. Ổn định chính trị, kinh tế tăng tưrởng cao,
dung lượng thị trường lớn là yếu tố cực kỳ hấp dẫn các nhà đầu tư.

×