Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận “ Nhân cách người lãnh đạo quản lý, vận dụng trong phát triển nhân cách của người chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.68 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Lãnh đạo - quản lý con người là một lĩnh vực phức tạp và khó khăn, nhưng
lãnh đạo - quản lý các nhóm người, tập thể người càng phức tạp và khó khăn hơn.
Bởi tập thể khơng phải là số cộng giản đơn của từng người riêng lẻ, sức mạnh của
nó là ở sự hợp tác phối hợp.Trong tập thể quân nhân, người lãnh đạo - quản lý
không chỉ là người đề ra chủ trương, xây dựng hoạch tổ chức thực hiện mà còn là
“hạt nhân” và “trung tâm” của sự đồn kết thống nhất về ý chí và hành động của
tập thể. Do đó, địi hỏi người lãnh đạo- quản lý phải là tấm gương về phẩm chất,
năng lực, về lối sống và tác phong sinh hoạt để cán bộ thuộc quyền noi theo.
Trong hoạt động lãnh đạo - quản lý bộ đội ở đơn vị cơ sở, chính trị viên là
người chủ trì về chính trị; chỉ đạo, tổ chức tiến hành tồn diện các nội dung
Cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong đơn vị. Đồng thời, trực tiếp tham gia việc
xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các mặt hoạt động của đơn vị. Để thực
hiện tốt chức trách, nhiệm cụ của mình, người chính trị viên phải khơng ngừng
trau dồi, rèn luyện và phát triển phẩm chất nhân cách của mình.
Quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính
trị (khóa IX) và Nghị quyết 513/NQ-ĐUQSTW của Qn ủy Trung ương; cấp ủy,
tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiều chủ
trương, biện pháp thiết thực nhằm xây dựng đội ngũ chính trị viên đáp ứng yêu
cầu cương vị, chức trách, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Vì vậy, về cơ bản đại bộ
phận chính trị viên đó có phẩm chất, năng lực và phương pháp, tác phong công
tác đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, vẫn có
một bộ phận chính trị viên còn tồn tại những hạn chế nhất định về phẩm chất,
năng lực và phương pháp, tác phong công tác, chưa thực sự ngang tầm với
cương vị, chức trách, nhiệm vụ đảm nhiệm. Chính vì vậy, việc hình thành và phát
triển nhân cách của đội ngũ cán bộ chính trị, đặc biệt là chính trị viên ở đơn vị cơ
sở hiện nay là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
Với ý nghĩa đó, tơi chọn chủ đề: “ Nhân cách người lãnh đạo - quản lý, vận
dụng trong phát triển nhân cách của người chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện
nay” làm nội dung viết tiểu luận.
1




I. MỘT SỐ VẤN VỀ LÃNH ĐẠO - QUẢN LÝ VÀ PHẨM CHẤT
NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO - QUẢN LÝ
1. Khái niệm lãnh đạo và quản lý
Trong đời sống xã hội tồn tại đồng thời hai khái niệm quản lý và lãnh đạo,
cũng như các khái niệm người quản lý và người lãnh đạo. Có khơng ít người và
một số nhà nghiên cứu đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Vì họ cho rằng
nội hàm của hai khái niệm này giống nhau và khó phân biệt rạch ròi ranh giới
giữa chúng. Một số nhà nghiên cứu lại cho rằng không nên tách chúng thành hai
khái niệm riêng biệt, mà nên xếp chúng bên cạnh nhau, dường như thành một
khái niệm lãnh đạo, quản lý và từ đây có các khái niệm tâm lý học lãnh đạo,
quản lý; người lãnh đạo, quản lý.
a, Khái niệm quản lý
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống
con người. Ở đâu có con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần có quản lý.
Khái niệm quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học và có
nhiều cách tiếp cận để có những quan niệm khác nhau về khái niệm này. Xét về
chức năng, quản lý là một hệ thống tổ chức, “quản lý không phải là lãnh đạo sự
việc mà là sự phát triển con người”. Quản lý là chấp nhận con người như họ vốn
đã như thế, với sự hiểu biết, sự đào tạo, kinh nghiệm của người lãnh đạo đưa
việc hoàn thiện họ bằng cách nâng cao trình độ, cải thiện năng lực và sửa chữa
khuyết điểm của họ. Thành công của mọi sự nỗ lực quản lý phụ thuộc vào chính
sự hồn thiện này và chính nó cho phép đo được năng khiếu lãnh đạo… Theo
nghĩa chung nhất từ góc độ Tâm lý học, quản lý được hiểu: là sự tác động có
định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thơng tin của chủ thể đến
khách thể của nó.
Như vậy, quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
Tức là hoạt động quản lý chỉ cần thiết và tồn tại đối với một nhóm người. Còn
đối với một cá nhân, anh ta tự điều khiển hoạt động của mình. Bản chất của

quản lý là những tác động có phương hướng, có mục đích rõ ràng của chủ thể
quản lý. Quản lý là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo cao. Quản lý là một
2


khoa học và là một nghệ thuật, quản lý đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc
nhất định. Hiệu quả của hoạt động quản lý phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức - việc
đổi mới cơ cấu tổ chức để phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu quản lý. Quản lý
thực chất là quản lý con người, vì con người là yếu tố quyết định trong giải
quyết các vấn đề. Mọi thành công hay thất bại của tổ chức đều liên quan tới việc
giải quyết các mối quan hệ giữa những con người với nhau.
b, Khái niệm lãnh đạo
Sự lãnh đạo là một trong những đề tài nghiên cứu rộng lớn nhất trong
Tâm lý học, các nhà tâm lý học Xô viết định nghĩa: Lãnh đạo là mối quan hệ về
chi phối và phục tùng, tác động và tuân theo trong quan hệ liên nhân cách của
nhóm. Trong nhóm, hành vi của cá nhân bị quy định và chịu ảnh hưởng của những
người khác. Sự ảnh hưởng này có thể nảy sinh thông qua những quan hệ liên nhân
cách hoặc có thể phụ thuộc vào cấu trúc quan hệ mà ở đó một số cá nhân sử dụng
quyền lực hoặc trách nhiệm để tác động đến người khác.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể quan niệm: Lãnh đạo là sự ảnh
hưởng xã hội, là hoạt động có mục đích trong một tổ chức, là sự tác động hợp
pháp đến những người khác nhằm thực hiện những mục đích đã xác định.
Với định nghĩa trên, chúng ta thấy: lãnh đạo là quá trình ảnh hưởng của
những người lãnh đạo đến những người dưới quyền. Bản chất của sự lãnh đạo là sự
ảnh hưởng và sự tác động có mục đích để đạt được những mục tiêu của tổ chức đề
ra, cũng như nhằm thỏa mãn mọi sự mong muốn của những người dưới quyền.
c, Khái niệm lãnh đạo- quản lý
Trong Từ điển Tiếng Việt, hai khái niệm quản lý và lãnh đạo được dùng
với nghĩa khác nhau, nhưng trên thực tế khơng có một người nào ở vào cơng
việc chủ trì như chủ tịch huyện, chủ tịch tỉnh, sư đồn trưởng, chính ủy sư

đồn… trong phạm vi cơng việc của mình lại chỉ đơn thuần hoặc làm nhiệm vụ
quản lý, hoặc làm nhiệm vụ lãnh đạo. Một số nhà nghiên cứu khi bàn về sự lãnh
đạo và sự ảnh hưởng của quản lý đã đồng nhất hai khái niệm này, thậm chí đã
đổi chỗ của chúng cho nhau. Điểm chung lớn nhất của hai khái niệm này là ở
chỗ họ đều là những người tổ chức hoạt động của tập thể để thực hiện những
3


mục tiêu đã đề ra và có ảnh hưởng đến những người thừa hành của tổ chức. Do
vậy, người lãnh đạo và người quản lý có một số chức năng chung, chẳng hạn
như các chức năng: kiểm tra, giám sát, thông tin… Sự khác nhau giữa người
quản lý và lãnh đạo thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, về số lượng: Trong một tổ chức, số lượng người quản lý
thường nhiều hơn số lượng người lãnh đạo, trong khi đó, chỉ có một số
người quản lý là những người lãnh đạo. Những người có phạm vi ảnh hưởng
nhiều hơn đến những người khác. Như vậy, những người lãnh đạo đều là
những người quản lý, nhưng không phải tất cả những người quản lý đều là
người lãnh đạo.
Thứ hai, về vị thế và vai trị: Những người lãnh đạo là những người có vai
trị quan trọng nhất, có vị thế cao và có phạm vi ảnh hưởng lớn trong tổ chức.
Chẳng hạn, trong một công ty, những người lãnh đạo là những người trong ban
giám đốc, trưởng các phòng, ban,…
Lãnh đạo và quản lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Người chỉ huy,
cán bộ chủ trì ở một cấp nào đó đều làm nhiệm vụ của người lãnh đạo, đồng thời
làm nhiệm vụ của người quản lý. Điều này thể hiện rõ trong quân đội, người chỉ
huy, cán bộ chủ trì ở một cấp nào đó đều vừa làm nhiệm của người lãnh đạo, lại
đồng thời làm nhiệm vụ của người quản lý theo sự phân cấp trách nhiệm được
ghi trong điều lệnh, điều lệ quân đội và tuân thủ các nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng đối với lực lượng vũ trang. Khái niệm lãnh đạo - quản lý có thể hiểu: Là
sự tác động có mục đích của người (tập thể) lãnh đạo - quản lý đối với con

người và tập thể nhằm làm cho hệ thống lãnh đạo - quản lý hoạt động bình
thường, có hiệu lực giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
Nếu quan niệm lãnh đạo - quản lý là một quá trình thì chủ thể lãnh đạo quản lý (bao gồm người lãnh đạo - quản lý và tập thể lãnh đạo - quản lý) điều khiển
đối tượng lãnh đạo - quản lý (con người cụ thể và các tập thể người) thông qua các
quyết định và hành động trong lãnh đạo - quản lý. Hiệu quả của hoạt động lãnh đạo
- quản lý và thực hiện nhiệm vụ của đối tượng lãnh đạo - quản lý là cái có thể kiểm
tra được thơng qua các công cụ lãnh đạo - quản lý.
4


2. Những phẩm chất nhân cách chủ yếu của người lãnh
đạo - quản lý bộ đội
Nhân cách của người lãnh đạo - quản lý bộ đội là tổng hoà những phẩm
chất xã hội, cấu thành đạo đức, năng lực và phong cách lãnh đạo của người lãnh
đạo - quản lý đáp ứng đòi hỏi của hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ và chịu
trách nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động của đơn vị.
Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo- quản lý bộ đội biểu hiện trong cuộc
sống thường ngày và trong cơng tác. Nó tạo nên tư cách chủ thể của người cán
bộ trong hoạt động và quan hệ xã hội, nhân cách là đặc trưng riêng của từng
người lãnh đạo - quản lý. Nhân cách càng phát triển thì phản ánh giá trị xã hội
của cá nhân càng cao. Để thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo- quản lý bộ đội, người
cán bộ, chỉ huy các cấp cần tích cực hồn thiện các phẩm chất nhân cách đáp
ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cụ thể là:
a, Có phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cao đáp ứng cho sự nghiệp
đổi mới của Đảng trong phạm vi công việc và chức trách được giao phó
Đây là phẩm chất cần có trước tiên đối với người làm cơng tác lãnh đạo –
quản lý. Thể hiện ở tính Đảng cao, có lập trường tư tưởng vững vàng, luôn biểu
hiện sự nhất trí, tin tưởng và kiên định với mọi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng trong sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Người cán bộ quân đội ở

cương vị này là người thể hiện trách nhiệm chính trị cao trước Đảng và nhân dân,
tính nguyên tắc cộng sản trong hành vi và hoạt động của bản thân, tấm gương đạo
đức mẫu mực và trong sáng để cán bộ, chiến sỹ dưới quyền noi theo.
b, Người lãnh đạo - quản lý là người thơng thạo chun mơn nghiệp vụ
qn sự mà mình phụ trách. Có tính khoa học trong lãnh đạo, tác phong cụ thể,
tỉ mỉ, thận trọng khi ra quyết định.
Tính khoa học trong lãnh đạo - quản lý đòi hỏi phải có luận cứ khoa học
trong việc xác định mục tiêu, nội dung lãnh đạo - quản lý phù hợp với nhiệm vụ
trên giao và tình hình thực tiễn cụ thể của đơn vị; khoa học trong tổ chức thực
5


hiện nhiệm vụ, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên cũng như trong sử dụng các
hình thức, phương pháp, phương tiện lãnh đạo. Người có tính khoa học trong
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hiện nay còn là người am hiểu rộng rãi về nhiều kiến
thức khoa học liên ngành; đồng thời, lại phải có hiểu biết sâu sắc về chun mơn
mình phụ trách. Trong điều kiện nâng cao hiệu lực lãnh đạo, chỉ huy thì cán bộ
chủ trì các đơn vị cần nắm vững các kiến thức xã hội học, tâm lý học nói chung
cũng như tâm lý học lãnh đạo - quản lý nói riêng.
Tác phong cụ thể, tỉ mỉ, thận trọng khi ra quyết định giúp cho người lãnh
đạo - quản lý khắc phục được bệnh quan liêu, giấy tờ, chủ nghĩa hình thức trong
hoạt động. Thận trọng cân nhắc, tính tốn, suy xét kỹ các tình huống, điều kiện,
đặc điểm tâm lý và khả năng thực hiên mệnh lệnh của cấp dưới sẽ giúp cho nhà
lãnh đạo - quản lý đề ra các quyết định chính xác.
c, Tính địi hỏi cao, nhất qn, quyết đốn
Đây là phẩm chất quan trọng của cán bộ lãnh đạo - quản lý. Trong mọi
trường hợp, họ cần đòi hỏi cao ở cấp dưới để tăng tinh thần trách nhiệm trước công
việc, buộc cấp dưới phải cố gắng, nêu cao khả năng trong thực hiện nhiệm vụ. Tính
nhất quán trong lãnh đạo làm cho toàn bộ hệ thống thuộc quyền lãnh đạo, chỉ huy
vận hành thống nhất. Nhất quán trong lãnh đạo, chỉ huy sẽ tạo nên sức mạnh và

lòng tin của cấp dưới và kích thích tính sáng tạo của họ.
Người lãnh đạo - quản lý rất cần có thái độ dám nghĩ, dám làm để vượt
qua khuôn khổ chật hẹp của một số quy định nhằm đem lại hiệu quả, chất lượng
trong cơng việc. Dám quyết đốn và dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp
dưới về các quyết định của mình trong điều hành các hoạt động lãnh đạo - quản
lý. Quyết đoán là phẩm chất không thể thiếu của người chỉ huy trong hoạt động
quân sự, đặc biệt là trong các tình huống khó khăn, mau lẹ.
d, Tính tập thể, phong cách lãnh đạo dân chủ
Hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao trong công tác lãnh đạo - quản lý,
người lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị phải rèn luyện có được phong cách dân
chủ, luôn biết quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ
dưới quyền, biết tính đến nhu cầu, lợi ích chính đáng của họ; biết lắng nghe tâm
6


tư, nguyện vọng, ý kiến khác nhau của cấp dưới để điều chỉnh các chủ trương,
chính sách, quyết định phù hợp nhằm làm cho hoạt động lãnh đạo- quản lý ngày
càng có hiệu quả. Tính tập thể và phong cách dân chủ trong lãnh đạo – quản lý
tránh được sai lầm khi ra quyết định và củng cố uy ín của chủ thể lãnh đạo quản lý. Vì vậy, cần chống dựa dẫm, ỷ nại dựa vào tập thể, trốn tránh trách
nhiệm cá nhân cũng như thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
e, Có nghệ thuật lãnh đạo - quản lý giỏi
Lãnh đạo - quản lý là một nghệ thuật vì đối tượng lãnh đạo - quản lý là
con người có ý thức, có mục đích hoạt động cụ thể nên phải tác động vào họ
bằng các biện pháp, cách thức khác nhau để đạt hiệu quả hoạt động. Nghệ thuật
lãnh đạo - quản lý của người lãnh đạo - quản lý trong các tập thể quân sự thể
hiện trên những nội dung cơ bản:
Nghệ thuật thu hút người khác hăng hái tham gia vào guồng máy hoạt
động chung của đơn vị bằng chính uy tín và năng lực của người chỉ huy,
quản lý, lãnh đạo, cũng như bằng tính địi hỏi cao với cơng việc làm cho cấp
dưới tăng trách nhiệm cá nhân, dồn hết sức lực, tâm trí để thực hiện tốt nhất

nhiệm vụ được giao.
Nghệ thuật ra quyết định cũng là một đòi hỏi quan trọng đối với người
lãnh đạo - quản lý, tránh ra các quyết định có độ ổn định khơng cao, nội dung
vụn vặt, chồng chéo… làm ức chế tâm lý và giảm sút khả năng hành động sáng
tạo của cán bộ, chiến sỹ thuộc quyền.
Nghệ thuật giao nhiệm vụ đòi hỏi người lãnh đạo - chỉ huy phải cân nhắc
tùy theo yêu cầu nhiệm vụ, tính đến đặc điểm tâm lý của người thừa hành và
không được chủ quan, đơn giản. Giao nhiệm vụ cho cấp dưới phải làm cho họ
phấn khởi, sẵn sàng nhận và thực hiện sáng tạo các nhiệm vụ..
Nghệ thuật động viên cấp dưới là một đòi hỏi không thể thiếu đối với mỗi
người lãnh đạo - quản lý. Trước hết, hướng khích lệ các tấm gương sẵn sàng
nhận nhiệm vụ nơi khó khăn, các cơng việc phức tạp cũng như cán bộ, chiến sỹ
dưới quyền có sáng kiến, sáng tạo trong thừa hành nhiệm vụ, các tấm gương
trong học tập, huấn luyện, trong xây dựng đơn vị và công tác. Trong công việc
7


này, người lãnh đạo - quản lý phải biết linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau.
Nghệ thuật kiểm tra, phát hiện, uốn nắn và tiến hành điều chỉnh kịp thời
hành vi và hoạt động của cấp dưới. Đây là một chức năng, một khâu trong chu
trình lãnh đạo - quản lý, vì vậy, người lãnh đạo - chỉ huy phải biết sử dụng chức
năng này như một công cụ hiệu quả trong hoạt động của mình để kịp thời phát
hiện nhân rộng điển hình, cổ vũ cấp dưới và các đơn vị thuộc quyền cũng như
uốn nắn, điều chỉnh những hạn chế, bất cập nảy sinh để hoạt động lãnh đạoquản lý đạt mục đích đề ra.
g, Có tác phong và quan điểm quần chúng, đoàn kết mọi người vì tập thể
và sự nghiệp chung
Người lãnh đạo - quản lý phải là người khiêm tốn, giản dị, lịch thiệp, tế
nhị trong hành vi giao tiếp để tạo sự gần gũi với cán bộ, chiến sỹ, làm cho
quần chúng mến phục, tin tưởng. Biết tôn trọng và học hỏi cấp dưới và biết

lắng nghe ý kiến của họ. Tăng cường đối thoại với cấp dưới để hiểu biết đầy
đủ hơn về nhu cầu, nguyện vọng và thái độ của cấp dưới trong việc thực hiện
các quyết định để tác động điều chỉnh phù hợp nhất. Người lãnh đạo - quản lý
cịn phải thể hiện là người ln ln sâu sát, có thái độ thực sự quan tâm bồi
dưỡng cấp dưới. Thái độ hết lịng đồn kết mọi người vì tập thể có ý nghĩa rất
quan trọng như một sự định hướng điều hòa cách xử sự, các mối quan hệ
hàng ngày diễn ra trong tập thể. Thái độ biết chăm lo cho, đoàn kết mọi người
trong tập thể sẽ xua tan khơng khí nghi kỵ lẫn nhau, ảnh hưởng xấu đến việc
thực hiện nhiệm vụ chung.
II. VẬN DỤNG TRONG PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH NGƯỜI
CHÍNH TRỊ VIÊN Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ HIỆN NAY
1. Đặc điểm hoạt động và những yêu cầu về phẩm chất nhân cách của
chính trị viên ở đơn vị cơ sở
a, Đặc điểm hoạt động của chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay
Thứ nhất, hoạt động chủ yếu của người chính trị viên ở đơn vị cơ sở là
hoạt động lãnh đạo - quản lý
8


Chính trị viên là những người có trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng tại mỗi đơn vị, vì vậy họ có chức trách qn triệt
nhiệm vụ trên giao, phân tích tình hình thực tế để đề xuất những chủ trương lãnh
đạo trước tổ chức đảng, đồng thời trực tiếp động viên, tổ chức thực hiện và kiểm
tra, giám sát tồn bộ q trình biến những chủ trương đã được quyết nghị bởi tổ
chức đảng các cấp thành hiện thực. Chức trách đó làm cho hoạt động của chính
trị viên thường được vận hành theo cả hai quá trình lãnh đạo và quản lý.
Trong từ điển tiếng Việt, thuật ngữ "lãnh đạo" được hiểu là việc đề ra chủ
trương, đường lối, đồng thời động viên và tổ chức lực lượng thực hiện chủ
trương, đường lối đó; thuật ngữ " quản lý" được hiểu là việc nắm giữ và điều
khiển những đối tượng hoặc quá trình nào đó. Theo đó, hoạt động lãnh đạo và

hoạt động quản lý có những khía cạnh biểu hiện khác nhau, nhưng luôn quan hệ
mật thiết với nhau. Đối với người chính trị viên dường như hai hoạt động này
ln đan xen vào nhau và thống nhất với nhau, tạo thành dạng hoạt động kép, đó
là hoạt động lãnh đạo - quản lý. Thông qua hoạt động lãnh đạo - quản lý, người
chính trị viên tác động tới những cá nhân và tập thể thuộc quyền, nhằm làm cho
hoạt động của họ có định hướng, có tổ chức và được điều khiển, điều chỉnh kịp
thời và phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước và tình
hình, nhiệm vụ của đơn vị.
Để làm tốt hoạt động lãnh đạo - quản lý, người chính trị viên phải thực sự
quan tâm đến các khâu trọng yếu như: ra quyết định (chủ trương, mệnh lệnh, chỉ
thị…) chính xác; quán triệt và tổ chức thực hiện quyết định sao cho thực sự thấu
suốt tới cấp dưới; duy trì chế độ báo cáo đầy đủ, trung thực và kịp thời của các
cấp lãnh đạo, chỉ huy; thường xuyên kiểm tra, đánh giá khách quan, chính xác
kết quả cơng tác của cấp dưới thuộc quyền. Nhận thức được yêu cầu khách quan
của những khâu trọng yếu trong hoạt động lãnh đạo - quản lý sẽ giúp cho người
chính trị viên xác định đúng được phương hướng phấn đấu, rèn luyện nhân cách
của mình, nhằm đáp ứng đỏi hỏi của chức trách, nhiệm vụ.
Thứ hai, hoạt động của người chính trị viên là hoạt động vận động cách
mạng đối với quần chúng, trước hết là cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền.
9


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cán bộ lãnh đạo là “những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Vì vậy, là người lãnh đạo, chính trị
viên phải làm tốt việc vận động quần chúng nhằm nâng cao trình độ giác ngộ
cách mạng của mọi người và động viên họ tích cực thực hiện các nhiệm vụ
được giao phó. Người chính trị viên khơng dùng quyền uy, mệnh lệnh một
cách đơn thuần, mà phải bằng sức mạnh của lẽ phải, của tình cảm để thuyết

phục, lơi cuốn bộ đội làm cách mạng. Đây là nét đặc thù của hoạt động mà
người cán bộ chính trị phải thực hiện.
Kinh nghiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị đã xác nhận rằng, để tranh
thủ được quần chúng, chính trị viên phải khéo tổ chức việc tuyên truyền, vận
động, thuyết phục bộ đội, thơng qua đó giác ngộ, cảm hố, động viên và lơi cuốn
mọi cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ. Công tác giáo dục, vận động quần
chúng chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi nó được thực hiện trong điều kiện
người cán bộ chính trị có mối quan hệ qua lại gần gũi, thân thiết với đồng cấp và
cấp dưới. Đó chính là một trong những con đường vận động, cảm hoá bộ đội mà
người chính trị viên phải ln coi trọng.
Thứ ba, đối tượng tác động của chính trị viên trong hoạt động lãnh đạo quản lý bộ đội là những nhân cách đã và đang trưởng thành
Để hoạt động lãnh đạo - quản lý đạt kết quả cao, người chính trị viên phải
hiểu và đối xử với bộ đội trên tinh thần tôn trọng nhân cách của họ. Ở đây, vấn
đề tâm lý học đặt ra đối với người chính trị viên là việc quản lý, giáo dục và sử
dụng con người cần phải tính đến tồn diện những ưu điểm, nhược điểm; những
đặc điểm giai cấp, dân tộc, địa phương...và những đặc điểm cá thể của họ để đề
ra những chủ trương, kế hoạch, mệnh lệnh hợp tình, hợp lý. Hồ Chí minh đã dạy
rằng: “ Khơng có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo
dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ....Nếu
biết tuỳ tài mà dùng người, thì...thành cơng”. Đấy chính là khoa học, là nghệ
thuật thể hiện trong quá trình lãnh đạo - quản lý.
10


Người chính trị viên biết tơn trọng nhân cách con người thì cần phải chú ý
phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ và đề cao
trách nhiệm tự quản lý, tự giáo dục của những người thuộc quyền. Người lãnh
đạo không thể thành công nếu buộc những người thuộc quyền hành động một
cách thụ động, máy móc theo mệnh lệnh, do đó người chính trị viên cần phải
biết phát huy dân chủ, thực hiện chế độ trách nhiệm rõ ràng, có phân cấp cụ thể,

thực sự ủng hộ những nhân tố mới, tích cực trong đơn vị.
Thứ tư, sức mạnh lãnh đạo - quản lý của chính trị viên là sức mạnh của
tập thể, của hệ thống tổ chức
Để thực hiện trọng trách người chủ trì về chính trị, tổ chức thực hiện sự lãnh
đạo của Đảng tại mỗi đơn vị, chính trị viên khơng thể tự mình giải quyết được
tất cả mọi cơng việc, mà phải sử dụng hệ thống tổ chức, trước hết là cơ quan
chính trị và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy thuộc quyền. Sự vận hành của hệ
thống tổ chức chỉ có thể trơn chu, khi người chính trị viên biết dựa vào tập thể,
huy động sức mạnh của tập thể thông qua thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ; phân cấp và thực hiện chế độ trách nhiệm rõ ràng trong quản lý; bảo đảm
sự đoàn kết và kỷ luật cao của đơn vị.
Sức mạnh của tập thể đơn vị là tổng hoà sức mạnh của các nhân tố chính trị,
tinh thần; trình độ, phẩm chất chiến đấu của bộ đội; sự lớn mạnh của các tổ
chức; điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật…Nhưng để phát huy sức mạnh đó
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, người chính trị viên cần đặc biệt quan tâm
huy động trí tuệ của tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng trong việc ra nghị quyết lãnh
đạo đơn vị, tạo sự đoàn kêt, thống nhất cao về ý chí và hành động trong lãnh
đạo, chỉ huy, đồng thời nâng cao trình độ mọi mặt của cơ quan, nhất là cơ quan
chính trị và cán bộ chính trị. Đó là cách tạo điểm tựa vững chắc cho chính trị
viên thực hiện có kết quả chức trách, nhiệm vụ của mình.
b, Những yêu cầu về phẩm chất nhân cách của người chính trị viên ở
đơn vị cơ sở hiện nay
Với tư cách là người đại diện của đảng Đảng trong qn đội, người chủ trì
về chính trị ở các đơn vị. Đội ngũ chính trị viên có vai trị đặc biệt quan trọng
11


trong việc nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị, nhằm xây dựng,
phát huy sức mạnh nhân tố con người, nhân tố chính trị tinh thần trong quân
đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh “Về mặt chính trị, cấp nào cũng có

một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc
phái người ngồi đến làm” và “người chính trị viên tốt thì bộ đội ấy tốt, người
chính trị viên khơng làm trịn nhiệm vụ thì bộ đội ấy khơng tốt”, “chính trị viên
là linh hồn của đội”. Chính vì vậy, u cầu đặt ra đối với người chính trị viên là
phải mẫu mực về đạo đức, lối sống, có năng lực và phương pháp tác phong làm
việc khoa học, cụ thể là:
Thứ nhất, chính trị viên phải là những người thực sự tiêu biểu về phẩm
chất chính trị
Chính trị viên là người giữ định hướng chính trị cho đơn vị, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Con đường chính trị là cái kim chỉ nam của đội,
chính trị viên là người nắm cái kim chỉ nam ấy”. Do vậy, chính trị viên phải là
người tiêu biểu cả về phẩm chất và năng lực, trước hết là về đạo đức cách mạng;
thực sự vững vàng về chính trị, kiên định lập trường giai cấp, sẵn sàng chiến đấu
hy sinh vì mục tiêu lý tưởng của Đảng. Đối với người chính trị viên, phẩm chất
chính trị khơng chỉ mang ý nghĩa cá nhân mà cịn có tác dụng định hướng chính
trị cho cán bộ, chiến sỹ và trong giải quyết các mối quan hệ công tác. Đồng thời,
đạo đức của người chính trị viên cịn là đạo đức cách mạng, đạo đức chính trị
của Đảng được biểu hiện bằng sự trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, với nhân dân; kiên định mục tiêu, con đường chủ nghĩa xã hội
của cách mạng Việt Nam. Chính trị viên phải là người có tinh thần triệt để cách
mạng, có ý chí kiên cường dũng cảm, chiến đấu đến cùng cho mục tiêu, lý tưởng
của Đảng, có thái độ dứt khốt với kẻ thù, khơng mơ hồ ảo tưởng, có thái độ
trung thực, thật thà với Đảng, kiên quyết chấp hành đường lối, chính sách, Điều
lệ của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội… Người chính trị viên cịn
phải có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, kiên quyết đấu tranh bảo vệ hệ
tư tưởng, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng; không ngả nghiêng, dao
động, thắng không kiêu, bại không nản, tỉnh táo trước mọi âm mưu thủ đoạn của
12



kẻ thù; sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ Đảng giao trong bất cứ điều
kiện hoàn cảnh nào.
Thứ hai, chính trị viên là người mẫu mực về đạo đức, lối sống, có tính kỷ
luật, sự tín nhiệm cao, là trung tâm đồn kết trong đơn vị
Chính trị viên là người thực sự tiêu biểu cho những đức tính tốt đẹp của
người quân nhân cách mạng, của “Bộ đội cụ Hồ”. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí
Minh thường xuyên nhắc nhở: “Chính trị viên lãnh đạo bằng lời nói chưa đủ,
phải lãnh đạo bằng hành động nữa. Mình chủ trương cho bộ đội làm việc gì thì
mình phải làm trước, làm đúng, hết sức làm hơn ai hết. Từ công việc nhỏ đến
công việc to đều như thế. Gặp lúc gay go, nguy hiểm chừng nào thì người lãnh
đạo càng xông pha trước chừng ấy mới kéo được người khác theo mình”. “Đối
với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, cơng bình như một
người anh, hiểu biết như một người bạn”
Trong giai đoạn hiện nay, người chính trị viên khơng chỉ tiêu biểu cho
những phẩm chất tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc mà cịn là tấm
gương tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, văn minh trong thời đại mới: suốt đời phấn
đấu hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, trong bất kỳ hồn cảnh nào cũng
đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết; nắm chắc chức trách, nhiệm vụ,
yên tâm gắn bó với sự nghiệp xây dựng qn đội
Người chính trị viên phải có tinh thần trách nhiệm cao trước đơn vị, tận
tuỵ với công việc, ham học tập, cầu tiến bộ, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao; có lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, khiêm tốn, cần kiệm,
liêm chính, chí cơng vơ tư; giải quyết hài hồ mối quan hệ giữa quyền lợi và
nghĩa vụ, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể; khơng tham vọng cá nhân,
khơng đặc quyền, đặc lợi, cơ hội, xu nịnh, bè phái, tham nhũng…; có ý thức tổ
chức kỷ luật nghiêm, là trung tâm đồn kết, có tín nhiệm cao trong tổ chức
đảng và trong đơn vị, được cán bộ, chiến sỹ tôn trọng, quý mến; có tinh thần
cảnh giác cách mạng cao, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn
của các loại kẻ thù.
13



Thứ ba, chính trị viên là những người có kiến thức, năng lực tồn diện,
giỏi tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh u cầu rất cao đối với việc tu dưỡng rèn luyện
phẩm chất đạo đức cách mạng, vì đạo đức là nền tảng, “cái gốc” của người cán
bộ của Đảng; đồng thời , Người đặt ra yêu cầu chính trị viên cũng là người phải
có năng lực rất tồn diện. “Người chính trị viên phải có nhiều tư cách lãnh đạo,
rất nhiều năng lực. Cơng việc chính trị viên phức tạp chừng nào thì cần họ có
năng lực chừng ấy”. “Chính trị viên phải có nhiều năng lực lãnh đạo, năng lực
này phải đủ mọi mặt quân sự lẫn chính trị, năng lực giải quyết vấn đề cấp bức
cũng như vấn đề sinh hoạt hằng ngày về chính trị hay vật chất”.
Chính trị viên là người có kiến thức rất tồn diện cả chính trị, qn sự,
kinh tế, văn hố, kỹ thuật, khoa học nghệ thuật quân sự, đặc biệt là kiến thức về
Cơng tác đảng, cơng tác chính trị. Kiến thức tồn diện của chính trị viên được
biểu hiện cụ thể là: sự hiểu biết sâu sắc những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm vững đường lối, chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước; có kiến thức chun sâu về Cơng tác đảng, cơng tác
chính trị. Đồng thời phải có kiến thức về khoa học nghệ thuật qn sự, chun
mơn kỹ thuật. Chính trị viên phải có đủ năng lực để làm trịn nhiệm vụ là người
chủ trì về chính trị, trực tiếp tổ chức tiến hành Cơng tác đảng, cơng tác chính trị
và tham gia thực hiện các kế hoạch công tác chung của đơn vị.
Vì vậy, chính trị viên phải có năng lực tư duy lý luận, có khả năng tổng
kết hoạt động thực tiễn, biết rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, có khả năng vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, chủ động
sáng tạo giải quyết những vấn đề thực tiễn và cuộc sống đặt ra. Chính trị viên
phải ln sâu sát bộ đội, có khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá tình
hình thực tiễn đặt ra. Chính trị viên là người có khả năng tun truyền, vận
động, đồn kết và tổ chức phong trào hành động cách mạng của quần chúng
thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, nhiệm vụ của quân đội,

nhiệm vụ cụ thể của đơn vị. Bên cạnh đó, người chính trị viên cịn phải có năng
lực quản lý đơn vị, quản lý bộ đội về mọi mặt. Đó là khả năng quản lý chỉ huy
14


về quân sự, hậu cần, kỹ thuật. Vai trò của người bí thư, chất lượng, hiệu quả
Cơng tác đảng, cơng tác chính trị phụ thuộc trực tiếp vào khả năng quản lý chỉ
huy đơn vị của người cán bộ chính trị.
Thứ tư, chính trị viên phải là người có tính Đảng, tính ngun tắc cao, có
phương pháp tác phong dân chủ, sâu sát thực tế, nói đi đơi với làm
Chính trị viên là cán bộ, là đại biểu của Đảng trong qn đội. Vì vậy,
một trong những phẩm chất khơng thể thiếu được đối với người chính trị viên
là phải có tính đảng, tính ngun tắc rất cao. Trong bất kỳ điều kiện hồn cảnh
nào, người chính trị viên cũng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, “phải đi đúng con đường chính trị của Đảng”. Mọi hoạt động của
chính trị viên phải hướng vào thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng.
Người chính trị viên phải tôn trọng tập thể, trước hết là tập thể cấp uỷ,
thường vụ, tập thể chỉ huy; đề cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, phát huy
hiệu lực của người chỉ huy, lắng nghe ý kiến của mọi người. Phương pháp làm
việc của người chính trị viên phải khoa học, vững vàng về nguyên tắc nhưng
linh hoạt trong xử lý công việc cụ thể; lấy việc giáo dục thuyết phục, nêu
gương, cảm hoá mọi người làm chính. Tác phong của chính trị viên là làm việc
có kế hoạch, sâu sát, cụ thể tỷ mỷ, lý luận kết hợp với thực tiễn, nói đi đơi với
làm, nói ít, làm nhiều…
Bên cạnh đó, người chính trị viên cần phải thể hiện tính quyết đốn trong
xem xét và giải quyết cơng việc, thể hiện sự dứt khốt, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm. Đây là nét phong cách hết sức cần thiết của người chủ trì về
chính trị của đơn vị. Bởi vì, họ là người "đứng mũi, chịu sào", phải thường
xuyên đề cao trách nhiệm cá nhân trong mọi cơng việc ở đơn vị. Người chính trị

viên có tính quyết đốn thường ra quyết định dựa trên sự cân nhắc, tính tốn kỹ
đến các điều kiện khách quan, chủ quan, những vẫn bảo đảm nhanh chóng, dứt
khốt, với quyết tâm dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Tính quyết
đốn sẽ giúp cho chính trị viên giải quyết các mối quan hệ được rõ ràng, dứt
khoát, xử lý nhanh các tình huống đặt ra đối với cơng tác đảng, cơng tác chính
15


trị nói riêng, đơn vị nói chung. Những biểu hiện thiếu quyết đoán, chần chừ, do
dự hoặc đùn đẩy trách nhiệm đều cản trở khả năng hoàn thành chức trách của
người chính trị viên.
2. Thực trạng phát triển nhân cách người chính trị viên ở đơn vị cơ
sở hiện nay
a, Về ưu điểm
Thứ nhất, về phẩm chất của chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay
Đánh giá một cách tổng thể, chính trị viên hiện nay là người tiêu biểu về
phẩm chất chính trị - tư tưởng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổquốc và
nhân dân. Đại đa số chính trị viên ở đơn vị có trình độ giác ngộ chính trị cao,
bản lĩnh chính trị vững vàng; họ ln tiêu biểu về phẩm chất chính trị - tư tưởng,
tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới và triển vọng phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; nắm vững
bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh,cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, luật
pháp của Nhà nước. Có ý thức cảnh giác cách mạng cao, tỉnh táo, sáng suốt
trong phân tích, đánh giá tình hình, xác định đúng đối tác, đối tượng, không
hoang mang, dao động trước những vấn đề nhạy cảm; kiên định quan điểm có
tính ngun tắc của Đảng, tích cực đi đầu đấu tranh phê phán các quan điểm sai
trái, thù địch, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội chính trị, ln nói, viết và làm theo
đúng cương lĩnh, đường lối của Đảng .. Sự kiên định, vững vàng của chính trị
viên ở các đơn vị hiện nay, đã thực sự trở thành “điểm tựa” vững chắc củng cố

lý tưởng, niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Đại bộ phận chính trị viên ở đơn vị cơ sở luôn mẫu mực về đạo đức, lối
sống, chấp hành kỷ luật, thực sự là trung tâm đoàn kết và có tín nhiệm cao trong
tổ chức đảng và đơn vị. Trong thực tiễn, trước sự tác động nhiều mặt của cơ chế
thị trường, của sự giao lưu, hội nhập quốc tế hiện nay: đa số chính trị viên ln
giữ vững và phát huy được phẩm chất đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư”, “nhân, lễ, trí, dũng, liêm, trung”. Có tình u nghề nghiệp, tận tụy gắn bó
16


với công việc, công tâm, khách quan giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa trách
nhiệm và nghĩa vụ, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, ln đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc lên trên hết; nêu gương sáng, đi đầu trong việc “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; có lối sống lành mạnh, trung thực,
thẳng thắn, giản dị, cầu thị tiến bộ, kiên quyết đấu tranh, phê phán, chấn chỉnh
những nhận thức sai trái lệch lạc và những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo
đức, lối sống, tư tưởng của quân nhân thuộc quyền.
Trong giải quyết mối quan hệ với bộ đội, với nhân dân, đại bộ phận chính
trị viên ở đơn vị hiện nay ln là người có thái độ đúng mực, sống chan hịa,
giàu tình nghĩa, gương mẫu trong lời nói và việc làm. Trong thực tiễn, trước sự
tác động của tệ nạn xã hội và các tiêu cực của kinh tế thị trường, nhưng đại đa số
chính trị viên vẫn trung kiên, giữ gìn và thực hiện tốt những phẩm chất cao đẹp
của “Bộ đội Cụ Hồ” và tình đồng chí, đồng đội trong sáng, đúng nguyên tắc,
thực sự xứng đáng là người anh, người chị, người bạn với cán bộ, chiến sĩ trong
đơn vị; gắn bó mật thiết, kính trọng và giúp đỡ nhân dân theo đúng chuẩn mực
nhân cách của người chính trị viên.
Thứ hai, về năng lực của chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay
Năng lực chủ trì về chính trị: Điểm mạnh khá nổi bật hiện nay đại đa số
chính trị viên là đã biết phát huy vị trí chủ trì về chính trị, đứng đầu cấp ủy, tổ

chức đảng, trong mọi hoạt động của chính trị viên đã ln giữ vững và tỏa
sáng“ngọn lửa” của lịng nhiệt tình cách mạng cho mọi quân nhân trong đơn vị.
Dưới sự hướng dẫn, trực tiếp của chính ủy, cơ quan chính trị cấp trên, chính trị
viên đã nắm được chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, hướng dẫn của cơ
quan chính trị các cấp, tình hình và nhiệm vụ của đơn vị; biết tổ chức xây dựng
và triển khai thực hiện nghị quyết lãnh đạo của chi bộ, của đảng ủy trong các kỳ
đại hội, tháng, quý, năm và các mặt công tác của tổ chức đảng như công tác
kiểm tra, giám sát, phát triển đảng viên mới, công tác xây dựng chi bộ đại đội,
đảng ủy tiểu đoàn trong sạch vững mạnh toàn diện. Thực hiện đúng vai trị chủ
trì về chính trị đối với mọi mặt cơng tác của đơn vị mình phụ trách. Cũng như,
mọi hoạt động cơng tác đảng cơng tác chính trị trong đơn vị như: công tác xây
17


dựng đảng, công tác tuyên huấn, công tác cán bộ, công tác dân vận, công tác
kiểm tra, giám sát đảng viên...
Năng lực tổ chức tiến hành hoạt động Công tác đảng, cơng tác chính trị:
Trong thời gian gần đây, trình độ, khả năng tổ chức, tiến hành các hoạt động
công tác tư tưởng, công tác tổ chức và khả năng điều hành, quản lý đơn vị của
chính trị viên ở các đơn vị hiện nay đã có nhiều chuyển biến tiến bộ và đạt được
kết quả hết sức khả quan.
Đại đa số chính trị viên đã biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo những kiến
thức, kinh nghiệm vào thực hiện công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên
và xây dựng chi bộ, đảng bộ theo chức trách, nhiệm vụ; có năng lực quản lý,
nắm bắt tình hình tư tưởng, kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ; có tư duy độc lập, sáng
tạo, biết tiến hành các hoạt động Cơng tác đảng, cơng tác chính trị, trong thực
hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, diễn tập khắc phục hậu quả thiên
tai và thực hiện các nhiệm vụ khác. Thực hiện tương đối tốt các buổi thông báo
thời sự, tổ chức các ngày chính trị văn hóa - tinh thần và các hoạt động trong
ngày nghỉ cuối tuần cho bộ đội; biết triển khai xây dựng và tổ chức khá tốt các

hoạt động phong trào của đơn vị như hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể
thao, diễn đàn thanh niên, giao lưu kết nghĩa, công tác dân vận, có kỹ năng nói,
viết tương đối khá.
Năng lực chỉ huy, quản lý và hạt nhân đoàn kết trong đơn vị: Chính trị
viên ở các đơn vị hiện nay đã biết phát huy vị trí chủ trì về chính trị, là một
trong hai người có trách nhiệm và quyền hạn cao nhất trong đơn vị vào thực
hiện chức trách chỉ huy, quản lý đơn vị mình đảm nhiệm. Phần lớn đội ngũ
chính trị viên có tính quyết đốn, dám chịu trách nhiệm trước đơn vị là một
phẩm chất đang được từng bước khẳng định của chính trị viên ở các đơn vị hiện
nay, phần lớn chính trị viên khơng có tâm lý tự ty, rụt rè, ngại quản lý, chỉ huy
như những năm trước đây. Đồng thời, tuyệt đại đa số chính trị viên hiện nay
ln giữ vững là “hạt nhân” đoàn kết trong đảng bộ, chi bộ và đơn vị, được đảng
ủy, chi bộ tín nhiệm bầu giữ chức bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ, bộ phận chính trị
viên này đã thực sự có sức cảm hóa cao và tạo được tình cảm u mến, tin
18


tưởng, ủng hộ của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị; họ đã biết khai thác, phát huy
sức mạnh của các tổ chức quần chúng và năng lực của mọi cán bộ, chính trị vào
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của đơn vị.
Thứ ba, về phương pháp, tác phong cơng tác
Trên thực tế, đội ngũ chính trị viên đã nắm vững cương vị, chức trách,
nhiệm vụ, có phương pháp, tác phong công tác phù hợp, hiệu quả, thể hiện ở sự
thống nhất cao giữa tính đảng, tính nguyên tắc với tính năng động, sáng tạo và
sự nhạy cảm với cái mới; có phong cách làm việc trung thực, khách quan, khoa
học, có sự thống nhất cao giữa tính dân chủ, tôn trọng tập thể, phục tùng tổ chức
với ý thức tổ chức, kỷ luật cao và tính quyết đốn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ
tập thể trước khi ra các quyết định, nghị quyết, chỉ thị.
Phần lớn chính trị viên thể hiện tác phong làm việc khoa học, gắn lý luận

với thực tiễn, có kế hoạch cơng tác phù hợp, chính xác, cụ thể tỉ mỉ, sâu sát với
quần chúng, thống nhất giữa lời nói và việc làm; thực hiện nghiêm chế độ cơng
tác, giải quyết tốt các mối quan hệ với cấp trên, cấp dưới và mối quan hệ giữa
lãnh đạo, chỉ huy đơn vị và cấp ủy, chính quyền, đồn thể địa phương nơi đóng
quân; chú trọng phương pháp giáo dục thuyết phục, nêu gương để cán bộ, chiến
sĩ noi theo.
b,Về hạn chế:
Thứ nhất, về phẩm chất của chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay
Trình độ nhận thức chính trị của một bộ phận khơng nhỏ chính trị viên có
mặt chưa đáp ứng u cầu cao của tình hình, nhiệm vụ; có biểu hiện tư tưởng
hồi nghi, hoang mang, dao động, phai nhạt niềm tin, lý tưởng, giảm sút ý chí
chiến đấu, nhiệt tình cách mạng; thiếu n tâm gắn bó với đơn vị, làm việc cầm
chừng, “ngại khó, ngại khổ”, làm ngơ hoặc thiếu mạnh dạn đấu tranh với những
hiện tượng sai trái trong đơn vị; lúng túng, thụ động trong đấu tranh bác bỏ
những quan điểm sai trái, phản động và luận điệu chiến tranh tâm lý của các thế
lực thù địch.
Hạn chế về đạo đức, lối sống của chính trị viên ở các đơn vị hiện nay
19


đó là, một bộ phận chính trị viên chịu ảnh hưởng của tư tưởng cá nhân chủ
nghĩa, lối sống cơ hội thực dụng, suy thoái về đạo đức, lối sống và vi phạm kỷ
luật quân đội, pháp luật Nhà nước, có các biểu hiện như: thiếu ý thức tổ chức kỷ
luật, sống buông thả, xu nịnh cấp trên, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành
tích, vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước; vi phạm nguyên tắc quy
định trong giải quyết các mối quan hệ; chưa thực sự là trung tâm đoàn kết, chỗ
dựa tinh thần vững chắc cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị; có hành vi kéo bè,
kéo cánh, quan liêu, gia trưởng, độc đoán, thậm chí quân phiệt, lăng mạ cấp
dưới, họ chưa thực sự là mẫu hình nhân cách về đạo đức, lối sống cho cán bộ,
chiến sĩ thuộc quyền học tập, noi theo.

Thứ hai, về trình độ năng lực của chính trị viên
Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên còn thấp, khả năng nắm
bắt thực tiễn và vận dụng lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh
còn nhiều bất cập; năng lực chủ trì về chính trị, năng lực chỉ đạo và tiến hành
Cơng tác đảng, cơng tác chính trị hạn chế, thiếu tính chủ động, sáng tạo, cịn
biểu hiện tính giáo điều, rập khn, máy móc kinh nghiệm, khơng nắm vững
chức trách, nhiệm vụ, thụ động, dựa dẫm cấp trên, ỷ lại người chỉ huy. Năng lực
chỉ huy, quản lý đơn vị cịn hạn chế, khơng nắm chắc tình hình mọi mặt của đơn
vị, lúng túng trong chỉ huy đơn vị thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.
Thứ ba, về phương pháp, tác phong cơng tác của chính trị viên
Một bộ phận chính trị viên có phương pháp, tác phong cơng tác chưa thực
sự khoa học, mẫu mực còn biểu hiện: giáo điều, dập khn máy móc trong qn
triệt, triển khai và tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; chưa thể
hiện sự thống nhất cao tính Đảng, tính nguyên tắc và tính tích cực, chủ động,
sáng tạo trong cơng tác, cịn ỷ lại cấp trên, tùy tiện, giản đơn, xa rời quần chúng,
chưa thực sự chú trọng phương pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương, nặng về
hành chính, mệnh lệnh; cịn chưa thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa nhận
thức và hành động, nói nhiều làm ít; chưa kết hợp chặt chẽ và giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, thiếu tính quyết
20


đốn trong cơng việc, cá biệt có chính trị viên khơng dám thừa nhận cái sai của
mình, đổ trách nhiệm cho cấp dưới.
3. Một số biện pháp tâm lý - xã hội hình thành và phát triển nhân
cách người chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay
a, Nâng cao chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chính trị viên
Đào tạo, bồi dưỡng chính trị viên thực chất là chuẩn bị về phẩm chất nhân
cách và tay nghề cơng tác đảng, cơng tác chính trị cho họ. Chất lượng của quá
trình đào tạo, bồi dưỡng đó có thể được đánh giá thơng qua kết quả thực hiện

cương vị, chức trách người cán bộ chính trị tại đơn vị. Vì vậy, đào tạo, bồi
dưỡng chính trị viên phải bảo đảm tốt tính thiết thực để họ có thể nhanh chóng
bắt nhịp được với thực tế đơn vị và hồn thành tốt nhiệm vụ.. Theo đó, nội dung
đào tạo, bồi dưỡng phải phù hợp với thực tế hoạt động của chính trị viên, các bài
học, nhất là về khoa học xã hội và nhân văn phải luôn mang “hơi thở” của đời
sống xã hội, của quân đội. Đồng thời, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng phải bảo đảm được sự thống nhất giữa học và hành, chống truyền thụ một
chiều, thụ động, máy móc; thực hiện tốt phương châm lý luận liên hệ thực tiễn.
Để người chính trị viên thích ứng được với những phát triển mới của việc
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, họ phải
có trình độ đào tạo cao (đại học, sau đại học). Nhưng việc đào tạo tại trường chỉ
có thể góp phần hình thành những phẩm chất nhân cách cơ bản cho chính uỷ, do
đó q trình bồi dưỡng tại chức trở nên rất cần thiết để phát triển nhân cách của
ngươi chính trị viên trong q trình cơng tác.
Những tác động sư phạm trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng chỉ phát huy
tác dụng hình thành, phát triển nhân cách của chính trị viên khi người được đào
tạo, bồi dưỡng luôn nêu cao tính tích cực học tập. Muốn vậy, những người
đang phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành chính trị viên phải có động cơ
học tập đúng, đó là học để làm người, làm cán bộ, học để phụng sự Tổ quốc và
nhân dân, chứ khơng phải vì những động cơ cá nhân chủ nghĩa. Bên cạnh đó,
họ cịn phải có phương pháp học tập, rèn luyện khoa học, trên cơ sở đề cao tính
độc lập, sáng tạo; tư duy độc lập; chủ động tìm tịi, phát hiện những cái mới
21


đối với bản thân từ đó nâng cao nhận thức, chuyển biến tư tưởng, thái độ, đổi
mới về hành động.
b, Phát huy tính tích cực của người chính trị viên trong hoạt động thực
tiễn theo chức trách, nhiệm vụ
Nhân cách con người hình thành và phát triển trong hoạt động, vì vậy để

hồn thiện nhân cách của chính trị viên trước hết là phát huy tính tích cực của họ
trong hoạt động thực tiễn. Để làm được điều đó, chính trị viên phải quán triêt
sâu sắc chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời mọi con người,
mọi tổ chức trong đơn vị phải ủng hộ và phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo của
chính trị viên theo quy định của chức trách, nhiệm vụ. Nhưng điều quan trọng
là, chính trị viên phải hình thành được động cơ, mục đích hoạt động đúng đắn
của mình, trên cơ sở lựa chọn hợp lý đối tượng, phương thức thoả mãn nhu cầu
của mình và phân tích một cách khách quan tình hình, nhiệm vụ của đơn vị.
Tham gia chủ động và tích cực vào hoạt động thực tiễn, con người sẽ dần
dần tích góp được những nét tâm lý mới, những nét tâm lý này phát triển ổn
định thì sẽ trở thành những thuộc tính, phẩm chất của nhân cách. Tuy nhiên, hoạt
động thực tiễn chỉ có thể tác động hiệu quả đến sự phát triển nhân cách của
chính trị viên khi việc tổng kết và phổ biến kinh nghiệm thực tiễn được tiến
hành thường xuyên và nghiêm túc. Thông qua tổng kết thực tiễn chính trị viên sẽ
nhận thức sâu sắc hơn về con người, tổ chức; đúc rút được kinh nghiệm tiến
hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị; tích luỹ được vốn sống trong giải quyết
các quan hệ xã hội...Tất cả những điều đó sẽ góp phần phát triển các phẩm chất
chính trị - đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp, phẩm chất tâm lý của nhân cách
người chính trị viên.
Hiểu rõ tác dụng to lớn của hoạt động thực tiễn đối với quá trình hình thành
và phát triển nhân cách, người chính chính trị viên một mặt khơng được nề hà
bất kể cơng việc gì thuộc chức trách, nhiệm vụ của mình, nhưng mặt khác phải
ln chú ý tổ chức một cách khoa học các hoạt động của đơn vị, bảo đảm cho nó
có kế hoạch, có tổ chức, kỷ luật chặt chẽ và đạt chất lượng, hiệu quả cao. Chỉ có
22


như vậy nhân cách của chính trị viên nói riêng, nhân cách quân nhân nói chung
mới phát triển mạnh mẽ.
c, Mở rộng quan hệ xã hội và giao tiếp của chính trị viên trong cộng đồng

xã hội, đặc biệt là trong tập thể quân nhân
Nhân cách con người luôn là sản phẩm của điều kiện kiện xã hội - lịch sử.
Đó chính là tồn bộ các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hố, pháp luật, tơn giáo...
của xã hội, tồn tại ở các phạm vi khác nhau: nhân loại, khu vực, quốc gia, dân
tộc, địa phương, đơn vị, dòng tộc, gia đình... Điều kiện xã hội - lịch sử thường
được xem xét theo hai cấp độ: môi trường xã hội rộng lớn (môi trường xã hội
của quốc tế, của đất nước, của quân đội...) và môi trường gần gũi (đơn vị, hoặc
những cộng đồng xã hội mà con người có sự tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên).
Đối với sự hình thành, phát triển nhân cách, mơi trường xã hội rộng lớn thường
chi phối và để lại dấu ấn trong những đặc điểm chung có tính thời đại, dân tộc,
giai cấp, vùng miền trong nhân cách, cịn mơi trường gần gũi có vai trị là “bộ
lọc”, hay là “lăng kính” làm “khúc xạ” các tác động từ môi trường xã hội rộng
lớn đến nhân cách. Môi trường gần gũi trực tiếp chi phối tới nội dung, hình thức
biểu hịên của các phẩm chất nhân cách.
Vì vậy, để hình thành, phát triển nhân cách của mình có kết quả, chính trị
viên phải thực sự gắn bó với tập thể đơn vị và chú ý mở rộng các quan hệ xã hội,
quan hệ giao tiếp với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Trong khi giao tiếp xã hội,
một mặt chính trị viên phải phát huy sự ảnh hưởng tích cực của mình tới nhân
cách của những người tham gia giao tiếp, mặt khác phải chú ý học tập những
biểu hiện tốt từ họ và kiên quyết ngăn chặn ảnh hưởng của những thói hư, tật
xấu từ một số người có quan hệ cơng việc, quan hệ tình cảm với mình. Để có thể
tiếp thu có chọn lọc những tác động xã hội từ những người xung quanh, chính
uỷ phải là một chủ thể tham gia quan hệ xã hội một cách chủ động, tích cực, có
tính tự chủ, tự trọng cao.
d, Tăng cường tự giáo dục, tự học tập, rèn luyện của người chính trị viên
Giáo dục phải kết hợp với tự giáo dục, tự học tâp, rèn luyện thì mới có thể
hình thành và phát triển nhân cách của người chính trị viên một cách chủ động
23



và hiệu quả. Bởi vì, con người khơng chỉ là chủ thể trong hoạt động và quan hệ
xã hội, mà còn là chủ thể trong sự phát triển nhân cách của chính mình. Chính
trij viên là một nhân cách đã trưởng thành chín muồi, do đó càng có khả năng
thực hiện tốt tư cách chủ thể trong xây dựng nhân cách của mình thơng qua tự
giáo dục, tự học tâp, rèn luyện.
Để làm tốt việc tự giáo dục, tự học tập rèn luyện, chính trị viên phải biết tự
đánh giá mình một cách khách quan và dũng cảm, tránh tự bằng lịng, thoả mãn
với mình, thích tự khen mình. Chỉ có nhận rõ được mạnh yếu trong từng phẩm
chất nhân cách, cũng như những khiếm khuyết trong kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
của mình so với yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ, chính trị viên mới có thể định
hướng đúng trong việc tự giáo dục, tự học tập, rèn luyện. Bên cạnh đó, chính trị
viên phải kiên quyết tự địi hỏi, tự động viên mình để sửa chữa khuyết điểm, yếu
kém bằng việc tạo nên động cơ tự giáo dục, tự học tập mạnh mẽ. Đây là việc rất
khó, vì vậy chính trị viên phải nỗ lực ý chí cao, thường xuyên tự phê bình, tự
đấu tranh với mình một cách nghiêm khắc. Trên cơ sở tạo nên những điều kiện
tâm lý của chính bản thân chính trị viên để thúc đẩy tự giáo dục, tự học tập, rèn
luyện như vừa nêu, chính trị viên phải khơng ngừng tự đổi mới hoạt động nhận
thức, hoạt động thực tiễn của mình và thường xun tự rút kinh nghiệm. Những
cơng việc đó sẽ góp phần làm cho nhân cách của người chính trị viên khơng
ngừng hồn thiện.

24


KẾT LUẬN
Nhân cách của người lãnh đạo - quản lý là tổng hoà những phẩm chất xã
hội, cấu thành đạo đức, năng lực và phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo quản lý đáp ứng đòi hỏi của hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ và chịu trách
nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động của đơn vị.
Nhân cách của người lãnh đạo - quản lý bộ đội là nhân cách của một
người chủ trì, chỉ huy, người đứng đầu đơn vị. Bởi vậy, việc hình thành và phát

triển nhân cách lãnh đạo - quản lý bộ đội nói chung và nhân cách người chính trị
viên nói riêng là một nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng con người
mới trong lực lượng vũ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước,
nhân dân giao cho quân đội hiện nay. Và đây cũng là vấn đề quan trọng chiến
lược trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho q trình xây dựng qn đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Hình thành và phát triển nhân cách người chính trị viên ở đơn vị cơ sở
hiện nay là vấn đề cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong phát triển hoàn
thiện nhân cách cho đội ngũ chính trị viên hiện nay cần tập trung giáo dục bản
lĩnh chính trị, mục tiêu lý tưởng, đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn và
phương pháp tác phong cơng tác.Trong q trình phát triển nhân cách cho đội
ngũ chính trị viên ở đơn vị cơ sở, cần áp dụng kết hợp nhiều biện pháp. Trong
đó, giáo dục đào tạo giữ vai trị chủ đạo trong việc định hướng hình thành và
phát triển nhân cách còn tự tu dưỡng và rèn luyện của bản thân mỗi người chính
trị viên giữ vai trị quyết định việc hình thành và phát triển nhân cách.

25


×