Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.64 KB, 111 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC

KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CTCP : Công ty cổ phần
CT TNHH : Công ty Trách nhiệm hữu hạn
CN : Công nghiệp
CN-TTCN : Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
CCN : Cụm công nghiệp
CĐCN : Cụm, điểm công nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
ĐCN : Điểm công nghiệp
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
KCN : Khu Công nghiệp
KCX : Khu Chế xuất
ODA : Vốn phát triển châu Á
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
UBND : Uỷ Ban Nhân Dân
USD : Đô la Mỹ
VNĐ : Đồng Việt Nam
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số sơ đồ Tên sơ đồ Trang
Sơ đồ 2.1 Về cơ cấu kinh tế ngành 67
Sơ đồ 3.1 Sơ đồ về cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Hà Tây 72
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT
Số biểu
bảng
Tên biểu bảng Trang


1
Bảng 1.1 Tình hình phát triển các cụm điểm công nghiệp
làng nghề tại một số tỉnh
7
2
Bảng 2.1 Phát triển các làng nghề ở tỉnh Hà Tây đến năm
2005 và định hướng đến năm 2010
52
3
Bảng 2.2 Tổng hợp chi tiết phát triển làng nghề ở tỉnh
Hà Tây giai đoạn 2001-2005
55
4
Bảng 2.3 Tổng hợp tình hình thu hút các dự án đầu tư vào
các cụm, điểm công nghiệp ở tỉnh Hà Tây giai
đoạn 2001-2006
63
5
Bảng 2.4 Tổng hợp quy hoạch phát triển CN – TTCN Hà
Tây đến 2010, định hướng đến 2020
64
6
Bảng 2.5 Về chuyển dịch cơ cấu Công nghiệp - Xây
dựng
66
7
Bảng 3.1 Kết quả sản xuất công nghiệp Hà Tây 2001-
2005
71
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội của Đảng ta xác định: “Chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực, tự
cường, phát huy mọi tiềm năng, vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích
hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Để thực hiện được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, điều quan trọng hàng đầu là phải cải tiến căn bản tình
trạng nền kinh tế xã hội kém phát triển, chiến thắng những rào cản những lực
lượng cản trở con đường và quá trình đi lên của nền kinh tế.
Cương lĩnh xây dựng đất nước xác định: “Phát triển lực lượng sản xuất,
công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao
động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” ... “phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ ra rằng: “Giải phóng
mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân”. Đảng ta chủ trương “đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân”.
Giai đoạn (2006 - 2010) những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020”. “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc
độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát
triển có thu nhập thấp”.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền
vững, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và
hiệu quả, năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế giữ vai trò quan trọng
trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020. Phát triển nhanh
hơn công nghiệp - xây dựng cần chú ý mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa phát
triển công nghiệp – xây dựng với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và phát
triển về nông nghiệp hàng hóa bền vững. Đại hội X xác định: “Hoàn chỉnh
quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành
các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm
các điều kiện sinh hoạt cho người lao động”.
Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì
vấn đề phát triển các cụm, điểm công nghiệp giữ vai trò quan trọng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển các cụm, điểm công nghiệp sẽ
góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, giải quyết tốt, có hiệu quả đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn,
nông dân trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, sớm đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Chính vì thế tác giả chọn đề tài: “Phát triển các cụm, điểm công
nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Hà
Tây” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; về các khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam và ở một số địa phương khác.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các luận văn, luận án đã có
nhiều đóng góp khoa học và tổng kết thực tiễn phong phú, những cách tiếp
cận và phương pháp tiếp cận tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp

nông thôn, những vấn đề về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tuy
nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu và cụ thể về việc phát triển
các cụm, điểm công nghiệp.
Ở đề tài nghiên cứu này chúng tôi tập trung nghiên cứu phát triển các
cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
hướng tiếp cận của kinh tế chính trị học. Đó là nghiên cứu những nguyên lý
chung từ đó vận dụng vào việc phát triển cụm, điểm công nghiệp, gắn với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ góc độ kinh tế chính trị, hướng tiếp cận và nghiên cứu gồm:
- Sự hình thành và phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Làm rõ mối quan hệ kinh tế; các thành phần kinh tế; huy động nguồn
lực; huy động vốn đầu tư; các vấn đề về giải quyết việc làm; nhà ở; công tác
quản lý đất đai... khi phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thời gian nghiên cứu chủ yếu tập trung chủ yếu ở giai đoạn (2001 –
2006) từ đó chỉ ra phương hướng, giải pháp để phát triển các cụm, điểm công
nghiệp vào năm sau.
Địa điểm: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
4. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về quá trình hình thành, phát triển các cụm công
nghiệp, điểm công nghiệp; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thực trạng về việc gắn phát triển cụm điểm công nghiệp với việc giải
phóng tiềm năng sức lao động, vốn, tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật; chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
- Phương hướng, giải pháp để tiếp tục phát triển cụm, điểm công nghiệp tại
Hà Tây.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là

phương pháp chủ đạo. Ngoài ra chúng tôi còn kết hợp với các phương pháp
khác như: Phương pháp điều tra, thống kê; phương pháp phân tích tổng hợp.
6. Những đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận đối với việc hình thành, phát
triển các cụm, điểm công nghiệp như là một quá trình khách quan.
- Làm sáng tỏ tính đặc thù của việc hình thành các cụm, điểm công
nghiệp ở Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích thực trạng, làm rõ những nguyên nhân, kết quả; những yếu
kém trong phát triển cụm, điểm công nghiệp.
- Định hướng các giải pháp để hình thành và thúc đẩy phát triển cụm,
điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (đặc biệt là ở
Hà Tây).
7. Kết cấu luận văn: Luận văn gồm 3 chương
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
một số biểu bảng số liệu, sơ đồ,… nội dung chính bao gồm khoảng 100 trang
được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1 – Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành phát triển các cụm,
điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Chương II – Thực trạng xây dựng và phát triển các cụm, điểm công nghiệp ở
tỉnh Hà Tây
Chương III – Phương hướng và giải pháp phát triển các cụm, điểm công
nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Tây.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CÁC CỤM, ĐIỂM CÔNG NGHIỆP TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CỤM, ĐIỂM
CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.
1.1.1. Khái niệm cụm, điểm công nghiệp

Trong thời gian qua, các cơ sở công nghiệp của các nước đang phát
triển phần lớn do hạn chế về vốn nên có quy mô vừa và nhỏ, phân bố phân
tán, khả năng xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường thấp. Đất đai hữu hạn, dân
số ngày càng tăng. Thêm vào đó chi tiêu của Chính phủ cần phải tập trung
vào việc phát triển hạ tầng cơ sở về cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Để
đáp ứng yêu cầu trên, việc phát triển công nghiệp cần khuyến khích mọi thành
phần kinh tế và phải tuân theo quy hoạch phát triển nhằm tiết kiệm trong đầu
tư, tiết kiệm đất đai, có điều kiện để dễ dàng kiểm soát và có biện pháp bảo vệ
môi trường một cách thuận lợi và hữu hiệu nhất.
Bởi vậy, các nước cần tạo một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư
cả về môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để thu hút
đầu tư theo quy hoạch phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội trước mắt cũng
như lâu dài của đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên, các nước đang phát triển
đã thành lập các khu vực đặc biệt với những ưu đãi về tài chính, thuận lợi về
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội để thu hút đầu tư, xuất phát từ mục tiêu đó
đã dẫn tới sự hình thành các khu vực sản xuất tập trung và khái niẹm về khu,
cụm, điểm công nghiệp ra đời.
Cụm công nghiệp, điểm công nghiệp là khái niệm được sử dụng khá
phổ biến và thường xuyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
các nước tư bản, đặc biệt là sau cuộc cách mạng về khoa học công nghệ trên
thế giới trong những năm 1970-1980 của thế kỷ trước. Với mô hình này đã
cho phép hạ thấp chi phí sử dụng thị truờng, tạo điều kiện đổi mới các hàng
hoá truyền thống và các quy trình truyền thống,
Tại Việt Nam, trong quá trình phát triển của đất nước thì khái niệm cụm
công nghiệp, điểm công nghiệp được ra đời từ khi có quyết định số
132/2000/QĐ-TTG ngày 24/11/2000 của Thủ Tướng chính phủ và một số
ngành nông thôn.
Đây là một hình thức mới với nước ta, cụm công nghiệp, điểm công
nghiệp là một hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ, nó ra đời
và gắn liền với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

và đặc trưng nhất là tại các làng có nghề truyền thống.
Như ta đã biết sản xuất công nghiệp được tổ chức theo ba loại hình
chính đó là: theo ngành, theo thành phần kinh tế, theo lãnh thổ.
Tổ chức theo ngành có nghĩa là hình thành và phát triển các chuyên ngành
kinh tế – kỹ thuật thuộc các lĩnh vực khai thác chế biến và dịch vụ công nghiệp.
Theo thành phần kinh tế thì được hình thành trên cơ sở các cơ sở sản
xuất, kinh doanh công nghiệp tồn tại dưới các hình thức: doanh nghiệp Nhà
nước, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, hợp tác xã, công ty cổ phần, CTTNHH, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh
doanh cá thể.
Theo lãnh thổ thì đó chính là việc hình thành các khu, các vùng lãnh
thổ nơi tập hợp các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp. Đây chính là tiền
đề để ra đời khái niệm về khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp, ..
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì sản xuất theo lãnh
thổ phát triển khá nhanh và có tác động tích cực chủ yếu như:
- Tạo điều kiện tốt hơn để phát triển công nghiệp nhanh và bền vững
nhờ: cải tiến kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ thuật (đường xá, điện nước, thông tin
liên lạc), giải quyết vấn đề môi trường do tách khu sản xuất công nghiệp với
khu dân cư và có phương án xử lý chất thải công nghiệp một cách triệt để, có
điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật một các đầy đủ nhất.
- Tạo ra sự phân bố công nghiệp đồng đều hơn, họp lý hơn giữa các
vùng, các địa phưong của đất nước
- Huy động được mọi nguồn lực của từng vùng, từng lãnh thổ vào phát
triển công nghiệp.
- Đây là loại hình tổ chức sản xuất đặc biệt phù hợp với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Đến nay việc tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ chưa có tên
gọi thống nhất giữa các địa phương, nơi gọi là cụm, điểm công nghiệp (tỉnh
Hà Tây), nơi gọi là cụm công nghiệp huyện (tỉnh Nam Định), nơi gọi là cụm
công nghiệp (thành phố Hà Nội)... Nhưng nói chung, khá thống nhất về

quan niệm cho rằng là một địa điểm phân bố sản xuất công nghiệp tập
trung bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh tế gia đình nhằm
khắc phục ô nhiễm môi trường, tạo kết cấu cơ sở hạ tầng tốt hơn cho phát
triển sản xuất, kinh doanh công nghiệp, có ranh giới địa lý rõ ràng, có hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ và được
thành lập theo quyết định của chính quyền địa phương (tỉnh hoặc huyện).
Bảng 1.1:
Tình hình phát triển các cụm điểm công nghiệp làng nghề tại một số tỉnh
Tỉnh
Số làng
nghề của
tỉnh
Quy hoạch
đến năm
2010
Diện tích
(ha)
Số cụm
công nghiệp
làng nghề
đã xây dựng
Diện tích
(ha)
Hà Nội 30 8 - 3 96,1
Hà Tây 201 400 10.000 157 -
Bắc Ninh 62 21 460,87 15 -
Nam Định 86 17 - 15 202,69
Như vậy, mục tiêu phát triển sản xuất, kinh doanh công nghiệp trên cơ
sở giải quyết tốt vấn đề tạo ra kết cấu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường.
Đối tượng vào cụm điểm công nghiệp là cơ sở sản xuất, kinh doanh (doanh

nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh gia đình) ở làng nghề chuyển đến. Cụm,
điểm công nghiệp đã Thực hiện sự tách biệt khu vực sản xuất khỏi khu vực
dân cư sinh sống và được thành lập theo quyết định của Uỷ ban nhân dân
địa phương (tỉnh, huyện).
Trong quá trình nghiên cứu tại địa phương thì bản thân tác giả luận văn
cho rằng với đặc thù là một tỉnh có số lượng làng nghề chiếm trên 20% số
lượng làng nghề trên toàn quốc thì việc UBND tỉnh Hà Tây có quy định về
tên gọi là cụm công nghiệp và điểm công nghiệp là khá phù hợp vói tình hình
sản xuất công nghiệp của địa phương.
Tóm lại,
Cụm công nghiệp: là địa điểm tập trung sản xuất kinh doanh và dịch vụ
phục vụ công nghiệp của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tách biệt
với khu dân cư, có hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật chung được xây
dựng đồng bộ, bảo đảm đầy đủ các điều kiện để sản xuất thuận lợi, an toàn và
bền vững.
Cụm công nghiệp có thể nằm trong địa bàn một hoặc một số huyện do
uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định; khi lập quy hoạch xây dựng cụm công
nghiệp phải bảo đảm việc kết nối đồng bộ giữa các công trình kỹ thuật hạ tầng
trong và ngoài hàng rào, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và có một hệ thống hạ
tầng xã hội tương ứng.
Điểm công nghiệp: là địa điểm sản xuất và dịch vụ phục vụ cho sản
xuất của các cơ sở ngành nghề ở địa phuơng (hộ gia đình, các cá nhân, tổ,
nhóm hợp tác, hợp tác xã) và trong trưòng hợp cụ thể có thể có một số doanh
nghiệp quy mô nhỏ tại địa phương đó các các ngành nghề phù hợp mục tiêu
của điểm công nghiệp; tách bạch với khu dân cư, có hệ thống công trình hạ
tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ bảo đảm đầy đủ các điều kiện để
sản xuất thuận lợi, an toàn và bền vững.
Điểm công nghiệp chủ yếu trong địa bàn một xã (phường thị trấn), do
uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định sau khi có ý kiến chấp thuận về chủ
trương của UBND tỉnh.

Phân biệt: cụm công nghiệp và điểm công nghiệp
Nhìn vào 2 khái niệm về cụm công nghiệp và điểm công nghiệp, ta có
thể thấy rằng giữa 2 khái niệm này có nét tương đồng, đó là:
Về mục đích: cả cụm công nghiệp và cụm công nghiệp đều có mục
đích là tập trung các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công nghiệp vào một
vùng có điều kiện hơn về chế độ vị trí để sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho
sự phát triển đúng định hưóng của chính quyền địa phương: quy hoạch vùng
kinh tế, bảo vệ môi trường, giảm thiểu chi phí xã hội.
Về cách thức tổ chức: Cụm công nghiệp và điểm công nghiệp đều có sự
tách bạch vơi khu dân cư, đây cũng chính là sự cần thiết để đảm bảo ngươi
dân có cuộc sống đầy đủ, không bị ảnh hưởng bởi các chất thải công nghiệp,
hay ô nhiễm môi trường. Cụm điểm công nghiệp đều có một hệ thống hạ tầng
kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ bảo đảm đầy đủ các điều kiện để các
doanh nghiệp sản xuất thuận lợi nhất, an toàn nhất.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì giữa hai khái niệm này cũng có sự khác biệt:
Về cấp quản lý: Cụm công nghiệp thì do UBND tỉnh ra quyết định
thành lập, còn điểm công nghiệp thì đựoc phân cấp cho cấp huyện quản lý. Có
thể thấy rằng, ở đây thì khái niệm cụm công nghiệp có thể nằm trên địa bàn
nhiều huyện của một tỉnh do vậy do vậy cần có sự quản lý của UBND Tỉnh,
còn điểm công nghiệp do chỉ nằm trên địa bàn các xã do vậy thì cấp quản lý
gần nhất là UBND huyện.
Về quy mô, số luợng: Cụm công nghiệp có quy mô lớn hơn diểm công
nghiệp, do cụm công nghiệp tập trung các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn các
điểm công nghiệp thì chủ yếu tập hợp các “hộ sản xuất” do vậy quy mô sẽ
nhỏ hơn, Tuy nhiên thì số lượng của cụm công nghiệp lại ít hơn số lượng
điểm công nghiệp, do quy mô nhỏ, mô hình gọn do vậy việc thành lập điểm
công nghiệp cũng nhanh và dễ dàng hơn, điều kiện các cơ sở sản xuất kinh
doanh được tham gia cũng đơn giản hơn rất nhiều.
Qua sự phân biệt giữa cụm công nghiệp, điểm công nghiệp thì ta có thể
thấy về cơ bản là hai loại hình tổ chức sản xuất công nghiệp này là tương

đồng, có khác chăng chỉ là cấp độ và quy mô mà thôi. Điều này cũng hoàn
toàn đúng vì trong phạm vi một tỉnh thì chỉ có UBND tỉnh mới có quyền có
các chính sách đối với các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp, cấp huyện và
cấp xã đều phải căn cứ vào các quy định chung của tỉnh để thực hiện. Do vậy,
trong luận văn chỉ tập trung đến khái niệm cụm, điểm công nghiệp để là rõ vai
trò phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiẹn
đại hoá.
Phân biệt cụm, điểm công nghiệp với các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Khu chế xuất:
Khu chế xuất có tính chất là khu vực chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước được thành lập với
những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý, quản lý và kỹ thuật hạ tầng trên
một địa bàn hạn chế để thu hút đầu tư của các nước phát triển đặc biệt là Công
ty xuyên quốc gia. Khu chế xuất, ngày nay có các định nghĩa sau:
Theo Điều lệ hợp đồng của WEPZA (Hiệp hội các Khu chế xuất thế
giới) thì Khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các nước
cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất
kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định
nghĩa này về cơ bản đồng nhất Khu chế xuất với khu vực WEPZA công nhận
và Khu chế xuất khu vực miễn thuế.
Theo Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Khu
chế xuất thì “Khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được
hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm
mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành với
những quy định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài”. Với định nghĩa này, hoạt động chính trong Khu chế xuất là sản phẩm
công nghiệp.
Theo Qui chế KCN, KCX, – ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP
ngày 24 tháng 4 năm 1997, Khu chế xuất là “khu chuyên sản xuất hàng xuất
khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất

khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ
hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập”. Như vậy, về cơ bản, Khu
chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định nghĩa của UNIDO.
Khu công nghiệp:
Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài – đối tượng đầu tư chủ yếu vào KCN vì họ hy vọng vào thị
trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hóa
của mình. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu
hướng tự do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc cho phép tiêu thụ
hàng hóa tại thị trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích
cạnh tranh sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn
góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập khẩu lậu.
Có hai quan niệm về khu công nghiệp, đó là:
Thứ nhất, khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản
xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất
công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng,
nhà ở... Về thực chất mô hình này là khu hành chính – kinh tế đặc biệt như
KCN Bat Tam, In-đô-nê-xi-a, công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và
một số nước Tây Âu.
Thứ hai, khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở
đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp,
không có dân cư sinh sống. Mô hình này được xây dựng ở một số nước như
Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Đài Loan.
Còn theo Nghị định 36/CP thì: KCN là “khu tập trung các doanh
nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong
KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất”. Như vậy, KCN ở Việt Nam được hiểu
giống với định nghĩa thứ hai ở trên.
Phân biệt: Đối chiếu với quy định của Nghị định 36/CP của chính phủ

thì tác giả cho rằng cụm, điểm công nghiệp là một hình thức biểu hiện của
khu công nghiệp. Nó thích ứng với trình độ thấp của phát triển công nghiệp
nông thôn ở Việt Nam hiện nay và khác hoàn toàn với khái niệm khu chế xuất
– chủ yếu liên quan đến vấn đề nước ngoài.
Khác với khu công nghiệp tập trung, Cụm, điểm công nghiệp có quy
mô nhỏ hơn, sản xuất thường tập trung vào một loại sản phẩm mang tên của
làng nghề, điều kiện và phương tiện xử lý môi trường, kết cấu cơ sở hạ tầng
kém hơn và do chính quyền địa phương (tỉnh, huyện...) quyết định thành lập.
Cụm, điểm công nghiệp khác với khu công nghiệp vừa và nhỏ ở chỗ:
Khu công nghiệp vừa và nhỏ bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ được
hình thành chủ yếu do phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ mới, do di chuyển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố, thị xã vào để khắc phục ô nhiễm
môi trường. Còn cụm, điểm công nghiệp gồm các cơ sở có xuất xứ là các hộ
kinh doanh gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở làng nghề.
1.1.2. Vai trò của cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Việc thành lập cụm công nghiệp, điểm công nghiệp có tác động rất lớn
đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đặc biệt là đối với sự phát
triển ngnàh công nghiệp của một quốc gia. Việc phát triên cụm điểm công
nghiệp cho phép tổ chức cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, bảo vệ
môi trường, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật
sản xuất và xã hội cho khu vực. Vai trò phát triển cụm, điểm công nghiệp
trong quá trình công nghiẹp hoá, hiện dại hoá được thể hiện trên một số mặt
sau đây:
1.1.2.1.Huy động vốn đầu tư phát triển
Sự hình thành và phát triển cụm, điểm công nghiệp gắn liền với những
mục tiêu thành lập cụm, điểm công nghiệp và mục tiêu của nhà đầu tư.
Phân tích từ giác ngộ vĩ mô, có thể tóm tắt lại mục tiêu cơ bản và thống
nhất như sau:
- Thu hút vốn đầu tư để phát triển theo quy hoạch

Đây là mục tiêu quan trọng nhất của cụm, điểm công nghiệp. Với tính
chất là “vùng lãnh thổ” hoạt động trong môi trường đầu tư chung, cụm, điểm
công nghiệp trở thành công cụ hữu hiệu thu hút vốn đầu tư, để mở mang hoạt
động sản xuất kinh doanh cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp sản xuất
nhỏ.
Đối với các hộ sản xuất thì vấn đề mặt bằng và vốn sản xuất luôn là hai
vấn đề luôn bức súc nhất. Đây chính là cái vòng luẩn quẩn của sản xuất nhỏ,
các doanh nghiệp, hộ sản xuất không có điều kiện về vốn để có thể mở rộng
sản xuất, đi thuê mặt bằng. Trong đó khi muốn mở rộng sản xuất, tập trung
vào phát triển các sản phẩm thì lại cần vốn lớn. Việc phát triển cụm điểm
công nghiệp chính là để giải quyết vấn đề này. Như ta đã biết, sự phát triển
công nghiệp cần phải tuân thủ quy hoạch vùng, lãnh thổ để tránh đầu tư phân
tán, lãng phí đất đai, khó kiểm soát được môi trường. Với cụm điểm công
nghiệp các doanh nghiệp có điều kiện tập trung vốn để phát triển.
1.1.2.2. Giải quyết việc làm lao động
Mở rộng cụm, điểm công nghiệp để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là
một trong những mục tiêu quan trọng của các nước phát triển.
Thực tiễn cho thấy, cụm, điểm công nghiệp là công cụ hữu hiệu thực
hiện chiến lược lâu dài về toàn dụng lao động ở các nước đó. Với cụm điểm
công nghiệp, việc giải quyết lao động nông nhàn tại chỗ là rất phù hợp. Các
doanh nghiệp trong cụm, điểm công nghiệp là các doanh nghiệp xuất phát từ
sản xuất nhỏ, hộ gia đình và đặc biệt là có yếu tố làng nghề.
Việc phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này
có liên quan rất nhiều đến vân đề nghề truyền thống tại địa phưong đó. Đây
chính là điều kiện để các doanh nghiệp có thể huy động lực lượng lao động tại
chỗ một cách hiệu quả mà vấn đề đào tạo nghề không quá khó khăn. Đối với
người nông dân thì đây cũng chính là nơi mà họ rất muốn đến.
1.1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài.
Xây dựng cụm, điểm công nghiệp, theo quy hoạch phát triển tổng thể

về kinh tế xã hội tại những địa điểm thuận lợi vận chuyển hàng hoá, tiêu thụ
sản phẩm hoặc là những nơi quy hoạch phát triển thành đô thị, khu dân cư sau
này. Do vậy sẽ tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư xây dựng chiến lược
phát triển lâu dài
Xây dựng cụm điểm công nghiệp nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới,
thu hút lao động, tạo liên kết với các doanh nghiệp trong nước thông qua các
hợp đồng gia công, cung cấp nguyên liệu là thực tế diễn ra ở nhiều doan
nghiệp trong các nước. Cụm , điểm công nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện
dẫn dắt công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ cần thiết từ dịch vụ công nghiệp, tài
chính, ngân hàng, cung cấp nguyên liệu đến dịch vụ dân sinh phục vụ lao
động trong các ụm điểm công nghiệp. Đồng thời, thu hút lao động vào các
cụm điểm công nghiệp cũng sẽ tạo nên sự tập trung dân cư tác động đến việc
phân bố lại dân cư, tại những vùng có cụm, điểm công nghiệp để hình thành
các đô thị, thành phố công nghiệp.
1.1.2.4. ứng dụng khoa học –công nghệ
- Du nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý
của các Công ty tư bản nước ngoài.
Để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp và
tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới, các nước đang
phát triển muốn mau chóng phát triển khoa học kỹ thuật của mình, nâng cao
trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng cụm điểm công nghiệp để thu hút
vốn đầu tư, mỏ rộng sản xuất từ đó tạo điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật,
công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế. Đaay là diều rất cần thiết đối
với các doanh nghiệp sản xuất nhỏ ở nước ta khi xuất phát điêm thấp và có
trìh độ lạc hậu hơn so với các nước phát triển.
- Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế trong nước, phát huy tác dụng lan toả, dẫn dắt của cụm,
điểm công nghiệp
1.1.2.5. Nâng cao hiệu quả kinh tế
Đối với nhà đầu tư, mục tiêu cao nhất là thu được lợi nhuận tối đa, chi

phí đầu tư thấp nhất. Do vậy đầu tư vào cụm điểm công nghiệp, nhà đầu tư
được hưởng những ưu đãi riêng của nhà nước đối với cụm, điểm công nghiệp
và lợi ích từ các công trình hạ tầng kỹ thuật sẵn sàng thuận lợi cho thực hiện
dự án. Với nhưng lợi thế như vậy các doanh nghiệp sẽ có điều kiện giảm thiẻu
đến mức tối đa chi phí sản xuất. điều đó dẫn đến giảm giá thành sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được các yêu cầu, nhu cầu của thị
trưòng, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.2. NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN CỤM, ĐIỂM CÔNG
NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.2.1. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển các cụm
điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phát triển của lực lượng sản xuất có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành và phát triển cụm điểm công nghiệp nói riêng cũng như quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung.
Trình độ của lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn chung nhất, cơ bản nhất
của phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất với mức độ
nhất định đã quy định sự vận động đi lên của xã hội qua đó sự chuyển tiếp từ
phương thức sản xuất này sang phưong thức sản xuất khác quy định trình độ
của từng yếu tố bên trong chúng. Biểu hiện của trình độ của lực lượng sản
xuất là trình độ kỹ thuật và năng suất của tu liệu sản xuất, ở trình độ lành
nghề và tri thức chung của nguời lao động, ở trình độ phát triển của khoa họ
ông nghệ và khả năng ứng dụng chúng trong kỹ thuật và công nghệ sản xuất.
Phát triển sản xuất trong các cụm, điểm công nghiệp là một quá trình
chuyển giao phương thức sản xuất, từ việc sản xuất manh mún, nhỏ lẻ sang
sản xuất tập trung, có nang suất cao. Vậy khi chuyển sang một phương thức
sản xuất mới tiến bộ hơn thì vấn đề đặt ra là trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất có theo kịp không, mà ta đa biết là trình độ của lực lượng sản xuất
không dừng lại ở việc đánh giá trình độ phát tiển của từng yếu tố riền biệt của
lục lượng sản xuất.

- Sự phát triển của khoa học công nghệ
Trong những năm gần đây, sự phát triển của khoa học công nghệ diễn
ra với tốc độ ngày càng nhanh, chu kỳ sống của một công nghệ ngày càng bị
rút ngắn, Nước ta là một nước nông nghiệp sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, trình
độ khoa học công nghệ lạc hậu, chưa có nền sản xuất hiện đại. Việc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi cần phai xây dựng được một nền
san xuất hiện đại, hàm lượng công nghệ ngày càng cao.
Hình thành các cụm công nghiệp làng nghề là chuyển từ sản xuất phân
tán, manh mún sang sản xuất tập trung, do đó thúc đẩy và tạo điều kiện đổi
mới công nghệ. Nhờ có cụm công nghiệp làng nghề nên có thể áp dụng các
dây chuyền công nghệ mới, có công suất lớn hơn và hiện đại hơn. Do vậy,
khoa học công nghệ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động của các ụm
điểm công nghiệp, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi cụm,
điểm công nghiệp.
- Tính đa dạng của sản xuất hàng hoá
Ở nước ta, quá trình phát triển nề kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thì quá trình nâng cao trình độ xã
hội hoá sản xuất là xu hướng tất yếu. Để thực hiện quá trình xã hội hoá sản
xuất thì đòi hỏi phải thực hiện một số quy luật khách quan của nề sản xuất
hàng hoá, đó là sự đa dạng về hình thức sở hữu, về các thành phần kinh tế và
các hình thức kinh tế.
Với tính đa dạng của sản xuất hàng hoá thì sản phẩm làm ra là kết quả
lao động của nhiều người, nhiều ngành, thậm chí là nhiều nước. Điều này có
tác động lớn đến việc phát triển và vấn đề phân công lao động trong các
doanh nghiệp của nước ta. Đây là vấn đề các nhà hoạch định chính ách cần rất
lưu ý trong ván đề định huớng phát triển Cụm, điểm công nghiệp sao cho sản
xuất phải phù hợp vói các quy luật kinh tế khách quan của thị trường, tránh
chủ quan, áp đặt trong việc phát triển sản xuất.
- Vai trò của Nhà nước với các chính sách vĩ mô
Chính sách là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó

rộng lớn hơn các quyết định tác nghiệp, đó là những quyết định chung, hướng
dẫn đối tượng quản lý thực hiện mục tiêu quản lý.
Để thực hiện mục tiêu phát triển cụm, điểm công nghiệp địa phương
đều có những chính sách riêng cho việc xây dựng và phát triển cụm, điểm
công nghiệp. Chính sách phát triển cụm, điểm công nghiệp là các quyết định
về thu hút đầu tư theo quy hoạch xác định phù hợp với phát triển kinh tế của
địa phương, đảm bảo sự phân bố hợp lý về lực lượng sản xuất, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực như vốn, đất đai, nguồn tài nguyên, lao động...để tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế nhằm thực hiện chủ trương phát
triển công nghiệp thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Điều quan trọng
là chính sách phát triển cụm, điểm công nghiệp phải đảm bảo đạt mục tiêu đề
ra của cơ quan Nhà nước nhưng cũng đảm bảo tính hấp dẫn với nhà đầu tư.
Cụm, điểm công nghiệp có thể do Nhà nước hoặc tư nhân sở hữu
nhưng đều là đối tượng của quản lý nhà nước. Nhà nước thực hiện chính sách
phát triển cụm, điểm công nghiệp với ba chức năng hoạch định, điều hành và
tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành và phát triển cụm, điểm công
nghiệp.
Với chức năng hoạch định, nhà nước quyết định chủ chương, quy
hoạch chung phát triển cụm, điểm công nghiệp; mục tiêu, phương hướng hoạt
động và qui mô của từng cụm, điểm công nghiệp trên cơ sở chiến lược chung
kinh tế – xã hội và chiến lược phát triển công nghiệp của đất nước. Hiện nay,
vấn đề giải phóng mặt bằng, vấn đề tạo việc làm cho nông dân sau khi Nhà
nước thu hồi đất để xây dựng cụm điểm công nghiệp, vấn đề chính sách ưu
đãi cho các doanh nghiệp ..đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và
phát triển của các cụm điểm công nghiệp
- Sự phát triển của kinh tế thị trường
Thực hiện công cuộc đổi mới được khởi xưóng từ Đại hội Đại biểu
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, 1986, với những đổi mới căn bản về
nhận thức và tư duy kinh tế mà trọng tâm là chủ trương chuyển từ cơ chế kinh

tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi cơ bản diện
mạo các doanh nghiệp tại nước ta, các doanh nghiệp có sức cạnh tranh thấp sẽ
bị đào thải theo quy luật khách quan của ơ chế thị trường, các doanh nghiệp
hoạt động trong môi trường cạnh tranh tự do, bình đẳng, không phân biệt các
loại hình doanh nghiệp. Cơ chế thị trường đã thực sự giúp các doanh nghiệp
đứng trên “đôi chân” của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, một trong những nhân tố qun trọng hàng đầu giúp các doanh nghiệp
nâng cao năng lực cạnh tranh chính là chất lượng sản phẩm, trong lĩnh vực
này thì cụm điểm công nghiệp có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của
doanh nghiệp. Các dự án đầu tư trong các cụm điểm công nghiệp về cơ bản là
những dự án đầu tư có tính chất chiều sâu: trang thiết bị được đổi mới, đồng
bộ, chi phí được tinh giảm tới mức tối đa, phương pháp quản lý tiến bộ, tiếp
cận dần với phương pháp quản lý hiện đại, phong cách của một nền sản xuất
công nghiệp được hình thành. Với các lợi thế đó các san phẩm sản xuất ra có
chất lượng ổn định và tốt hơn. Vì vậy đã giúp các doanh nghiệp cạnh tranh có
hiệu quả trên thị trưòng và có chỗ đứng trong thị trường. Nói cách khác, với
những ưu thế nhất định của mình thì các doanh nghiệp trong các cụm điểm
công nghiệp có lợi thế cạnh tranh trên thị trường rõ nét hơn các doanh nghiệp
ngoài hàng rào cụm điểm công nghiệp.
- Quá trình hội nhập và tác động của hội nhập
Quá trình hội nhập đã và đang có những tác động mãnh mẽ tới nền kinh
tế Việt Nam, với chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, đặc
biệt là sự kiện việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO, việc mở cửa nền kinh tế đã đưa các doanh nghiệp nước ta đến những
thời cơ mới, một thị trường mới, rộng lớn mở ra, Tuy nhiên bên cạnh đó, thì
thách thức đối với nền kinh tế nước ta là rất lớn. Nước ta có xuất phát điểm
thấp, các doanh nghiệp chưa có đủ năng lực thực sự để cạnh tranh trong môi
trường toàn cầu, năng suất lao động còn thấp, hàm lượng khoa học công nghệ
trong các sản phẩm còn yếu...Vậy một câu hỏi lớn được nêu ra là làm thế nào

để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường
trong điều kiện hội nhập mạnh mẽ hiện nay? Câu trả lời đó chính là ở các
doanh nghiệp, ở sự hỗ trợ về chính sách của Nhà nước đối vói nền kinh tế.
Chủ trương thành lập và phát triển các cụm, điểm công nghiệp là một chủ
trương đúng, giúp các doanh nghiệp có điều kiện tốt hơn để nâng cao năng
lực cạnh tranh trên thương trường, đồng thời qua đó giúp Nhà nuớc có thể có
chính sách kinh tế hợp lý để có biện pháp vỹ mô đối với nền kinh tế. Đó là
những định hướng vĩ mô về: ngành nghề, về thị trường, về lao động, về

×