Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số giải pháp phát triển kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu giáo 45 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.97 KB, 24 trang )

0

MỤC LỤC
rri* ^ -* ^

TT

Tiêu đê

1

MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2 NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Đặc điểm tình hình chung

Trang
1-2
1
1
2
2
2-20
2-3
3-6
3



2.2.2 Thuận lợi, khó khăn

3-4

2.2.3 Kết quả của thực trạng
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

4-6

Sử dụng các tình huống thực tế và tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm để tự nhận
2.3.1 thức được tình cảm, ý nghĩ, kỹ năng và hành vi của chúng trong các hoạt
động hấp dẫn.
2.3.2 Củng cố tri thức của trẻ về tên gọi, vị trí của các giác quan, các bộ phận cơ
thể con người, bản thân trẻ
2.3.3 Hình thành khả năng hiểu ý nghĩa của các giác quan và các bộ phận cơ thể.

2.3.4 Hình thành ở trẻ mong muốn, khả năng quan tâm, chăm sóc các giác quan và

6-20
6-10
10-13
13-16
16

bộ phận cơ thể.

2.3.5 Kích thích nhu cầu hiểu biết về vị trí của trẻ trong quan hệ với mọi người

17


xung quanh.

2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3 KÉT LUÂN VÀ KIÊN NGHỊ

13-16
16-19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

20

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT , CẤP SỞ GD&ĐT ĐÁNH
GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN

21


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
“Tôi là ai? Tơi có thể làm được điều gì? Tơi có những điểm mạnh, điểm
yếu như thế nào?” – Những câu hỏi được rất nhiều người từng đặt ra và luôn trăn
trở để đi tìm câu trả lời đúng cho mình. “Nhận thức về bản thân của một người là
cơ sở nhân cách của người đó. Nó ảnh hưởng đến mọi phương diện đời sống của
con người: khả năng học hỏi, khả năng trưởng thành và thay đổi, sự nghiệp và
bạn đời. Khơng q đáng khi nói rằng, nhận thức đúng về bản thân là sự chuẩn bị
khả dĩ và tốt nhất cho những thành công trong cuộc sống”[1].
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo sự phát triển bùng nổ của khoa học

và cơng nghệ đã một phần nào đó làm ảnh hưởng khá lớn tới giới trẻ hiện nay,
đặc biệt là trẻ nhỏ với đặc tính thích khám phá và tìm tịi. Sự lệ thuộc q nhiều
vào cơng nghệ của đồ chơi, điện thoại, máy tính, máy tính bảng… làm cho khơng
ít trẻ thiếu những kỹ năng sống cơ bản để thích nghi và tồn tại với với cuộc sống.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
giai đoạn quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách tồn diện cho trẻ
và chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông. Với mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ là:
“…Trẻ thơng minh, ham tìm hiểu, thích khám phá tìm tịi, tự tin, tự lực, độc lập
sáng tạo, linh hoạt dễ hoà nhập, dễ chia xẻ…”, trường mầm non là nơi thuận lợi
nhất để tạo ra những tiền đề đầu tiên cho việc hình thành tư cách con người mới
nói chung và hình thành khả năng tự nhận thức bản thân cho trẻ nói riêng. Tự
nhận thức là một kỹ năng sống rất cơ bản của con người, là nền tảng để con
người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác. Trước hết là những
người thân yêu trong gia đình, trong lớp học, trong cơ quan và sau đó là con
người trong cộng đồng, xã hội [2].
Ngay từ lứa tuổi mầm non, trẻ đã có nhu cầu nhận thức sự vật, hiện tượng
xung quanh và đặc biệt trẻ sớm có hứng thú nhận thức đối với bản thân và dần
dần ý thức được sự phụ thuộc của bản thân vào mơi trường xung quanh. Nhờ đó,
trẻ có niềm tin vào bản thân khi tham gia hoạt động cũng như trong quan hệ gia
tiếp với mọi người. Đến 4 tuổi, khả năng nhận thức nói chung, tự nhận thức nói
riêng của trẻ đã có những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển. Nhờ vậy, trẻ có ý
thức hơn trong các hoạt động và sinh hoạt, biết được những khả năng và giới hạn
của mình.
Với những lý do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Một số giải pháp phát
triển kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm
non Vĩnh Long”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Với mục đích phát triển khả năng tự nhận thức bản cho trẻ mẫu giáo 4-5
tuổi, Chúng ta hướng trẻ vào một tiến trình nhận thức tài năng, sự khéo léo cũng
như khó khăn và hạn chế của trẻ. Tiến trình này giúp trẻ thể hiện tốt hơn nhu cầu

của trẻ, để trẻ khơng thu mình lại, khơng chạy trốn hiện thực. Trẻ có thể dần trở
nên khéo léo trong những mối quan hệ xã hội, khám phá ra mình là một cá thể
duy nhất trong xã hội và dần có thể nhận thức về những người xung quanh. tự


2

nhận biết, tự đánh giá về những đặc điểm, tính cách, khả năng, hạn chế, nhu cầu
mong muốn của bản thân. Biết tên, tuổi, giới tính, đặc điểm bên ngồi, sở thích
của mình, hay là những điều mình thích và khơng thích [3]…..Nhận thức được
vai trị, trách nhiệm của bản thân trong gia đình và lớp học. Có những suy nghĩ
tích cực về bản thân. Qua cách trẻ thể hiện bản thân như: Mạnh dạn, tự tin, phát
biểu ý kiến, đặt câu hỏi và bày tỏ ý kiến của mình, truyền đạt những kinh nghiệm
của mình cho các bạn. Biết chịu trách nhiệm với những việc xảy ra xung quanh.
Nhận thức đúng, sai một cách thực tế và đúng đắn….
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu các kỹ năng biết tự nhận thức giá trị bản thân giúp trẻ hiểu rõ
bản thân;
- Nghiên cứu “Một số giải pháp phát triển kỹ năng tự nhận thức bản thân
cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Long”
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
Phương pháp này nhằm sưu tầm, thu thập các tài liệu, sách báo có liên
quan đến vấn đề phát triển kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu giáo 4-5
tuổi.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp khảo sát và điều tra thực tế
- Phương pháp quan sát: để quan sát các hoạt động của trẻ 4 – 5 tuổi về
nhận thức bản thân hàng ngày tại lớp.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp tài liệu tham khảo.

- Phương pháp thống kê và xử lí các số liệu thu thập được
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Kỹ năng biết tự nhận thức giá trị bản thân giúp trẻ hiểu rõ bản thân mình:
Đặc điểm, tính cách, thói quen, thái độ, ý kiến, cách suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu
của chính mình, các mối quan hệ xã hội cũng như những điểm tích cực và hạn
chế của bản thân. Xác định giá trị bản thân một cách đúng đắn, sẽ giúp trẻ tự
nhận thức rõ giá trị, vị trí của chính bản thân mình trong cuộc sống, ngồi ra giúp
trẻ xác định được rõ những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân từ đó nhận ra
được những khả năng tiềm ẩn của trẻ trong những lĩnh vực khác nhau như: khoa
học, văn hóa, nghệ thuật…Đồng thời, trẻ biết học cách sống tích cực hơn tránh xa
thói sống tiêu cực, biết rõ đâu là điểm dừng tốt nhất cho bản thân, và đặc biệt biết
tự đặt ra những mục tiêu thiết thực phấn đấu cho tương lai sau này.[4] Đối với
Chủ đề “Bản thân” trong chương trình Giáo dục Mầm non được thực hiện dưới
nhiều dạng hoạt động khác nhau trong đó có hoạt động tìm hiểu MTXQ, nhằm
giúp trẻ nhận thức đúng về mình, về vị trí của chúng trong mối quan hệ với mọi
người xung quanh nhằm giúp trẻ dễ dàng thích nghi với MTXQ, có những hành
vi ứng xử, giao tiếp phù hợp [3].
Như vậy, có thể thấy khả năng tự nhận thức của trẻ mẫu giáo bao gồm các
yếu tố sau:


3

- Có hứng thú và nhu cầu tự nhận thức (Lịng mong muốn tìm hiểu, khám
phá bản thân mình).
- Có kỹ năng, năng lực tự nhận thức, biết vận dụng những điều đã biết vào
trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới để khám phá bản thân. Biết sử dụng một số
thao tác tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá...) để giải quyết
nhiệm vụ nhận thức về bản thân.

- Có thái độ tích cực đối với việc nhận thức bản thân.
Một trong những hình thức đánh giá sự tư duy và sự phát triển kỹ năng tự
nhận thức của trẻ là thông qua các hành động của các trẻ: ngơn ngữ hình ảnh và
cử chỉ. Ví dụ như các tác phẩm nghệ thuật hay những bức tranh vẽ của các em từ
những năm đầu đời thể hiện rất rõ rệt về sự nhận thức của từng trẻ và tâm tư, sự
phát triển về cảm xúc của trẻ có tích cực hay khơng tích cực. Những kỹ năng cần
có để phát triển kỹ năng tự nhận thức của trẻ cần có kỹ năng thu nhận thơng tin từ
mơi trường xung quanh: quan sát, chú ý lắng nghe và nhận biết hình ảnh từ
những mơi trường xung quanh đó..địng thời có khả năng ghi nhớ những hình ảnh
, màu sắc. Ngồi ra trẻ cịn có khả năng thực hiện các hành động, công việc theo
chỉ dẫn và khả năng sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ và điệu bộ đê thực hiện các hoạt
động giao tiếp, và thực hiện các hoạt động học tập, giao lưu với các bạn.
Khi trẻ có các kỹ năng tự nhận thức tốt, trẻ sẽ:
+ Có cái nhìn thực tế và khách quan về ưu – nhược điểm của mình.
+ Xác định được những việc cần làm để hoàn thành một nhiệm vụ.
+ Cố gắng thay đổi và hồn thiện bản thân.
+ Có thể dễ dàng tâm sự, bộc lộ nội tâm.
+ Nhận ra nhu cầu và cảm xúc của người khác.
+ Thấy được mức độ tác động từ những hành vi của mình đến những người
khác.
+ Có những hành vi và cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh.
+ Đưa ra những quyết định, lựa chọn đúng đắn cho bản thân.
Với cơ sở như vậy, là một giáo viên đứng lớp 4-5 tuổi lâu năm, tôi luôn
trăn trở với những lý do trên nên tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp thích hợp
để từng trẻ trong trường, trong lớp tơi có được những kỹ năng tự nhận thức về
bản thân nhằm góp phần phát triển tồn diện cho trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Đặc điểm tình hình:
Trường mầm non Vĩnh Long gồm có có 25 nhóm lớp. Trong đó có: 17 lớp
mẫu giáo và 8 nhóm trẻ. Nhà trường có đội ngũ giáo viên đạt trình độ chuẩn và

trên chuẩn 100%, có lịng u nghề, mến trẻ, có trình độ chun mơn vững vàng.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Năm học 2020 – 2021, tôi được phân công phụ trách lớp 4-5 tuổi với số trẻ
lad 30 cháu.
2.2.2. Thuận lợi, khó khăn:
Trong q trình nghiên cứu tơi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:


4

- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, trường Mầm non Vĩnh Long có tinh thần,
nhiệt huyết trong cơng tác chăm sóc - giáo dục trẻ.
- Ban giám hiệu thường xuyên tổ chức dự giờ, thăm lớp. Qua đó xây dựng
và nhân điển hình cá nhân, tập thể lớp thực hiện tốt cơng tác chăm sóc và giáo
dục trẻ, từ đó tơi có dịp trau dồi thêm nhiều kinh nghiệm trong cơng tác chăm
sóc, giáo dục trẻ cho bản thân.
- Trường thực hiện mơ hình bán trú với các nhóm lớp phân theo độ tuổi
nên thuận tiện cho việc giảng dạy và chăm sóc. Số trẻ ăn bán trú tại lớp là 100%.
- Khn viên trường rộng, có nhiều cây xanh, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc
với thiên nhiên, là môi trường tốt cho trẻ phát triển
Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc học tập và vui chơi của trẻ ngày càng
được nâng cao hơn.
Đa số các bậc phụ huynh có hiểu biết về tầm quan trọng của việc chăm
sóc-Giáo dục trẻ nên đã đưa trẻ đến trường đúng độ tuổi 100%. Nhiệt tình ủng hộ
tơi trong việc dạy dỗ các cháu.
Các cháu đều khỏe mạnh, nhanh nhẹn và ngoan ngỗn, rất ham hiểu biết
thích khám phá thế giới xung quanh.
Về bản thân tôi luôn yêu nghề mến trẻ, đối xử cơng bằng với trẻ, coi việc
chăm sóc giáo dục trẻ là việc quan trọng hàng đầu. Ngay từ đầu năm học tôi

thường xuyên được ban giám hiệu dự giờ, góp ý để nâng cao chất lượng giờ dạy,
được dự nhiều tiết dạy chuyên đề, tiết dạy mẫu, nhiều giờ sinh hoạt chun mơn
và điều quan trọng đó là bản thân tôi luôn ham học hỏi trau dồi kiến thức, tham
khảo tài liệu để nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm cho bản thân mình về chăm
sóc - giáo dục trẻ và đặc biệt là việc phát triển khả năng nhận thức bản thân cho
trẻ.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản song vẫn còn một số tồn tại đó là, đội
ngũ giáo viên trình độ chun mơn năng lực có phần cịn hạn chế trong việc thực
hiên các chuyên đề phương pháp dạy học và tổ chức các hoạt động.
Khuôn viên nhà trường tuy đã được đầu tư xây dựng nhưng chưa được
như momg muốn, bồn hoa cây cảnh, các nguyên vật liệu thiên nhiên… đã có
nhưng chưa thật sự phong phú và hấp dẫn đối với trẻ, nên phần nào hạn chế sự
trải nghiệm của trẻ
Ở lớp tơi phụ trách trẻ nhận thức cịn chậm, chưa mạnh dạn, chưa tích cực
khi trải nghiệm, cịn e dè… nên cịn gặp khó khăn trong việc cho trẻ thực hành
trải nghiệm. Vì vậy việc phát triển kỹ năng nhận thức bản thân đạt kết quả chưa
cao
2.2.3. Kết quả của thực trạng:
* Khảo sát chất lượng trẻ đầu năm học 2020-2021 cho thấy kết quả như
sau:
Mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ 4-5 tuổi
Tri thức
Kỹ năng
Thái độ

Số trẻ
30

Đạt


Tỷ lệ %

Đạt

Tỷ lệ %

Đạt

Tỷ lệ %

17

57

15

50

16

53


5

Nhiều trẻ cả 3 mặt trên đều chưa đạt ở mức độ “thấp” và mức độ “rất
thấp”, nguyên nhân là do việc giáo dục chưa được thường xuyên, chưa có hệ
thống, phương pháp giáo dục chưa phù hợp với lứa tuổi nên hiệu quả thực tiễn
còn thấp.

* Thực trạng về mức độ sử dụng các nội dung hình thành khả năng tự
nhận thức bản thân cho trẻ 4 - 5 tuổi:
Mức độ sử dụng %
TT Nội dung

1

2

3

Các yêu cầu cụ thể

- Có hiểu tượng về bản thân như
một thực thể tự nhiên (tên gọi, các
giác quan và các bộ phận)
Làm quen
- Sử dụng các giác quan để tìm hiểu
với cơ thể
MTXQ
- Có nhu cầu quan tâm đến cơ thể,
đồng cảm với người tàn tật
- Hình thành hiểu tượng về bản thân
như một thực thể xã hội (có suy
nghĩ, tình cảm, kỹ năng, hành vi.)
Tự nhận
- Biết sử dụng các giác quan và cơ
thức về
thể để thể hiện tình cảm, suy nghĩ,
tình cảm, ý

hành vi, (Biết đưa ra tình cảm, suy
nghĩ, kỹ
nghĩ của người khác, biết lắng nghe,
năng, hành
hiểu ý nghĩ của người khác
vi
- Có hứng thú với q trình suy
nghĩ. Tơn trọng suy nghĩ, tình cảm
của người khác
- Có biểu tượng về vị trí bản thân
Ý thức
trong xã hội (Biểu tượng về gia
được vị trí
đình: Các thành viên, vị trí, địa chỉ,
của mình
đồ vật trong gia đình, mối quan hệ
trong xã
giữa các thành, dịng họ)
hội
- Kỹ năng chăm sóc cơ thể và quan
(Trường
tâm đến người khác
mầm non
- Nhạy cảm trong quan hệ với mọi
gia đình)
người xuanh

Thường Thỉnh
xuyên thoảng


Hiếm
khi

80

20

0

80

20

0

60

40

0

60

40

0

60

40


0

40

57

3

43

57

0

46,7

46,7

6,6

30

60

10

Qua bảng số liệu chúng ta thấy phần lớn giáo viên mới chỉ quan tâm đến
nội dung “ Làm quen với cơ thể ”, với hai nội dung còn lại, chưa thực sự được
giáo viên đề cao, đó chính là những nội dung quan trọng khơng thể thiếu trong

việc hình thành khả năng tự nhận thức bản thân cho trẻ. Chính vì sự nhận thức
chưa đầy đủ của giáo viên về vấn đề này nên việc quan tâm đến hình thành khả
năng tự nhận thức về bản thân cho trẻ và đánh giá chúng chưa được thoả đáng.
Qua việc quan sát và phân tích thực trạng hình thành khả năng tự nhận
thức bản thân cho trẻ 4-5 tuổi trong hoạt động tìm hiểu mơi trường xung quanh,
tơi nhận thấy có một số ngun nhân sau:


6

- Giáo viên coi việc hình thành khả năng tự nhận thức bản thân cho trẻ là
một việc làm quan trọng nhưng khơng thể hiện nó trong thực tế tổ chức các hoạt
động tìm hiểu mơi trường xung quanh.
Thực tế, giáo viên chưa thực sự chú ý đến việc hình thành khả năng tự
nhận thức bản thân cho trẻ trong hoạt động tìm hiểu mơi trường xung quanh bởi
có lẽ do chưa hiểu rõ bản chất khái niệm và quá trình hình thành khả năng tự
nhận thức bản thân của trẻ mầm non nên việc xác định nội dung chưa rõ, chưa
đầy đủ và đặc biệt là chưa có biện pháp thích hợp để giáo dục trẻ nên hiệu quả
giáo dục nhằm hình thành khả năng tự nhận thức bản thân của trẻ chưa cao.
- Cách tổ chức của giáo viên chưa tạo điều kiện, chưa gây được hứng thú
cho trẻ chủ động trong quá trình hoạt động và nhận thức. Cụ thể: phần lớn giáo
viên đã lựa chọn một số phương pháp, biện pháp tổ chức các hoạt động tìm hiểu
mơi trường xung quanh thiếu sự linh hoạt, sáng tạo mà chủ yếu vẫn dựa quá
nhiều vào tài liệu hướng dẫn.
- Giáo viên chưa linh hoạt trong cách sử dụng kết hợp các phương pháp,
biện pháp nhằm giúp trẻ phát huy tốt được khả năng tự nhận thức được bản thân
của mình. Họ quá đề cao một số biện pháp truyền thống và sử dụng nó một cách
lạm dụng; chưa chú ý đến một số biện pháp có vai trị rất lớn đối với việc hình
thành khả năng tự nhận thức bản thân cho trẻ (Trải nghiệm, thí nghiệm, luyện tập,
kết hợp các biện pháp khác .... ).

Trong khi tổ chức đàm thoại cho trẻ, giáo viên chưa chú ý đến việc phát
huy khả năng nhận thức của trẻ. Mới chỉ chú trọng đến việc đặt câu hỏi cho trẻ và
yêu cầu trẻ trả lời, chưa tạo tình huống, cơ hội kích thích trẻ tích cực nhận thức
bằng cách hứng thú tìm hiểu, khám phá, đặt câu hỏi đối với cô.
Từ thực trạng trên để nâng cao chất lượng giáo dục trong việc rèn luyện cho
trẻ các kỹ năng nhận thức bản thân. tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp phát
triển kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
vĩnh Long”.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1 Sử dụng các tình huống thực tế và tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm
để tự nhận thức được tình cảm, ý nghĩ, kỹ năng và hành vi của chúng trong
các hoạt động hấp dẫn.
Tự nhận thức về tình cảm, ý nghĩ, kỹ năng, hành vi là một nội dung quan
trọng khơng thể thiếu trong q trình hình thành khả năng tự nhận thức bản thân
cho trẻ. Giáo viên cần hình thành ở trẻ khả năng nhận biết những biểu hiện của
con người và so sánh những biểu hiện đó giữa người này với người khác, giữa trẻ
em với người lớn, giữa con người và động vật.
Để giải quyết được vấn đề này, giáo viên phải xây dựng được các biện
pháp giáo dục nhằm hình thành biểu tượng về bản thân như một thực thể đang
tồn tại, có khả năng tự suy nghĩ, biết lập kế hoạch hành động, hành vi của mình
và nói về điều đó. Trong quá trình giải quyết nhiệm vụ sẽ tạo ra sự hứng thú với
quá trình “suy nghĩ”,những cố gắng về trí tuệ và kết quả đạt được. Hình thành ở
trẻ biểu tượng rằng mọi người đều biết suy nghĩ và ý nghĩ của họ có thể khơng
giống trẻ, điều quan trọng là phải tôn trọng và chú ý đến suy nghĩ của người


7

khác; biết lắng nghe và cố gắng hiểu họ. Giáo viên cũng cần xác định rõ: liệu trẻ
có biết “đọc” suy nghĩ, tình cảm của người khác để hiểu tâm trạng của họ khơng,

sau đó nghe trẻ nói về tình cảm của chúng.
Việc so sánh cảm xúc của người và động vật thường gây được hứng thú
của trẻ. Cần phải làm cho trẻ hiểu bản chất của vấn đề là con người khơng những
biết thể hiện cảm xúc của mình mà cịn biết điều khiển tình cảm của mình- Đó là
sự khác nhau giữa con người và động vật.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là hình thành ở trẻ biểu tượng về đặc
điểm nổi bật của con người là một thực thể biết suy nghĩ ( “ Tôi là một con người
vì tơi biết suy nghĩ và có thể nói về những điều tơi nghĩ”).
* Hình thành ở trẻ biểu tượng về bản thân như một thực thể đang tồn
tại.
- Tổ chức các hoạt động hấp dẫn cho trẻ (lao động, hoạt động vui chơi, học
tập…)
Trong quá trình tham gia hoạt động, trẻ hiểu rằng muốn làm gì để đạt hiệu
quả cao cần phải suy nghĩ, phải lập kế hoạch và cố gắng vượt qua khó khăn để
đạt mục đích. Nếu trong hoạt động tập thể phải suy nghĩ để phân công công việc
đối với từng người cho hợp lý và mọi người khi làm việc cũng phải suy nghĩ thì
mới giải quyết mọi việc được tốt. Trong trị chơi, muốn không vi phạm luật chơi
cũng phải nghĩ nên hành động như thế nào, muốn giải quyết các nhiệm vụ trong
trò chơi học tập cũng vẫn phải nghĩ, muốn làm đồ chơi, vẽ, năn…cũng phải nghĩ.
Sự trải nghiệm thực tế này giúp trẻ hiểu rằng ai cũng phải nghĩ để làm việc, chơi
có hiệu quả.
- Tổ chức cho trẻ đàm thoại
Sau khi trẻ đã tham gia các hoạt động (vui chơi, lao động, học tập…) cần
tổ chức cho trẻ đàm thoại về các hoạt động đó. Tuy nhiên, nội dung đàm thoại
liên quan đến việc làm rõ tác dụng của việc suy nghĩ với kết quả hoạt động.
Do vậy, phải đặt ra các câu hỏi định hướng nội dung đàm thoại của trẻ. Có
thể sử dụng các loại câu hỏi:
- Câu hỏi: làm rõ hoạt động trẻ vừa thực hiện “Con vừa làm gì?”
- Câu hỏi: ảnh hưởng của hoạt động tới cơ thể “Con có mệt khơng?”
- Câu hỏi: cảm nghĩ của trẻ về quá trình hoạt động “Con có thích làm

khơng? tại sao?”
- Câu hỏi: đánh giá kết quả hoạt động “Bạn A làm tốt? tại sao?”, “Cháu đã
làm như thế nào?”
Trả lời các câu hỏi này giáo viên giúp trẻ rút ra kết luận: nếu làm gì đó mà
suy nghĩ thì kết quả sẽ tốt hơn.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung câu trả lời của trẻ. Cần nhấn mạnh vào việc
hình thành ở trẻ biểu tượng về bản thân như một thực thể đang tồn tại.
Với tư cách là người điều khiển quá trình đàm thoại, giáo viên phải biết sử
dụng các câu hỏi định hướng phù hợp với nội dung chủ đề và khả năng nhận thức
của trẻ để giúp trẻ tích cực huy động tới mức tối đa những hiểu biết của mình
nhằm xây dựng biểu tượng đúng về bản thân như một thực thể đang tồn tại, dồng
thời duy trì được hứng thú của trẻ trong suốt q trình đàm thoại.
Ví dụ:
* Tổ chức cho trẻ chơi “ Bé tập làm họa sĩ”


8

Giáo viên chuẩn bị bút chì, giấy, sáp màu…gây hứng thú, yêu cầu trẻ suy
nghĩ, tưởng tượng và vẽ về những gì trẻ thích. Trong khi trẻ vẽ, giáo viên gợi ý,
hỏi ý tưởng của trẻ về bức tranh của mình, Sau khi trẻ vẽ xong,giáo viên u cầu
trẻ nói về bức vẽ đó. Nhận xét những bài vẽ đẹp và nhấn mạnh rằng, chỉ có thể vẽ
đẹp nếu chúng cố gắng suy nghĩ, tưởng tượng- đó là một việc làm có ích và hấp
dẫn.
* Tổ chức cho trẻ đàm thoại
Trẻ được tham gia vào đàm thoại theo chủ đề kết hợp với việc sử dụng
tranh ảnh. Bằng những câu hỏi định hướng của giáo viên, giúp trẻ hiểu được tình
cảm của người khác, hiểu được tâm trạng của họ:
+ Con thử đốn xem, điều gì đã xảy ra với bạn?
+ Con sẽ làm gì khi thấy bạn vui?

Sau đó nghe trẻ phân tích tình cảm của bản thân:
+ Con sẽ làm gì khi cảm thấy vui?
Giúp trẻ biết so sánh cảm xúc của con người với động vật bằng các câu hỏi
khác nhau:
+ Con người và con vật khác nhau ở điểm gì?
+ Khi vui ( buồn), con vật có biết thể hiện cảm xúc khơng? Nó thể hiện
như thế nào?
Giáo viên cần làm cho trẻ hiểu bản chất của vấn đề là: con người không
những biết thể hiện xúc cảm của mình mà cịn biết điều khiển tình cảm của mình
(con người có thể cố nín khơng khóc hoặc khơng cười nếu lúc đó khơng nên làm
như vậy)- đó là sự khác nhau giữa con người và con vật. Sau đó yêu cầu trẻ kiểm
tra lại bản thân chúng.
Thông qua các hoạt động trên, những trẻ thể hiện rõ tính độc lập, tích cực
suy nghĩ sẽ được đánh giá cao. Kết quả của công việc này được thể hiện bằng sự
hứng thú của trẻ đối với hoạt động trí tuệ và hiểu rằng trẻ cũng giống mọi ngườiđều biết suy nghĩ, có tình cảm, có kỹ năng và hành vi trong các hoạt động.
- Hình thành ở trẻ biểu tượng- mọi người đều biết suy nghĩ
Để hình thành ở trẻ biểu tượng là “ mọi người đều biết suy nghĩ và suy
nghĩ của mỗi người có thể khác nhau; cần tôn trọng và hiểu suy nghĩ của họ”:
- Tổ chức cho trẻ quan sát sự vật, hiện tượng xung quanh. Sau đó tiến hành
đàm thoại tạo điều kiện cho trẻ phân tích suy nghĩ của chúng
Ví dụ:
* Tổ chức cho trẻ quan sát thực vật:
Khi tổ chức hoạt động ngồi trời, dạo chơi, trong khn viên nhà trường,
giáo viên yêu cầu trẻ quan sát một loại cây nào đó. u cầu mọi trẻ cùng quan
sát, tìm hiểu về cây đó. Sau đó giáo viên tạo điều kiện để trẻ có thể nói lên suy
nghĩ của mình về đối tượng trẻ vừa được quan sát (Tên gọi, đặc điểm, hình dáng,
cấu tạo,ích lợi, cách chăm sóc…). Mỗi trẻ đều suy nghĩ và nói nhận xét của mình.
Có thể cho trẻ quan sát khung cảnh sân trường, quan sát vườn hoa của
trường, quan sát các đồ chơi ngoài trời…Dùng các câu hỏi giúp trẻ nhận ra rằng
chúng đã nói về những gì chúng nhìn thấy theo nhiều cách khác nhau và đó là

điều tốt vì càng có nhiều người càng được nghe nhiều ý kiến khác nhau. Giáo
viên cần nhấn mạnh ý tưởngvề ý nghĩa của các ý kiến khác nhau đó.


9

- Giáo viên tạo tình huống giúp trẻ nói lên suy nghĩ của mình trong quá
trình quan sát, cố gắng giúp trẻ thể hiện được “chính kiến” của mình bằng cách
biết thể hiện sự khơng đồng tình về một vấn đề nào đố mà không phải phụ thuộc
vào ý kiến của bạn khác. Giáo viên yêu cầu những lời nói cụ thể, thể hiện sự
khơng đồng tình ý kiến một cách tơn trọng. Giáo viên có thể kết hợp cho trẻ tham
quan phòng triển lãm tranh của nhà trường. Trẻ được quan sát các tác phẩm nghệ
thuật, “đánh giá” chúng theo ý kiến riêng của từng trẻ.
* Tổ chức cho trẻ đàm thoại:
Sau mỗi buổi dạo chơi, hoạt động ngoài trời giáo viên cùng trẻ trò chuyện,
trao đổi về những điều trẻ nhìn thấy, cảm nhận, ấn tượng với đối tượng quan sát.
Hỏi trẻ vè các sự vật, hiện tượng mà trẻ đã nhìn thấy, dẫn dắt trẻ suy nghĩ và trả
lời theo cách hiểu của mình. Sau đó giáo viên giúp trẻ thấy rằng suy nghĩ của mọi
trẻ có thể giống hoặc khác nhau.
2.3.2 Củng cố tri thức của trẻ về tên gọi, vị trí của các giác quan, các bộ
phận cơ thể con người, bản thân trẻ.
Trong quá trình hình thành khả năng tự nhận thức về bản thân cho trẻ,
chúng ta thấy “Làm quen với cơ thể” là một nội dung rất quan trọng. Nó là cơ sở
để trẻ lĩnh hội những biểu tượng về bản thân. Muốn có biểu tượng về bản thân
một cách đầy đủ và chính xác, trước hết trẻ phải được làm quen với cơ thể, có
biểu tượng về bản thân như một thực thể tự nhiên: nhận biết về cơ thể, biết tên
gọi, vị trí của các giác quan, các bộ phận, hiểu ý nghĩa của chúng. Từ sự hiểu biết
về cơ thể, trẻ sẽ có nhu cầu và kỹ năng quan tâm đến cơ thể.
Bản thân tôi tiến hành các chủ đề trên dưới nhiều hình thức khác nhau:
Thơng qua tiết học, hoạt động vui chơi, hoạt động chiều, hoạt động ngoài trời…

Cho trẻ được quan sát trực tiếp, hoặc sử dụng các phương tiện trực quan như
tranh ảnh, đồ vật, đồ chơi…, trẻ được hoạt động với đối tượng; Tham gia vào
đàm thoại, được thể hiện sự hiểu biết của chúng; Trẻ được hoạt động thực hành:
vẽ, nặn, cắt dán…Điều quan trọng là sự thay đổi các hình thức giáo dục này giúp
trẻ ngày càng có hiểu biết đầy đủ về MTXQ nói chung và về bản thân nói riêng,
bên cạnh đó cịn tạo điều kiện cho trẻ có thể huy động ở mức cao nhất những hiểu
biết, kinh nghiệm đã có để giải quyết những vấn đề do giáo viên đưa ra nhằm
giúp cho quá trình hình thành khả năng tự nhận thức về bản thân của trẻ ngày
càng đầy đủ hơn. Có thể phối hợp các phương pháp sau đây trong các hoạt động
của trẻ:
* Tổ chức cho trẻ quan sát:
Quan sát là biện pháp cơ bản để trẻ tiếp nhận thông tin về MTXQ và bản
thân. Nhờ quan sát và chỉ qua quan sát chúng ta mới có tri về thế giới xung
quanh. Các cơ quan cảm giác như thị giác, khứu giác, xúc giác, vị giác là những
phương tiện để não thu nhận thông tin và giúp chúng ta mô tả một sự vật, hiện
tượng nào đó. Khi trẻ sử dụng các giác quan của mình trong các hoạt động khám
phá trực tiếp, thì nó cũng làm quen với kỹ năng mà các nhà khoa học dùng để tìm
hiểu về thế giới. Thơng qua quan sát, giáo viên nhận ra khả năng của trẻ, biết trẻ
có ứng dụng được những điều học được để giải quyết các vấn đề trong hoạt động
thực tế hay không.
Kết quả chỉ có thể đạt được nếu giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong
quá trình tổ chức cho trẻ quan sát. Để giúp trẻ củng cố tri thức về tên gọi, vị trí


10

của các giác quan, các bộ phân cơ thể của con người, của bản thân trẻ và động
vật, trước hết giáo viên cần tổ chức cho trẻ được quan sát những đối tượng gần
gũi với trẻ như: những người xung quanh, bạn cùng nhóm, cùng lớp, các con vật,
sau đó cho trẻ được quan sát chính bản thân trẻ qua gương, qua tranh ảnh.Trong

quá trình quan sát, giáo viên cần hướng trẻ tới những kiến thức cần cung cấp,
củng cố và bổ sung cho trẻ bằng các câu hỏi định hướng của mình, để từ đó q
trình hình thành khả năng tự nhận thức bản thân của trẻ sẽ thuận lợi hơn.Thông
qua hoạt động quan sát, trẻ sẽ tự nhận biết được về bản thân mình: Tên gọi, vị trí
của các giác quan, các bộ phận của cơ thể, ý nghĩa và mối liên hệ của chung với
nhau, với bản thân trẻ. Khi cho trẻ quan sát, giáo viên cần hướng trẻ tới những
vấn đề chính: yêu cầu trẻ chỉ vào các bộ phận cơ thể trong tranh, nói tên tương
ứng; ý nghĩa, cách sử dụng; tác dụng của chúng. Nếu trẻ khơng thưc hiện được,
giáo viên có thể “hỗ trợ” bằng cách gợi ý, hoặc có thể sử dụng các dạng bài tập
đơn giản: “Hãy nhắm mắt lại”, “Hãy cho xem lưỡi”, “Hãy dấu mũi đi cho đỡ
lạnh”, “Hãy cho xem các ngón tay” …nhằm hướng sự chú ý của trẻ lên các giác
quan, các bộ phận cơ thể và củng cố các kiến thức tương ứng. Giáo viên có thể sử
dụng các câu hỏi hay gợi ý như: “Cho cơ biết con nhìn thấy những gì?”, “Con thử
tả cho các bạn xem nó như thế nào?”, “Theo con, nó được dùng để làm gi?”,
“Nếu thiếu nó, con sẽ cảm thấy như thế nào?”…
* Tổ chức cho trẻ đàm thoại:
Trong thực tế, khi tổ chức cho trẻ quan sát, giáo viên đã kết hợp sử dụng
các câu hỏi để định hướng quan sát của trẻ. Tuy nhiên, sau quan sát, đàm thoại
cũng là một biện pháp quan trọng, không thể thiếu trong việc cho trẻ tìm hiểu
MTXQ nói chung và hình thành ở trẻ khả năng tự nhận thức về bản thân nói
riêng.
Khi tổ chức cho trẻ tham gia vào quá trình đàm thoại, giáo viên cần tạo
điều kiện cho trẻ được thể hiện và bày tỏ sự hiểu biết của mình về tên gọi, vị trí
của các giác quan, các bộ phận cơ thể của con người, bản thân trẻ và động vật…
bằng cách đặt câu hỏi một cách tuần tự trong quá trình quan sát và sau khi quan
sát.
Trình tự các câu hỏi theo nội dung thơng tin cần khai thác. Để củng cố tri
thức của trẻ về tên gọi, vị trí các giác quan, các bộ phận cơ thể…, giáo viên cần
xây dựng câu hỏi theo trình tự sau đây:
+ Câu hỏi nhận biết đối tượng ( “Các con hãy nhìn xem xung quanh các

con có những ai?”, “Các bạn xung quanh con giống nhau ở điểm gì?”, “Các con
nhìn thấy gì trong bức tranh?”, “Bạn trong ảnh là ai?”, “Tại sao con lại nghĩ như
vây?”…)
+ Câu hỏi so sánh bản thân với những người xung quanh (Cho trẻ soi
gương, xem ảnh của chính bản thân trẻ và yêu cầu trẻ so sánh, nhận xét xem bản
thân trẻ có đặc điểm gì giống và khác các bạn…)
+ Câu hỏi xác định vị trí của các giác quan, bộ phận cơ thể.
Khi tổ chức cho trẻ đàm thoại, giáo viên cần tạo ra các tình huống có vấn
đề, tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội huy động tới mức tối đa những hiểu biết, kinh
nghiệm đã có của mình vào việc giải quyết các vấn đề do giáo viên đặt ra.
Với tư cách là người điều khiển đàm thoại của trẻ, giáo viên phải biết sử
dụng các câu hỏi định hướng phù hợp với nội dung chủ đề và khả năng nhận thức


11

của trẻ, tuỳ theo diễn biến của quá trình đàm thoại, giúp trẻ tích cực trong việc
củng cố tri thức của mình về tên gọi, vị trí của các giác quan, các bộ phận cơ thể
của con người, bản thân trẻ và động vật. Đồng thời, phải duy trì hứng thú của trẻ
trong suốt quá trình đàm thoại.
* Tổ chức cho trẻ thực hành:
Sau khi trẻ được quan sát và tham gia quá trình đàm thoại, để củng cố và
khắc sâu kiến thức của trẻ vừa lĩnh hội được, giáo viên cần tổ chức cho trẻ được
hoạt động thực hành: Vẽ, nặn, xé dán…(về những người thân xung quanh: cô
giáo, bạn cùng nhóm lớp, về những con vật gần gũi, thân thuộc với trẻ và chính
bản thân trẻ. Giáo viên cần hướng trẻ tập trung vào những nội dung chính trong
bức tranh mà trẻ thể hiện nhằm giúp trẻ củng cố và khắc sâu được tri thức của
mình.
Cho trẻ tự trình bày và nhận xét “sản phẩm “ của mình, căn cứ vào nội
dung, yêu cầu cụ thể và khuyến khích trẻ đưa ra những nhận xét, đánh giá “sản

phẩm” và ý kiến của các bạn trong lớp. Giáo viên hướng trẻ tới việc đánh giá
đúng. Giáo viên tổng hợp ý kiến đánh giá của trẻ, đưa ra nhận xét chung và đánh
giá đúng đắn nhất, tạo sự tự tin và tâm thế cho trẻ trong các hoạt động tiếp theo.
Ví dụ: Chủ đề “Cơ thể của bé”.
Mục đích: Giúp trẻ biết, hiểu và củng cố cho trẻ về tên gọi, vị trí của các
giác quan, các bộ phận cơ thể của con người nói chung và của bản thân trẻ.
Chuẩn bị: Gương, tranh ảnh ( ảnh chụp của trẻ, tranh vẽ bé trai, bé gái
đang có các cử chỉ hành động khác nhau…), giấy A4, bút chì, bút màu, tranh cắt
dời, giấy tôki, hồ dán…
Cách tiến hành:
- Ổn định tổ chức, gây hứng thú cho trẻ bước vào hoạt động quan sát.
* Tổ chức cho trẻ quan sát:
+ Yêu cầu: Trẻ quan sát và nhận biết được tên gọi, vị trí của các bộ phận,
các giác quan trên cơ thể con người, bản thân trẻ thơng qua các hình thức,
phương tiện khác nhau.
- Giáo viên cho từng trẻ quan sát các bạn cùng nhóm, lớp.
- Cho trẻ quan sát bức tranh to vẽ về bé trai, bé gái ( giúp trẻ nhận biết
được những bộ phận, giác quan trên cơ thể và những đặc điểm riêng theo giới
tính: đầu tóc, quần áo…). Yêu cầu trẻ vừa quan sát tranh, vừa so sánh với các bộ
phận, giác quan trên cơ thể mình (trẻ chỉ đầu- Tay đưa lên đầu; Trẻ chỉ tai- tay sờ
vào tai…).
- Cho trẻ quan sát chính bản thân mình qua gương, yêu cầu trẻ tự nhận xét
về bản thân ( giới thiệu tên, các bộ phận, giác quan trên cơ thể cùng vị trí các bộ
phận, giác quan đó.
- Trẻ gọi tên và chỉ vào từng bộ phận, gíác quan trên cơ thể mình với số
lượng tương ứng (tơi tên là…: tơi có một cái đầu, tơi có hai cáí tai, tơi có hai con
mắt…)
- Trẻ soi gương cùng bức tranh (bé trai, bé gái tương ứng), yêu cầu trẻ so
sánh chính xác các bộ phận trên cơ thể trẻ với bức tranh.
- Cho trẻ quan sát những bức tranh còn thiếu các bộ phận, giác quan. Yêu

cầu trẻ phát hiện xem bức tranh đó thiếu bộ phận, giác quan gì và bổ sung bằng
cách dán thêm những bộ phận còn thiếu vào các bức tranh đó.


12

* Tổ chức cho trẻ đàm thoại:
Trẻ vận dụng hiểu biết của mình trả lời được các câu hỏi của cơ về tên gọi,
các bộ phận, giác quan, vị trí của chúng trên cơ thể con người, động vật, và của
chính bản thân trẻ theo trình tự:
- Các con hãy nhìn xem xung quanh các con có những ai?
- Các bạn xung quanh con giống nhau ở điểm gì?
- Các con nhìn thấy gì trong bức tranh?
- Bạn trong ảnh là ai?
- Con nhìn thấy gì trong gương?
- Tay trái của con đâu? Tay phải của con đâu?
- Đầu con nằm ở vị trí nào của cơ thể?...
* Tổ chức cho trẻ thực hành:
Cho trẻ vẽ về những người thân của trẻ (trẻ tự chọn đối tượng)
+ Yêu cầu: Trẻ thể hịên được sự hiểu biết của mình về các bộ phận, giác
quan trên cơ thể, vị trí của chúng trên bức vẽ của mình.
- Chia nhóm cho trẻ vẽ: Cơ gợi ý mỗi nhóm sẽ vẽ một đối tượng khác nhau
(nhóm vẽ về những người thân trong gia đình, nhóm vẽ về những con vật mà trẻ
u thích, nhóm vẽ về chính bản thân trẻ…)
Cơ gợi ý cho trẻ vẽ các đối tượng đó với đầy đủ các bộ phận, giác
quan
và vị trí của nó theo sự hiểu biết của trẻ.
- Giáo viên động viên, khuyến khích trẻ hồn thành sản phẩm của mình.
- Cho trẻ tự kể về “ Sản phẩm” của mình. Lưu ý, hướng trẻ kể về tên gọi,
các bộ phận, giác quan, vị trí của chúng trên cơ thể…

- Giáo viên động viên, khuyến khích trẻ kể, sửa sai, sửa lỗi diễn đạt cho trẻ.
- Yêu cầu trẻ khác nhận xét về “ sản phẩm” của trẻ, nhận xét về lời kể của
trẻ, bổ sung những mà trẻ còn thiếu.
+ Giáo viên nhận xét khái quát, kết luận về những tri thức mà trẻ đã lĩnh
hội được trên tiết học.
2.3.3. Hình thành khả năng hiểu ý nghĩa của các giác quan và các bộ
phận cơ thể.
Để giúp trẻ hiểu ý nghĩa của các giác quan và các bộ phận cơ thể, có thể
tiến hành dưới các hình thức như: trải nghiệm, luyện tập thơng qua các bài tập,
trò chơi vận động…Tuy nhiên, khi tổ chức các hoạt động nhằm giúp trẻ hình
thành khả năng hiểu ý nghĩa của các giác quan và các bộ phận cơ thể, cần chú ý
đến khả năng nhận thức cũng như hứng thú của trẻ. Cần tạo cho trẻ khả năng linh
hoạt khi sử dụng các giác quan vào việc tìm hiểu MTXQ để từ đó trẻ rút ra được
ý nghĩa, tác dụng của các giác quan và các bộ phận đó.
* Cho trẻ được trải nghiệm sử dụng các giác quan, các bộ phận cơ thể:
Cần tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm thơng qua các tình huống thực, các
trò chơi hoặc bài tập để trẻ nhận biết về bản thân, trẻ được rèn luyện để được
khám phá ra ý nghĩa, tác dụng của các bộ phận, giác quan trên cơ thể con người
nói chung, của động vật và của chính bản thân trẻ.
Giáo viên tổ chức cho trẻ trải nghiệm nhằm hình thành ở trẻ khả năng hiểu
ý nghĩa của các giác quan và các bộ phận trên cơ thể… thông qua các chủ đề về “
Bản thân”, với nội dung và phương pháp tiến hành phù hợp với đặc điểm nhận
thức và khả năng thực hành của trẻ 4-5 tuổi, phù hợp với thực tiễn.


13

Giáo viên xây dựng, lựa chọn những trị chơi có nội dung phù hợp để cho
trẻ trải nghiệm (trò chơi học tập, trò chơi vận động…).Việc sử dụng những trò
chơi nhằm hình thành khả năng hiểu ý nghĩa của các giác quan và các bộ phận cơ

thể, khơng những kích thích hứng thú trẻ nhận thức mà cịn tạo điều kiện cho trẻ
vận dụng vốn kinh nghiệm, biểu tượng đã có để nhận thức về bản thân trẻ. Giáo
viên lựa chọn trị chơi phù hợp khả năng của trẻ.Thơng qua việc trẻ tham gia vào
trò chơi, giáo viên phát triển khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, khái qt
hố, giúp cho việc hiểu ý nghĩa của các bộ phận cơ thể, vị trí các giác quan thuận
lợi hơn. Các trị chơi được thiết kế dưới hình thức nhằm giúp trẻ hiểu được ý
nghĩ, tầm quan trọng của các giác quan cũng như các bộ phận trên cơ thể: (Nếu
sử dụng các giác quan thì hiệu quả sẽ cao hơn; Nếu khơng có một bộ phận, giác
quan nào đó thì sẽ khơng thực hiện được luật chơi…).
Có thể đưa ra các bài tập luyện cho trẻ trải nghiệm, quan sát bản thân và
trong trò chơi: Yêu cầu trẻ nhắm mắt và nhìn xung quanh rồi giải thích tại sao
khơng trả lời được; Yêu cầu trẻ quan sát đồ vật và kể về nó sau đó xem xét, cầm
vật lên, làm nó kêu và lại kể về nó và giải thích tại sao câu chuyện bây giờ đầy đủ
hơn, các giác quan nào đã giúp trẻ biết nhiều. Có thể sử dụng trị chơi học tập
“Nghe tiếng gì kêu”, “Đốn xem ai gọi”, “Chiếc túi kỳ diệu”.
* Trẻ được hoạt động thực hành: Vẽ, nặn, xé, dán…về những người thân
gần gũi với trẻ, về những con vật mà trẻ yêu thích. Tuy nhiên những đối tượng đó
được trẻ thể hiện trong “Sản phẩm” của mình cũng phải sử dụng các giác quan để
tiến hành một hoạt động nào đó (Vẽ ơng đang nghe đàn, phải có tai; Vẽ bác lao
cơng đang quét rác, muốn quét phải có tay; Vẽ các bạn đang thi chạy, nếu khơng
có chân thì khơng chạy được…). Thông qua hoạt động thực hành này cô giáo,
nhà giáo dục có thể kiểm tra được nhận thức của trẻ về các giác quan cũng như ý
nghĩ của nó.
* Tổ chức cho trẻ được đàm thoại:
Yêu cầu: Chủ thể đàm thoại phải phản ánh nội dung cần giáo dục, giúp cho
quá trình nhận thức của trẻ được thuận lợi. Đàm thoại diễn ra một cách tuần tự
theo hệ thống các câu hỏi đã được giáo viên chuẩn bị, nhằm giúp trẻ tự phát hiện
các bộ phận, giác quan, ý nghĩa và cách sử dụng chúng.
Tiến hành: Giáo viên cần tạo ra các tình huống có vấn đề, tạo điều kiện cho
trẻ có cơ hội huy động những kinh nghiệm, những hiểu biết về cơ thể mà trẻ đã

có. Giúp trẻ hứng thú, tích cực trong q trình đàm thoại.
- Cho trẻ đàm thoại về chính sản phẩm của trẻ, cho trẻ nói về bức vẽ (Con
vẽ ai? đang làm gì? vì sao lại làm được điều đó? Nếu khơng có các bộ phận, giác
quan đó thì điều gì sẽ xảy ra?...)
- Cho trẻ đàm thoại dưới hình thức trị chơi: Giáo viên phải biết sử dụng
các câu hỏi định hướng phù hợp với nội dung chủ đề và khả năng tự nhận thức
của trẻ theo diễn biến của quá trình đàm thoại. Giúp trẻ tích cực tham gia trị chơI
và qua đó hình thành khả năng hiểu ý nghĩ của các giác quan và bộ phận cơ thể.
Ví dụ: Chủ đề “Cơ thể tơi”.
Mục đích: Giúp trẻ tự tìm tịi, khám phá các bộ phận, giác quan trên cơ thể
và ý nghĩa, cách sử dụng chúng. Trên cơ sở đó nhằm hình thành ở trẻ khả năng
hiểu ý nghĩa của các giác quan và các bộ phận cơ thể.
Chuẩn bị:


14

- Các đồ vật thật (hoa. quả, rau…), đồ chơi, cát sỏi, nước…
- Một số trò chơi học tập, trò chơi vận động (“Nghe tiếng gì kêu”; “Thi
chạy nhanh nhưng không được co đầu gối” ).
Các phương tiện, đồ dùng cho trẻ thí nghiệm, chơi trị chơi…
Cách tiến hành:
* Hoạt động 1: Tổ chức cho trẻ trải nghiệm, luyện tập.
- Cô tiến hành cho trẻ tham gia trải nghiệm thông qua các trò chơi học tập,
trò chơi vận động và rèn luyện các giác quan như: ngửi, nếm. phân biệt, nghe,
nhìn…
+ Với nội dung tìm hiểu và khám phá về các giác quan (nhìn, sờ, nếm,
ngửi…), cơ có thể cho trẻ quan sát hiện tượng thiên nhiên (nắng, mưa, gió…),
nhặt lá, xếp hình, bé trai, bé gái…
+ Cho trẻ chơi với cát, sỏi, nước giúp trẻ cảm nhận sự khác nhau qua xúc

giác (cát mềm, sỏi cứng…).
- Cho trẻ chơi trị chơi học tập “Nghe tiếng gì kêu” : (Trị chơi được thiết
kế dưới hình thức: Nếu sử dụng các giác quan thì hiểu biết của trẻ về xung quanh
sẽ đầy đủ hơn). Cho trẻ ngồi xung quanh lớp, giáo viên yêu cầu trẻ ngồi vào giữa
- một trẻ dùng khăn bịt tai, một trẻ để bình thường. Cơ dùng các dụng cụ âm nhạc
(sắc sô, phách tre, một số đồ dùng có thể phát ra âm thanh khác: chai, lọ, ống bơ,
xúc sắc…), sử dụng để chúng phát ra tiếng kêu. Sau đó yêu cầu lần lượt trẻ trả
lười xem đó là tiếng vật gì kêu? Tại sao lại biết tiếng kêu của vật đó? Giác quan
nào đã giúp trẻ nhận biết được tiếng kêu đó?. Hỏi trẻ đã bị bịt tai: Vì sao khơng
nghe được tiếng gì kêu? Lần lượt cho trẻ thay phiên nhau chơi và trả lời câu hỏi
của cô. Cô nên thường xuyên thay đổi trò chơi, tránh gây nhàm trán cho trẻ. Kết
thúc trò chơi, cho trẻ tự rút ra kết luận: Nếu sử dụng các giác quan để nhận biết
MTXQ thì hiệu quả nhận thức sẽ cao hơn.
- Cho trẻ chơi trò chơi vận động: “Ai chạy nhanh”. (Trò chơi cũng được
thiết kế dưới hình thức: Nếu khơng có một bộ phận, giác quan nào đó thì sẽ
khơng thực hiện được luật chơi). Cho lần lượt 2 trẻ lên chơi, một trẻ chạy bằng 2
chân, một trẻ chạy bằng 1 chân, thi xem ai về đích trước sẽ là người thắng cuộc.
Sau khi trẻ chạy xong, cơ hỏi trẻ vì sao lại chạy nhanh hơn bạn? Cho trẻ nhận xét:
Có đủ 2 chân sẽ chạy nhanh hơn, hoạt động tốt hơn.
*Hoạt động 2: Tổ chức cho trẻ thực hành.
Cô giáo gợi ý cho trẻ vẽ về những người thân xung quanh trẻ, vẽ về chính
bản thân trẻ đang tiến hành một hoạt động nào đó bằng các giác quan của mình
(vẽ bé đang nghe đàn, muốn nghe được phải có tai; vẽ các bạn đang chạy thi,
muốn chạy được phải có chân; vẽ bác lao cơng đang hót rác, muốn qt được
phải có tay…)
* Hoạt động 3: Tổ chức cho trẻ đàm thoại.
- Cơ đàm thoại với trẻ về chính các bức vẽ của trẻ, u cầu trẻ kể về chính
bức vẽ đó, gợi ý trẻ nói lên được ý tưởng, sự hiểu biết của mình thể hiện qua bức
vẽ đó.
Ví dụ: Với bức tranh vẽ bé đang nghe nhạc và cơ có thể hỏi trẻ:

+ Con đang làm gì?
+ Tại sao lại nghe thấy tiếng nhạc?
+ Nếu con bịt tai lại thì các con nghe thấy gì?


15

- Giáo viên đặt tình huống cho trẻ hoạt động: Chia thành 2 tổ, chạy thi ra
ngoài vườn trường - Một nhóm chạy bằng một chân, một nhóm chạy bằng 2
chân. Sau khi cô hát xong bài hát “Ra chơi vườn hoa”, giáo viên có thể đặt câu
hỏi cho trẻ trả lời:
+ Làm thế nào các con ra được sân?
+ Tại sao các con chạy được ra sân?
+ Tại sao các bạn nhóm 1 chạy chậm hơn các bạn nhóm 2?
+ Muốn chạy nhanh các con cần phải làm gì?
+ Nếu thiếu mất một chân thì điều gì sẽ xảy ra?
- Giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi cho trẻ:
+ Các con hãy cho cô biết trên cơ thể của các con cịn có những bộ phận,
giác quan gì? có số lượng là mấy?
+ Bộ phận, giác quan dùng để làm gì? (yêu cầu trẻ trả lời cụ thể ý nghĩa,
tác dụng của từng bộ phận và giác quan).
- Cô gợi ý, nhận xét, sửa sai cho trẻ.
2.3.4. Hình thành ở trẻ mong muốn, khả năng quan tâm, chăm sóc các
giác quan và bộ phận cơ thể.
* Tổ chức cho trẻ đàm thoại, trò chuyện:
Muốn đàm thoại, trò chuyện với trẻ có kết quả thì phải xây dựng được hệ
thống câu hỏi phù hợp, tổ chức tốt quá trình quan sát từ trước đó. Câu hỏi phải
ngắn gọn, dễ hiểu và cần xuất phát từ mục đích cần giáo dục trẻ.
Trên cơ sở trẻ đã biết tên gọi, vị trí của các giác quan, các bộ phận trên cơ
thể, ý nghĩa và cách sử dụng chúng, giáo viên tiến hành cho trẻ đàm thoại về

những nguyên tắc vệ sinh hàng ngày giúp trẻ ngồi việc hiểu ý nghĩa của chúng
cịn phải nắm được phương pháp quan tâm, chăm sóc các cơ quan cảm giác và
các bộ phận cơ thể.
- Có thể tổ chức đàm thoại theo chủ đề : “Cơ thể bạn có kẻ thù khơng?”.
Giáo viên giúp trẻ nêu ra ít nhất 4 yếu tố quan trọng là kẻ thù của cơ thể: Sự bẩn
thỉu, sự chênh lệch nhiệt độ, tác động bên ngoài, các vật nguy hiểm.
- Trong q trình đàm thoại, có thể dùng các tác phẩm văn học, đọc thơ, kể
về bản thân, về bạn, xem tranh ảnh…, với mục đích gợi cho trẻ mong muốn quan
tâm chăm sóc bản thân và học phương pháp chăm sóc chúng.
- Đàm thoại với trẻ về quy tắc vệ sinh: “Rửa tay khi bẩn”; “Không cúi đầu
thấp khi xem sách”…
- Cho trẻ tham gia trải nghiệm các phương pháp chăm sóc bản thân (rửa
mặt, rửa tay, đội mũ khi đi nắng…)
- Giúp trẻ hiểu không được bỏ vào miệng, mắt, mũi, tai… những đồ vật
nhỏ, bởi nó sẽ nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
* Kể chuyện về người tàn tật cho trẻ nghe:
Cơ có thể sưu tầm, lựa chọn những câu chuyện về người tàn tật có thật
trong cuộc sống với tấm gương vượt khó của họ cho trẻ nghe. Khi kể về họ, cần
hướng sự chú ý của trẻ đến sự cố gắng của con người đó để có thể sống độc lập
khi đã bị mù, điếc, khơng có tay chân. Nói cho trẻ biết được để làm được việc
này phải có sự cố gắng, kiên trì, biết vượt qua khó khăn, một mặt cần dạy trẻ thực


16

sự có hành động cảm thơng, nhưng mặt khác cần hình thành ở chúng thái độ tơn
trọng con người, tin tưởng vào khả năng của họ.
- Đặt ra các câu hỏi cho trẻ đàm thoại: nếu thiếu một trong bộ phận, giác
quan trên cơ thể, con người sẽ khó khăn như thế nào? Phải giúp đỡ người tàn tật
những gì để họ đỡ bớt khó khăn?

- Cho trẻ kể về những người tàn tật mà trẻ biết, hướng trẻ vào những khó
khăn của họ trong sinh hoạt và sự giúp đỡ của trẻ đối với họ là như thế nào?
- Cô tổng kết, nhận xét, khái quát lại tri thức cho trẻ.
2.3.5. Kích thích nhu cầu hiểu biết về vị trí của trẻ trong quan hệ với mọi
người xung quanh.
* Tổ chức cho trẻ đàm thoại, trò chuyện:
- Nội dung đàm thoại, trị chuyện của cơ đối với trẻ nhằm giúp trẻ trước hết
phải biết được họ, tên, địa chỉ gia đình, số điện thoại, tên bố mẹ, người thân…
Các thông tin này giúp trẻ ý thức được sự “độc nhất” của mình trong gia đình,
trong lớp học, đối với mọi người xung quanh
- Cho trẻ làm quen với khái niệm họ tên (Tại sao xuất hiện tên gọi và họ
của mỗi người cụ thể, tên của mỗi người có ý nghĩa như thế nào?...).
- Củng cố khái niệm “gia đình” và vị trí của trẻ cùng các thành viên trong
gia đình (gia đình con có bao nhiêu người? bố, mẹ, ơng, bà cháu là ai? tên là
gì?...)
* Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi với chủ đề “Gia đình”: giúp trẻ phản
ánh đúng hoạt động và các mối quan hệ của các thành viên trong gia đình; thể
hiện được tình cảm của bố mẹ, con cái đối với nhau; thể hiện được sự phụ thuộc
giới tính, gia tộc.
* Sử dụng các tiết học khác, các tình huống trong hoạt động và sinh hoạt
của trẻ:
- Thông qua tiết học “tạo hình” - yêu cầu trẻ vẽ gia đình, sau đó cho trẻ kể
về bức vẽ của mình, kể về các thành viên trong tranh (đó là những thành viên nào
trong gia đình của trẻ…)
- Cho trẻ xem ảnh về những người trong dòng họ, so sánh ảnh của trẻ với
các thành viên trong dòng họ để thấy được những điểm tương đồng của trẻ với
những người trong dòng họ, những người cùng huyết thống…
Giáo viên có thể lựa chọn các thời điểm thích hợp trong sinh hoạt hàng
ngày để giúp trẻ hiểu thêm về nội dung này.
Ví dụ: Khi đón hoặc trả trẻ, cơ giáo có thể nói chuyện với trẻ về người

thân của trẻ, hỏi trẻ về địa chỉ của gia đình, mối quan hệ của trẻ với những người
trong gia đình, giới tính của trẻ.
Trẻ cũng đã biết vị trí bản thân trong gia đình, trường mầm non, biết tên
các thành viên trong gia đình: Gia đình con có 4 người. bố con tên là Hồng -làm
Bác sỹ, mẹ con tên là Thủy, làm cô giáo, anh con tên là Quân và con tên là Lan,
nhà con ở Cẩm Bào (Cháu Sơn – Lớp 4-5 tuổi tôi phụ trách).
Đa số trẻ đều trả lời được các câu hỏi khi cô đưa ra, tham gia các hoạt
động, giải quyết các bài tập, tình huống một cách nhiệt tình, sáng tạo. Trẻ tự lực
tham gia vào các hoạt động, ít khi cần sự giúp đỡ của cô.


17

+ Về mặt kỹ năng: Đa số trẻ đã biết sử dụng các giác quan để tìm hiểu
MTXQ; biết dùng tay để cầm, nắm, sờ; mũi để ngửi; miệng, lưỡi để nếm; chân để
chạy, nhảy...biết thể hiện tình cảm, suy nghĩ, điều khiển hành vi; biết khi vui,
khóc, buồn, biết tìm cách giải quyết những vấn đề nào đó...; biết chăm sóc cơ thể:
ăn uống đủ chất, tập thể dục cho cơ thể khoẻ mạnh, biết giữ gìn vệ sinh thân thể...
+ Về thái độ: Phần lớn trẻ có nhu cầu quan tâm đến cơ thể, có hứng thú với
quá trình suy nghĩ, biết cách ứng xử với mọi người xunh quanh; biết nhường đồ
chơi cho bạn, lấy nước cho bạn uống, cất dọn đồ giúp bạn, giúp cô...Tuy nhiên,
bên cạnh đó vẫn cịn một số ít trẻ chỉ thực hiện khi có yêu cầu của giáo viên hoặc
ở một số tình huống nhưng chưa đúng với một số tình huống chung.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường:
Sau khi áp dụng các biện pháp của sáng kiến kinh nghiệm tơi nhận thấy ở
trẻ đã có sự hứng thú rất rõ rệt, trẻ tích cực hoạt động, giờ học không khô khan
đơn điệu như trước nữa. trẻ tập trung nhiều trong giờ học. Tự nhận thức là một kỹ
năng sống quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ, phản ánh chính xác tâm
tư, hành động của trẻ. Đồng thời, đấy còn là sự hiểu biết của trẻ về mức độ ảnh

hưởng do hành vi và cảm xúc của mình đối với chính bản thân và đối với mọi
người xung quanh. Bởi vậy mà các phương pháp hoàn thiện kỹ năng sống cũng
như kỹ năng nhận thức của trẻ là vô cùng cần thiết.
Sau khi áp dụng các giải pháp đạt kết quả như sau:
.
* Đối với trẻ:
Sau khi thực hiện các giải pháp thì mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ
trong lóp sau kiểm nghiệm đã phát triển cao hơn so với trước kiểm nghiệm cả về
tri thức, kỹ năng, thái độ.
Mức độ tự nhận thức bản thân của trẻ 4-5 tuổi
Số trẻ
Tri thức
Kỹ năng
Thái độ
30
Đạt
Tỷ lệ %
Đạt
Tỷ lệ %
Đạt
Tỷ lệ %
30

100

28

93,3

29


96,7

Kết quả thu được cho thấy: Việc được tác động bởi những giải pháp biện
pháp giáo dục phù hợp thì khả năng tự nhận thức bản thân của trẻ 4-5 tuổi sẽ
được nâng cao hơn so với trước khi vận dụng.
Mức độ sử dụng các nội dung hình thành khả năng tự nhận thức bản thân
cho trẻ 4 - 5 tuổi:
Mức độ sử dụng %
TT Nội dung
1

Các yêu cầu cụ thể

Làm quen Có hiểu tượng về bản thân
với cơ thể như một thực thể tự nhiên (tên
gọi, các giác quan và các bộ
phận)

Thường
xuyên

Thỉnh
thoảng

Hiếm khi

96,7

3,3


0


18

2

3

.

Tự nhận
thức
về
tình cảm,
ý nghĩ, kỹ
năng,
hành vi

ý thức
được vị trí
của mình
trong xã
hội
(Trường
mầm non
gia đình)

Sử dụng các giác quan để tìm

hiểu MTXQ
Có nhu cầu quan tâm đến cơ
thể, đồng cảm với người tàn
tật
Hình thành hiểu tượng về bản
thân như một thực thể xã hội
(có suy nghĩ, tình cảm, kỹ
năng, hành vi.)
Biết sử dụng các giác quan và
cơ thể để thể hiện tình cảm,
suy nghĩ, hành vi, (Biết đưa ra
tình cảm, suy nghĩ của người
khác, biết lắng nghe, hiểu ý
nghĩ của người khác
Có hứng thú với q trình suy
nghĩ. Tơn trọng suy nghĩ, tình
cảm của người khác
Có biểu tượng về vị trí bản
thân trong xã hội (Biểu tượng
về gia đình: Các thành viên, vị
trí, địa chỉ, đồ vật trong gia
đình, mối quan hệ giữa các
thành, dịng họ)
Kỹ năng chăm sóc cơ thể và
quan tâm đến người khác
Nhạy cảm trong quan hệ với
mọi người xuanh

96,7


3,3

0

80

20

0

80

20

0

80

20

0

60

40

0

60


40

0

60

40

0

50

50

0

* Đối với bản thân:
+ Tơi thấy mình đã nâng cao được hiểu biết về việc phát triển nhận thức
cho trẻ, hiểu rõ hơn tự nhận thức là một kỹ năng sống quan trọng trong quá trình
phát triển của trẻ, phản ánh chính xác tâm tư, hành động của trẻ. Đồng thời, đấy
còn là sự hiểu biết của trẻ về mức độ ảnh hưởng do hành vi và cảm xúc của mình
đối với chính bản thân và đối với mọi người xung quanh. Bởi vậy mà các phương
pháp hoàn thiện kỹ năng sống cũng như kỹ năng nhận thức của trẻ là vô cùng cần
thiết
+ Bản thân rút ra được nhiều kinh nghiệm về việc tổ chức các hoạt động
trải nghiệm phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức
+ Tơi đã tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại đồ
dùng phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc cho trẻ trải nghiệm
khám phá
* Đối với đồng nghiệp:

Đã nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng tự nhận thức là một trong
những kỹ năng sống cơ bản, là khả năng con người ý thức một cách rõ ràng về
tính cách, cảm xúc, quan điểm, giá trị, động cơ của mình, khả năng con người
hiểu biết và chấp nhận những tố chất vốn có của mình và nếu có thể phát huy
điểm mạnh, hạn chế điểm yếu nhằm tổ chức tốt cuộc sống của mình, cải thiện


19

mối quan hệ với mọi người. Bởi vậy giáo viên đã chú trọng các phương pháp
giúp trẻ hoàn thiện kỹ năng nhận thức bản thân ngay từ khi trẻ mới vào trường.
Giáo viên đã biết tạo môi trường mở và khơng gian cho trẻ hoạt động hoạt
động, từ đó tạo hứng thú, lôi cuốn trẻ tham gia vào hoạt động tích cực. Trong
cơng tác giảng dạy phải là người u nghề mến trẻ, ln tìm tịi các biện pháp áp
dụng phù hợp, để tạo hứng thú thu hút sự chú ý của trẻ cho trẻ. Tích cực học hỏi
đồng nghiệp, dự giờ để nâng cáo kiến thức cho bản thân ... Cô giáo phải nghiên
cứu kỹ nội dung cần cung cấp cho trẻ phù hợp và chính xác, nhất là áp dụng các
hình thức sáng tạo, nâng cao kiến thức cho trẻ vì trẻ rất tị mị ham hiểu biết.
* Đối với nhà trường:
- Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng được nâng cao.
- Nhà trường đã mua sắm, trang bị thêm thêm các thiết bị phụ vụ cho cơng
tác chăm sóc giáo dục, tạo điều kiện cho giáo viên được học hỏi và trau dồi thêm
về ứng dụng công nghệ thông tin trong các tiết học.
-Tổ chức các buổi chuyên đề ở trường, cụm, để cho giáo viên học tập, nhân
rộng các biện pháp đạt hiệu quả cao cho các lớp trong trường áp dụng và thực
hiện.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
3.1.1. Bài học kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng các giải pháp và thu được hiệu quả rất khả quan, việc hình

thành khả năng tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi đạt hiệu quả cao
hơn nhiều. Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng thực hiện các giải pháp tôi đã
thu được một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Nội dung giáo dục sự tự nhận thức bản thân của trẻ 4-5 tuổi cần được xác
định dựa trên: mục tiêu CS-GD trẻ, đặc điểm tự nhận thức của trẻ. Nội dung giáo
dục tự nhận thức bản thân của trẻ bao gồm: làm quen với cơ thể; tự nhận thức về
tình cảm, ý nghĩ, kỹ năng, hành vi; ý thức được vị trí của bản thân trong xã hội.
Trong q trình hình thành khả năng tự nhận thức bản thân, các nội dung này
được đánh giá trên 3 mặt: tri thức, kỹ năng, thái độ của trẻ đối với các mức độ
đánh giá khác nhau.
- Cần xác định trình tự các bước hợp lý đảm bảo cho việc phối hợp các
hoạt động nhằm tích cực hố q trình làm quen với cơ thể cho trẻ;
- Sử dụng và tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm để nhận thức được tình cảm, ý
nghĩ, kỹ năng, hành vi của trẻ trong các hoạt động hấp dẫn;
- Kích thích nhu cầu hiểu biết về vị trí của trẻ trong quan hệ với mọi người
xung quanh.
3.1.2. Kết luận:
Cần khẳng định việc đứa trẻ tự nhận thức bản thân nhanh hay chậm, hình
thành những kỹ năng nhận thức bản thân diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều
vào nội dung giáo dục sự tự nhận thức bản thân cho trẻ. Việc lựa chọn giải pháp
áp dụng như thế nào với tập thể, cá nhân trẻ và tạo điều kiện, cơ hội để trẻ được
trải nghiệm, kích thích nhu cầu hiểu biết của trẻ được phát huy, bộc lộ thường


20

xuyên trong các hoạt động hàng ngày của trẻ ở trường, lớp mầm non cũng như ở
gia đình và xã hội.
Với những kinh nghiệm trên của mình, tơi khẳng định một số giải pháp của
sáng kiến này không chỉ phát triển kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu

giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Long nói riêng mà cịn có thể áp dụng nâng
cao hiệu quả của một số trường mầm non trong huyện, trong tỉnh có cùng điều
kiện.
3.2. Kiến nghị:
Đối với giáo viên: cần hình thành ý thức và năng lực tổ chức hoạt động
giáo dục nói chung và hoạt động tìm hiểu MTXQ nói riêng, nhằm hình thành khả
năng tự nhận thức về bản thân cho trẻ 4-5 tuổi theo các hướng sau:
- Bồi dưỡng kiến thức về việc hình thành khả năng tự nhận thức về bản
thân cho trẻ 4-5 tuổi. Giúp trẻ nắm được mục tiêu, nội dung giáo dục tự nhận
thức, hiểu được bản chất của quá trình hình thành khả năng tự nhận thức…
- Tổ chức trao đổi kinh nghiệm hình thành khả năng tự nhận thức bản thân
của trẻ 4-5 tuổi trong hoạt động tìm hiểu MTXQ.
- Giáo viên mầm non cần nghiên cứu, sưu tầm và xây dựng những trò chơi,
những bài luyện tập trải nghiệm, tạo ra những tình huống có vấn đề phản ánh nội
dung của hoạt động chung có mục đích học tập, hoạt động góc, có tính hấp dẫn
nhằm hình thành khả năng tự nhận thức bản thân cho trẻ một cách cao nhất.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

Vĩnh Tiến, ngày 09 tháng 3 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Phạm Thị Hồng


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạp chí giáo dục Mầm Non
2. Thơng tư 28/2016/TT-BGDĐT sửa đổi Chương trình giáo dục mầm non
kèm theo 17/2009/TT-BGDĐT bàn hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 - Nhà
xuất bản giáo dục
3. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình GDMN.(4-5 Tuổi) - Nhà xuất
bản giáo dục
4. Tài liệu Bồi Dưỡng Thường Xuyên


22

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN.
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thảo
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Cán bộ phịng GD&ĐT huyện Vĩnh Lộc.

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số biện pháp kích thích trẻ hoạt động
tích cực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động tạo hình nói chung, giờ “Vẽ hoa mùa
xuân” nói riêng cho trẻ 4-5 tuổi.

2.


3.

4.

5.

6.

7.

8.

Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt
mơn Làm quen với mơi trường xung
quanh nói chung, giờ “Làm quen với một
số lồi hoa” nói riêng.
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi trường mầm non Vĩnh long học tốt
môn Làm quen chữ cái
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi trường mầm non Vĩnh long học tốt
môn Làm quen chữ cái
Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây
dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm trong trường mầm non trên địa
bàn huyện Vĩnh Lộc - tỉnh Thanh hóa
Một số biện pháp chỉ đạo và triển khai xây
dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm trong trường mầm non trên địa

bàn huyện Vĩnh Lộc - tỉnh Thanh hóa
Một số biện pháp chỉ đạo tiếp tục phát huy
xây dựng và sử dụng hiệu quả môi trường
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong
trường mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh
Lộc - tỉnh Thanh hóa
Một số biện pháp chỉ đạo tiếp tục phát huy
xây dựng và sử dụng hiệu quả môi trường

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD
cấp huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Hội đồng
khoa học
ngành
GD&ĐT
Vĩnh Lộc
Hội đồng
khoa học
ngành
GD&ĐT
Vĩnh Lộc
Hội đồng
khoa học
ngành
GD&ĐT
Vĩnh Lộc

Hội đồng
khoa học
huyện Vĩnh
Lộc
Hội đồng
khoa học
huyện Vĩnh
Lộc
Hội đồng
khoa học Sở
GD&ĐT
Thanh Hóa
Hội đồng
khoa học
ngành
GD&ĐT
Vĩnh Lộc
Hội đồng
khoa học Sở

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại


B

2009-2010

C

2012-2013

C

2014-2015

C

2015-2016

B

2017-2018

C

2017-2018

A

2018-2019

B


2018-2019


23

giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong
trường mầm non trên địa bàn huyện Vĩnh
Lộc - tỉnh Thanh hóa

GD&ĐT
Thanh Hóa



×