Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.7 KB, 85 trang )

䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Kiểm toán nội bộ là công việc thường xuyên của DN, do DN tổ chức thực
hiện nhằm đảm bảo độ tin cậy của các số liệu kế toán và các thông tin trong BCTC
của DN, phục vụ chủ yếu cho DN; nó là một công cụ quản lý hữu hiệu, giúp phát
hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của DN. Thông qua công cụ
này, ban lãnh đạo DN có thể kiểm soát hoạt động, quản lý rủi ro tốt hơn và tăng khả
năng đạt được các mục tiêu kinh doanh của DN.
Tại các nước phát triển, Kiểm toán nội bộ đã ra đời từ khá lâu và ngày càng
khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình trong DN.Tuy nhiên, cụm từ
“Kiểm toán nội bộ” mới được đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong khoảng 10 năm nay
và đến nay khái niệm Kiểm toán nội bộ vẫn còn khá xa lạ với nhiều nhà quản lý, nó
vẫn chưa được các DN Việt Nam chú trọng đúng mức, chưa hiểu hết ý nghĩa thực
tiễn, chưa được đưa vào sử dụng có hiệu quả trong các DN Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập vào khu vực và thế giới, là thành viên
của các tổ chức quốc tế như AFTA, ASEAN, APEC… và mới chính thức gia nhập
WTO, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt, các DN luôn phải đứng trước các cơ hội và thách thức. Để tận dụng các cơ hội và
đối phó với các khó khăn đòi hỏi bản thân mỗi DN phải nỗ lực khẳng định vị trí của
mình, không chỉ bằng các chiêu thức giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ… mà còn
cần thiết phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hữu hiệu. Điều này cho
thấy sự cần thiết của KTNB ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Để hoạt động có hiệu quả
hơn các DN Việt Nam cần phải chú trọng hơn nữa đến việc thiết lập và đưa vào hoạt
động bộ phận KTNB.
Đối với TCT Khoáng sản – TKV cũng vậy, là một thành viên của Tập đoàn
Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, quản lý nhiều công ty con với các loại
hình đa dạng: Công ty phụ thuộc, công ty CP, công ty TNHH một thành viên … phân
bố rộng khắp trên cả nước, TCT cũng đã nhận thấy sự cần thiết của KTNB trong
công tác quản lý và đã thành lập bộ phận KTNB. Tuy nhiên bộ phận KTNB của TCT
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗


mới được thành lập một năm nay, cơ cấu còn sơ sài và chưa được định hình rõ ràng,
hoạt động trong phạm vi hẹp, chưa thể hiện được vai trò của mình.
Nhận thấy vấn đề này đang khá bức xúc tại TCT Khoáng sản - TKV, tôi đã
chọn Đề tài: “Hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV” làm Luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV từ khi
thành lập bộ phận KTNB tới nay, từ đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện
tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV
Phạm vi nghiên cứu của Đề tài: tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV từ
khi thành lập tháng 05/2006 đến tháng 6/2007, với dẫn chứng cụ thể tại một số đơn vị
thành viên đã được KTNB.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu theo các phương pháp luận của phép biện chứng duy
vật, các phương pháp chung của logic học, phương pháp hệ thống chọn lọc, tổng hợp
và phân tích làm rõ đối tượng nghiên cứu.
5. Đóng góp của Đề tài
Đề tài làm rõ những đặc điểm về tổ chức hoạt động kinh doanh, hoạt động
quản lý tài chính để phân tích thực trạng tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV.
Trên cơ sở kết hợp lý luận cơ bản với việc mô tả và phân tích thực tiễn tổ chức
KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV, Đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp
hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản – TKV.
6. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về tổ chức KTNB trong DN
- Chương 2: Thực trạng tổ chức KTNB tại TCT Khoáng sản - TKV
- Chương 3: Nguyên tắc và giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại TCT
Khoáng sản - TKV

䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Những lý luận chung về Kiểm toán nội bộ trong DN
1.1.1 Khái niệm Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một loại hình kiểm toán khi được phân chia theo tiêu chí
bộ máy tổ chức. Có nhiều khái niệm khác nhau về KTNB.
Theo “Chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán nội bộ” của Hoa Kỳ đã được Viện
kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ thông qua tháng 6 năm 1978 thì: “Kiểm toán nội bộ là một
chức năng xác minh độc lập được thiết lập trong một tổ chức để xem xét và đánh giá
các hoạt động của tổ chức, được coi là một dịch vụ đối với tổ chức đó. Mục tiêu của
kiểm toán nội bộ là giúp các thành viên của tổ chức thực thi có hiệu quả trách nhiệm
của mình. Nhằm mục tiêu này, kiểm toán nội bộ cung cấp cho các thành viên những
công việc phân tích, xác minh, kiến nghị, ý kiến tư vấn và thông tin thuộc về các hoạt
động đã được thẩm tra”.
Theo Liên đoàn Kế toán quốc tế IFAC: “ Kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá được lập ra trong một đơn vị kế toán như là một loại dịch vụ cho đơn vị đó,
có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống
kế toán và kiểm soát nội bộ”.
Theo định nghĩa của Hiệp hội KTV nội bộ (IIA): “KTNB là một hoạt động
đảm bảo và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tăng thêm giá
trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. KTNB giúp cho tổ chức hoàn thành
mục tiêu trong việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ cương nhằm đánh giá
và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro kiểm soát và giám sát”
Như vậy có thể nói Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá
một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát của DN; đánh giá
độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục, quy trình đã được
thiết lập trong DN, thông qua đó đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo

䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
DN hoạt động an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật. Tất cả các hoạt động này được
thực hiện bởi một bộ phận do chính DN tổ chức.
1.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của KTNB
1.1.2.1 Chức năng của KTNB
Chức năng chủ yếu của KTNB bao gồm: Kiểm tra, xác nhận và đánh giá sự
đầy đủ và hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức và chất lượng hoạt
động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Kiểm tra tính phù hợp, độ tin cậy và chính xác của các thông tin tài chính và
phi tài chính có thể định lượng được thuộc tất cả các hệ thống và hoạt động
của DN.
- Kiểm tra sự vận hành hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, các nguyên tắc, chính sách, chế độ nghị
quyết, nghị định của Nhà nước và DN.
- Kiểm tra tính hiệu quả, hiệu lực của các hoạt động SXKD và việc sử dụng hợp
lý các nguồn lực.
1.1.2.2 Nhiệm vụ của KTNB
- Kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu năng và hiệu quả của hệ thống kiểm
soát nội bộ. Trong một DN, hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống bao gồm các
chính sách, các thủ tục kiểm soát được lãnh đạo DN sử dụng trong quản lý và điều
hành các hoạt động SXKD. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm bốn nhân tố: môi
trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục và quy trình kiểm soát, kiểm toán nội
bộ. KTNB kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm
soát nội bộ thông qua việc soát xét hệ thống này nhằm phát hiện, ngăn chặn, hạn chế
và xử lý kịp thời các sai sót, gian lận có thể xảy ra trong quá trình quản lý và kinh
doanh của DN.
- Kiểm tra, xác nhận chất lượng và độ tin cậy của các thông tin. Các thông tin
tài chính và phi tài chính phát sinh từ mọi hoạt động và hành vi quản lý của DN.
KTNB có nhiệm vụ phải kiểm tra, xác nhận tính xác thực của tất cả các thông tin này.
Qua đó, lãnh đạo DN và các đối tượng quan tâm đến kết quả hoạt động của DN có

thể đánh giá được tình hình thực tế của DN.
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
- Kiểm tra sự tuân thủ các chính sách, chế độ, các quy định, kế hoạch và thủ
tục hiện hành. KTNB kiểm tra toàn bộ các khâu, các bước trong quá trình hoạt động,
kinh doanh của DN để đánh giá mức độ tuân thủ đối với các quy chế, thủ tục, chính
sách và quy định của Nhà nước mà DN cần tuân theo. KTNB có thể đánh giá và tham
mưu cho lãnh đạo DN về tính hợp lý và sự ưu việt của các quy chế và thủ tục kiểm
soát của các chính sách, các kế hoạch hoạt động góp phần tăng cường tính hiệu lực,
hiệu quả trong các quyết định của lãnh đạo DN đối với hoạt động sản xuất, kinh
doanh của DN.
- Kiểm tra các phương thức đảm bảo an toàn cho tài sản của DN. Để đảm bảo
an toàn cho tài sản của DN, KTNB cần kiểm tra sự hiện diện của các tài sản đó qua
việc kiểm kê tài sản thực tế, kiểm tra hệ thống quản lý công nợ, hệ thống kho bãi, hệ
thống phòng cháy chữa cháy, hệ thống lưu trữ, bảo quản thông tin (thông tin về tài
chính, thống kê, thông tin về chiến lược, kế hoạch SXKD …) Thông qua việc kiểm
tra, KTNB giúp cho lãnh đạo DN hoàn thiện các quy chế kiểm soát, kịp thời có các
giải pháp thực tế để đảm bảo an toàn cho tài sản của DN.
- Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực.
Thông qua việc kiểm tra các bộ phạn trong DN, KTNB đánh giá việc thực hiện các
nhiệm vụ giao cho các bộ phận, cá nhân có phù hợp và được hoàn thành đúng kế
hoạch, mục tiêu đề ra hay không. Đồng thời kiểm tra xem các nguồn lực có được sử
dụng có hiệu quả hay không. Từ đó KTNB đưa ra những ý kiến tham mưu cho ban
lãnh đạo DN có những điều chỉnh và quyết định kịp thời, chính xác.
Như vậy, có thể thấy KTNB có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý
của DN: KTNB giúp DN sớm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực
trong quản lý và điều hành; góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và các nguồn
lực trong DN; nâng cao hiệu quả hoạt động và quản lý; chống tham ô lãng phí và góp
phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của DN.
1.1.3 Đối tượng của Kiểm toán nội bộ
Hoạt động KTNB nhằm mục đích xác minh và bày tỏ ý kiến về tình hình tài

chính kế toán và hiệu quả các hoạt động trong DN, do vậy đối tượng của KTNB là
thực trạng tài chính cùng hiệu quả, hiệu năng của các nghiệp vụ, hay các dự án cụ thể
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
trong DN. Trong đó, thực trạng hoạt động tài chính được coi là đối tượng chung của
KTNB, còn tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, hiệu quả và
hiệu năng là các đối tượng cụ thể của KTNB.
- Hoạt động tài chính là hoạt động dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ
kinh tế trong đầu tư, trong kinh doanh, trong phân phối và thanh toán nhằm đạt được
lợi ích kinh tế xác định. Hoạt động tài chính phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản
sau: phải có kế hoạch; phải đảm bảo tiết kiệm và có lợi; phải đảm bảo tuân thủ pháp
luật và thể lệ tài chính. Trong quan hệ với tính xác định của thông tin thu thập được,
thực trạng của hoạt động tài chính gồm hai phần: một phần được phản ánh trong tài
liệu kế toán và phần còn lại chưa được phản ánh trong tài liệu này. KTV nội bộ sẽ sử
dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp để xác minh và đưa ra những đánh giá về
thực trạng hoạt động tài chính của DN.
- Tài liệu kế toán, trước hết là các bảng khai tài chính, là đối tượng trực tiếp và
thường xuyên của mọi cuộc kiểm toán. Trong cơ chế thị trường, tài liệu kế toán
không chỉ là cơ sở để tổng kết các chỉ tiêu ở phạm vi rộng hơn, cũng không chỉ để
kiểm tra, lưu trữ tài liệu và bảo vệ tài sản mà còn là cơ sở cho mọi người quan tâm ra
các quyết định về quản lý, về đầu tư, về thanh toán, phân phối… đồng thời nhu cầu
về chất lượng của tài liệu kế toán cũng tăng lên. Do vậy, đối tượng của kiểm toán
thuộc phạm vi tài liệu kế toán bao gồm: tính hiện thực của các thông tin kế toán; tính
hợp pháp của các biểu mẫu, của trình tự lập và luận chuyển các tài liệu này; tính hợp
lý của các đối tượng kế toán phù hợp với nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh; tính pháp lý trong việc thực hiện các luật pháp, chuẩn mực và chế độ kinh tế tài
chính.
- Thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính: trong DN, tài sản biểu hiện dưới
nhiều hình thái vật chất khác nhau với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản, bảo
dưỡng… khác nhau, lại được lưu trữ trên nhiều kho, bãi khác nhau do những người
khác nhau quản lý. Cùng với sự phát triển của hoạt động SXKD, quy mô tài sản thay

đổi thì sự cách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản tăng
lên, khả năng có sự cách biệt giữa tài sản với sự phản ánh của nó trong thông tin kế
toán. Điều này đòi hỏi phải đặt thực trạng tài sản vào đối tượng của kiểm toan. Do tài
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
sản của DN thường xuyên vận động, quá trình vận động này được cấu thành bởi các
nghiệp vụ cụ thể nên khi tiến hành kiểm toán thì kiểm toán các phần hành cơ bản sau:
các nghiệp vụ về tiền mặt (thu, chi, tồn quỹ); về thanh toán (các khoản vay, nợ, phải
thu, phải trả); về tài sản cố định (đầu tư, xây dựng, mua sắm); về hàng hoá (bảo quản,
sử dụng); về kinh doanh (mua, bán, sản xuất); về tài chính (tạo vốn, phân phối lợi
nhuận)… Tuỳ theo điều kiện và nhu cầu cụ thể mà KTV nội bộ có thể lược bỏ, tách
riêng hay sáp nhập các loại nghiệp vụ cơ bản trên để có được những phần hành kiểm
toán phù hợp.
- Hiệu quả và hiệu năng: Theo quan điểm truyền thống, toàn bộ đối tượng của
kiểm toán là tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính. Nhưng theo
quan điểm hiện đại, đối tượng kiểm toán còn bao gồm cả hiệu quả và hiệu năng. Đây
là đối tượng mới của kiểm toán, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của quản lý trong
điều kiện quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng mà nguồn lực ngày càng giới hạn,
cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tiết kiệm chi phí, thắng thế trong cạnh tranh… vấn
đề hiệu quả, hiệu năng đã được đặt ra cho từng nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong
DN.
Tóm lại, đối tượng chung kiểm toán nói chung, KTNB nói riêng là thực trạng
hoạt động tài chính và hiệu quả thực hiện các hoạt động, chương trình hay dự án
trong DN. Có thể phân chia đối tượng đó thành các đối tượng cụ thể khác nhau như:
tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, hiệu quả, hiệu năng của các
nghiệp vụ, chương trình, dự án để đạt mục tiêu kiểm toán.
1.1.4 Phân loại KTNB
1.1.4.1 Phân loại KTNB theo đối tượng cụ thể
Phân theo đối tượng cụ thể, kiểm toán nói chung, KTNB nói riêng được phân
thành: kiểm toán BCTC, kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán liên kết.
Kiểm toán BCTC: Kiểm toán BCTC do KTNB thực hiện là việc kiểm tra, xác

nhận BCTC và báo cáo quản trị đã lập so với những chuẩn mực chung của kế toán đã
được chấp nhận, các quy định và thủ tục quản lý của từng khâu công việc, của từng
biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ của DN để kết luận về tính trung thực của
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
thông tin trong các BCTC cùng tính pháp lý của biểu mẫu chứa đựng các thông tin
đó.
Công việc kiểm toán BCTC bao gồm: Kiểm tra xác nhận tính trung thực,
khách quan, đầy đủ và tin cậy của các số liệu, tài liệu của BCTC của DN và các đơn
vị thành viên; Kiểm tra việc tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán, chế độ
chính sách tài chính, kế toán, thuế trong quá trình hạch toán và lập báo cáo; Thông
qua KTNB phát hiện những tồn tại, yếu kém, sơ hở, gian lận trong quản lý, trong bảo
vệ tài sản của các bộ phận, các đơn vị đẻ tư vấn cho ban lãnh đạo các biện pháp khắc
phục; Kiểm tra, đánh giá độ tin cậy của các thông tin do kế toán cung cấp thông qua
BCTC, đưa ra những kiến nghị, tư vấn cho lãnh đạo DN về công tác kế toán tài
chính, công tác quản lý và điều hành có hiệu quả.
Kiểm toán nghiệp vụ: là việc thẩm tra các trình tự và các phương pháp tác
nghiệp ở các bộ phận hoặc đơn vị kiểm toán theo hướng hiệu quả, hiệu lực và tính
kinh tế. Các tác nghiệp không chỉ giới hạn ở lĩnh vực tài chính kế toán mà còn mở
rộng sang các lĩnh vực khác: đánh giá cơ cấu tổ chức, phương pháp sản xuất, nghiệp
vụ sử dụng máy tính, marketing và mọi lĩnh vực quản lý khác nếu cần và có thể thực
hiện được.
Kiểm toán nghiệp vụ là nhận định thành tích và hiệu quả, với ba mặt sau:
Nhận định về thành tích và hiệu quả của hệ thống thông tin và phương pháp điều
hành; Nhận định về kết quả sử dụng các nguồn lực; Nhận định về tính chủ động trong
xây dựng dự án và sự tương xứng về điều hành, phát triển. Kết quả của kiểm toán
nghiệp vụ không chỉ củng cố được nền nếp tài chính kế toán mà còn nâng cao được
hiệu năng và hiệu quả của hoạt động quản lý. Trong tổ chức, quá trình cũng như kết
quả kiểm toán của kiểm toán nghiệp vụ khó xác định thành những tiêu chuẩn, biểu
mẫu như kiểm toán BCTC. Hơn nữa, hiệu năng, hiệu quả của nghiệp vụ khó đánh giá
khách quan nên trong kiểm toán nghiệp vụ, KTV thường đưa ra các gợi ý hơn là

những tường trình về hiệu quả đã đạt được để cố vấn cho công tác quản lý của DN.
Kiểm toán liên kết: Kiểm toán liên kết là sự sáp nhập hai loại kiểm toán tài
chính và kiểm toán nghiệp vụ nhằm xác minh tính trung thực của các thông tin tài
chính cùng với xác định mức an toàn của các nghiệp vụ tài chính và chất lượng của
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
hệ thống kiểm soát nội bộ, đồng thời hướng vào những thành tích và hiệu quả trong
đó xem xét việc thiết lập hệ thống thông tin và quản lý cũng như việc điều hành
hướng tới tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, hình thức kiểm toán liên
kết thường được ứng dụng tại các đơn vị công cộng hơn là tại các DN hoạt động
SXKD. Trong DN hoạt động SXKD, KTNB thường thực hiện hai loại hình kiểm toán
là kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ.
1.1.4.2 Phân loại KTNB theo phạm vi kiểm toán
Theo phạm vi kiểm toán thì KTNB có kiểm toán toàn diện và kiểm toán
chuyên đề.
Kiểm toán toàn diện là hoạt động kiểm toán nhằm vào toàn bộ hoạt động kế
toán tài chính, SXKD… của DN với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số
liệu kế toán, sự phù hợp của các biểu mẫu trong BCTC đồng thời tìm hiểu tình hình
hoạt động, tình hình quản lý kinh doanh của DN.
Kiểm toán chuyên đề là hoạt động kiểm toán chỉ tập trung vào một số nghiệp
vụ nhất định như: kiểm toán doanh thu, kiểm toán chi phí, lợi nhuận…
1.1.4.3 Phân loại KTNB theo chu kỳ kiểm toán
Theo tính chu kỳ của kiểm toán thì KTNB được chia thành kiểm toán thường
xuyên, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
Kiểm toán thường xuyên là việc thực hiện thẩm tra, theo dõi soát xét liên tục
các hoạt động kế toán, hoạt động quản lý, kinh doanh một cách thường xuyên để đảm
bảo phát hiện nhanh chóng, kịp thời các sai phạm, từ đó có các biện pháp ngăn chặn,
phòng ngừa hữu hiệu.
Kiểm toán định kỳ là việc thực hiện kiểm toán theo một thời gian nhất định
như kiểm toán BCTC hàng tháng, quý hoặc năm, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh
giá về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của DN.

Kiểm toán bất thường là việc thực hiện các cuộc kiểm toán không dự định,
theo yêu cầu của ban lãnh đạo DN khi trong DN có những vấn đề nảy sinh cần phải
được kiểm tra ngay.
1.1.4.4 Phân loại KTNB theo thời điểm kiểm toán
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
Theo quan hệ về thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp vụ thì
KTNB cũng phân thành kiểm toán kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán sau hoạt
động.
Kiểm toán phòng ngừa bao gồm các biện pháp phòng ngừa được áp dụng
trước khi một nghiệp vụ phát sinh nhằm đảm bảo cho bộ máy nghiệp vụ hoạt động
chuẩn xác và hợp thức, loại trừ các sai phạm trước hoặc ngay khi chúng xuất hiện.
Kiểm toán sau hoạt động là loại kiểm toán được thực hiện sau khi nghiệp vụ
kế toán đã phát sinh nhằm xem xét mức độ trung thực, chính xác của các nghiệp vụ
hoàn thành đồng thời phát hiện các vi phạm, gian lận.
Hai loại hình kiểm toán trên rất khác nhau nhưng lại hỗ trợ nhau rất hiệu quả:
nhờ kiểm toán sau hoạt động, bộ phận KTNB sẽ rút ra bản chất sai phạm, gian lận có
thể xảy ra từ đó xây dựng các biện pháp cho kiểm toán phòng ngừa, nhờ kiểm toán
phòng ngừa, KTV nội bộ sẽ theo dõi được chặt chẽ hơn các sai phạm phát hiện trong
kiểm toán sau hoạt động.
Nói chung, theo nhiều tiêu thức khác nhau, sẽ có nhiều loại hình KTNB khác
nhau, vấn đề đặt ra là các KTV nội bộ phải xác định lựa chọn hoặc kêt hợp các loại
hình kiểm toán khác nhau để thực hiện nhằm đạt hiệu quả cao trong cuộc KTNB.
1.1.5 Ứng dụng phương pháp kiểm toán trong KTNB
Cũng như kiểm toán nói chung, KTNB sử dụng các phương pháp kiểm toán
chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ trong quá trình thực hiện KTNB.
1.1.5.1 Phương pháp kiểm toán chứng từ
Phương pháp kiểm toán chứng từ được thiết kế và sử dụng nhằm mục đích sử
dụng các dữ liệu do hệ thống kế toán xử lý và cung cấp. Mọi kiểm tra, đánh giá đều
được thực hiện dựa vào các số liệu, các thông tin trong BCTC và hệ thống kế toán
của DN. Trong kiểm toán chứng từ, KTV nội bộ cũng sử dụng các phương pháp cân

đối, đối chiếu trực tiếp và đối chiếu lôgic.
- Phương pháp kiểm toán cân đối: là phương pháp dựa trên các cân đối kế
toán và các cân đối khác để kiểm tra các mối quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành
mối quan hệ cân đối đó. Trước hết, KTV nội bộ kiểm tra các cân đối trong kế toán:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
Tổng phát sinh Nợ = Tổng phát sinh Có
Tổng tài sản = Nguồn vốn chủ sở hữu + Tổng Nợ phải trả
Khi các mối quan hệ cân đối trên không được đảm bảo, KTV nội bộ tiến hành
các soát xét, thử nghiệm, các thủ tục cần thiết để xác minh, tìm nguyên do sự mất cân
bằng đó.
Để xác minh sự mất cân bằng đó, trước hết KTV nội bộ cần phải xem xét lại
bản chất riêng của mối liên hệ. Trong một số trường hợp, do bản thân các quy định,
chế độ về kinh tế nói chung, kế toán nói riêng làm cho quan hệ này không cân bằng
về lượng. Thông thường trong tổ chức quản lý có các đơn vị kế toán cơ sở có liên hệ
dọc theo ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc ngành chuyên sâu quá chặt chẽ về tài chính;
các đơn vị kế toán được phân cấp tài chính không đầy đủ; các đơn vị độc lập trong
một ngành độc quyền mà không có quy định cụ thể về kỹ thuật kế toán tài chính thì
Bảng cân đối tài sản có thể không duy trì được cân bằng về lượng. Trong một số
trường hợp khác, sự mất cân bằng xảy ra do lỗi về xử lý tài chính trong các đơn vị
khó phân định trong việc xử lý các mối liên hệ tài chính, không xử lý triệt để về tài
chính trong các trường hợp tài sản, vật tư có thất thoát hoặc thừa ra trong kiểm kê,
trong kinh doanh… Hoặc sự mất cân đối này chỉ đơn giản là do lỗi của kế toán (do
làm tắt, không xử lý đúng những quan hệ kinh tế mới phát sinh, sai sót khi ghi sổ,
khoá sổ, lập báo cáo quyết toán …)
Dù mối quan hệ cân đối tổng quát có tồn tại hay không, kiểm toán các cân đối
cụ thể vẫn phải đặt ra. Trong cân đối cụ thể, phải dựa vào cân đối giữa số ghi Nợ với
số ghi Có; giữa số đầu kỳ và số tăng kỳ với số cuối kỳ và số giảm trong kỳ của kế
toán kép. Những mối quan hệ này rất nhiều, KTV thường phải chọn mẫu ngẫu nhiên
hoặc mẫu điển hình để kiểm toán, từ đó suy rộng ra cho quần thể mẫu và đưa ra kết

luận.
Phương pháp đối chiếu trực tiếp: là phương pháp đối chiếu một chỉ tiêu trên
các nguồn tài liệu khác nhau. Đối chiều này thường được sử dụng rất rộng rãi trong
trường hợp các chỉ tiêu được hạch toán theo cùng một chuẩn mực, như sau:
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
- Đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu năm, hoặc giữa các kỳ trên Bảng cân đối
tài sản để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với chỉ tiêu đó,
hoặc giữa các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu, phân bố từng quần thể.
- Đối chiếu giữa số dự đoán, định mức, kế hoạch với số thực tế để đánh giá
mức độ phấn đấu thực hiện các mục tiêu thể hiện trên các chỉ tiêu tương ứng.
- Đối chiếu trị số của cùng một chỉ tiêu trong cùng một thời kỳ trên các chứng
từ khác nhau, chẳng hạn, chỉ tiêu lợi nhuận hay lợi nhuận còn lại trên các bảng cân
đối với các sổ tổng hợp, chi tiết.
- Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ nhưng được bảo quản, lưu trữ ở
các địa điểm khác nhau. Loại đối chiếu này được thực hiện phổ biến trong kiểm toán
các giao dịch với ngân hàng, các khoản thu về bán hàng, chi mua hàng.
- Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với trị số của các yếu tố cấu thành nên chỉ
tiêu đó: đối chiếu số lượng, đơn giá với số tiền trong chứng từ gốc, đối chiếu các
khoản mục cấu thành tài sản hoặc nguồn vốn trong Bảng cân đối tài sản…
Phương pháp đối chiếu lôgic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ
tiêu có quan hệ với nhau, xem xét mức độ biến động tương ứng về trị số của các chỉ
tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau và theo các
hướng khác nhau. Chẳng hạn: biến động của lượng hàng tồn kho với biến động của
lượng tiền mặt, tiền gửi hoặc các khoản phải thu, phải trả; sự tăng giảm tài sản với sự
tăng giảm của các khoản tiền vay, đầu tư hoặc chi phí khấu hao, chi phí lắp đặt …
Phương pháp này được sử dung phổ biến trong việc xem xét khái quát các mối quan
hệ kinh tế - tài chính thuộc đối tượng kiểm toán. Từ đó, KTV phát hiện những mâu
thuẫn trong mức và xu hướng biến động của các chỉ tiêu có liên quan.
1.1.5.2 Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ
Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ được sử dụng khi KTV không thu

thập được đầy đủ lượng thông tin cần thiết, đáng tin cậy về nội dung kiểm toán trong
các chứng từ, sổ sách, dữ liệu do hệ thống kế toán cung cấp. Phương pháp này bao
gồm: kiểm kê, thực nghiệm và điều tra.
Phương pháp kiểm kê: là việc kiểm tra tại chỗ các loại tài sản. Đây là phương
pháp đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán. Để đảm bảo sự tồn
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
tại của tài sản được phản ánh đầy đủ, chính xác trên sổ sách, công tác kiểm kê phải
được thực hiện theo đúng quy trình chung từ khâu chuẩn bị đến thực hành và kết thúc
kiểm kê.
- Chuẩn bị kiểm kê phải căn cứ vào mục tiêu, quy mô và thời hạn kiểm kê để
bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác.
- Thực hành kiểm kê phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ vào phiếu
kiểm kê theo từng mã cân hoặc lô hàng … Các phiếu kiểm kê này sẽ trở thành chứng
từ kiểm toán.
- Kết thúc kiểm kê cần có biên bản nêu rõ chênh lệch, nguyên nhân và xử lý
cụ thể. Biên bản được đính kèm với phiếu kiểm kê, bảng kê chênh lệch và kết quả
kiểm kê.
Phương pháp điều tra: là phương pháp dùng các cách khác nhau để tiếp cận
và đánh giá đối tượng kiểm toán. Phương pháp này cũng được sử dụng rộng rãi trong
kiểm toán: thu thập thông tin, tìm hiểu về đối tượng kiểm toán, tiếp cận với các bên
liên quan, dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm và tích luỹ dự liệu, loại dần và thu gọn đối
tượng xác minh cho những vấn đề kiểm toán; xác minh bằng văn bản qua thư xác
nhận của các bên có liên quan; chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm
toán, xác minh làm rõ các vấn đề cần kiểm toán. Để đảm bảo hiệu quả kiểm toán,
điều tra cần được kết hợp với hàng loạt kỹ thuật dự báo, dự đoán cụ thể như chi tiết,
phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hay chọn điển hình …
và cả những kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng có liên quan.
Phương pháp thực nghiệm: là việc tái diễn các hoạt động, nghiệp vụ để xác
minh lại kết quả của một quá trình, một sự việc đã qua. Phương pháp này sử dụng các
thủ pháp kỹ thuật nghiệp vụ để tiến hành các phép thử để nghiên cứu, phân tích từng

yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã diễn ra nhằm xác định một cách
khách quan chất lượng công việc, mức độ chi phí phù hợp. Trong KTNB, sử dụng
phương pháp này có thể tốn kém nhưng đôi khi lại rất cần thiết, nhờ vậy chất lượng
cuộc kiểm toán có thể được đảm bảo.
Nói chung, tuỳ theo điều kiện cụ thể mà KTV nội bộ sẽ sử dụng những
phương pháp kiểm toán thích hợp, có thể sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp các phương
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
pháp với nhau để từ đó đưa ra được những ý kiến đánh giá chính xác về hoạt động
của DN mình.
1.2 Tổ chức Kiểm toán nội bộ
1.2.1 Quy trình kiểm toán nội bộ
Quy trình kiểm toán là trình tự và nội dung cụ thể của các bước công việc của
cuộc KTNB nhằm giúp KTV nội bộ tập hợp được đầy đủ chứng cứ cần thiết để hoàn
thành nhiệm vụ.
Quy trình KTNB được xây dựng hợp lý sẽ là cơ sở để các KTV vận dụng khi
thực hành kiểm toán, là điều kiện cần thiết để cuộc KTNB diễn ra đúng kế hoạch,
tiến độ, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, kinh phí và điều kiện vật chất phục vụ
công tác KTNB. Trong DN, khách thể của KTNB là các bộ phận, các đơn vị thành
viên của DN. Tuỳ theo mục đích, tính chất của từng cuộc kiểm toán mà KTV nội bộ
thực hiện các loại hình kiểm toán khác nhau: kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp
vụ, kiểm toán tuân thủ… hay kết hợp các loại hình kiểm toán với nhau. Mỗi loại hình
kiểm toán khác nhau có nội dung kiểm toán cụ thể khác nhau, nhưng đều tuân theo
một quy trình KTNB chung bao gồm bốn bước: Lập kế hoạch KTNB, thực hành
KTNB, kết thúc KTNB và theo dõi thực hiện sau KTNB.
1.2.1.1 Lập kế hoạch KTNB
Lập kế hoạch KTNB là bước công việc đầu tiên của tổ chức công tác KTNB
nhằm tạo ra tất cả tiền đề và điều kiện cụ thể trước khi thực hành KTNB. Đây là công
việc có ý nghĩa quyết định chất lượng KTNB.
Lập kế hoạch KTNB là việc xây dựng nội dung, thời gian, phạm vi và phương
pháp KTNB trong điều kiện sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính, số lượng và chất

lượng KTV nội bộ để công việc KTNB tiến hành có hiệu quả, đúng thời hạn. Lập kế
hoạch KTNB gồm các bước sau: Lập kế hoạch KTNB năm, thu thập thông tin về bộ
phận được KTNB, lập kế hoạch chi tiết cho từng cuộc KTNB và thiết kế chương
trình KTNB.
Bước 1: Lập kế hoạch KTNB năm
Kế hoạch KTNB năm bao gồm các định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và
phương pháp tiếp cận chung của các cuộc KTNB trong năm. Bản kế hoạch này được
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
lập trên cơ sở đánh giá các thông tin tổng quát về tình hình hoạt động và môi trường
kinh doanh của các bộ phận, các nghiệp vụ trong DN. Bộ phận hay nghiệp vụ nào có
mức độ rủi ro cao hơn sẽ được đưa vào lịch KTNB năm. Bản kế hoạch KTNB năm
giúp KTV nội bộ dự tínhvà tổng hợp được khối lượng công việc cần thực hiện, thời
gian hoàn thành và nhân lực cần thiết đối với các cuộc KTNB trong năm, nó là cơ sở
để lập kế hạoch KTNB chi tiết, là cơ sở chỉ đạo thực hiện và soát xét kết quả các
cuộc KTNB trong năm. Kế hoạch KTNB năm do người phụ trách bộ phận KTNB lập
và trình ban lãnh đạo DN duyệt. Để lập kế hoạch KTNB năm cần phải: - Xác
định mục tiêu KTNB: là xác định những vấn đề cần đạt được sau khi công việc
KTNB trong năm hoàn thành. Mục tiêu này được xác định trên cơ sở yêu cầu của
lãnh đạo DN.
- Xác định nội dung KTNB của năm: là các công việc lớn mà KTNB cần phải
thực hiện theo từng loại hình KTNB của năm.
- Xác định phạm vi KTNB của năm: là giới hạn công việc phải thực hiện theo
trọng tâm của từng nội dung KTNB như xác định số lượng các đơn vị thành viên, các
bộ phận, nghiệp vụ cần phải KTNB, xác định thời kỳ KTNB đối với từng đối tưọng.
- Xác định nhân sự thực hiện KTNB: là xác định số lượng và cơ cấu KTV nội
bộ tham gia thực hiện cuộc KTNB theo nguyên tắc độc lập, khách quan, phù hợp với
sở trường và năng lực của KTV nội bộ.
- Chuẩn bị điều kiện vật chất cơ bản phục vụ công tác KTNB như kinh phí,
các phương tiễn hỗ trợ công tác KTNB, giấy tờ liên hệ công tác, tài liệu làm căn cứ
pháp lý cho cuộc KTNB…

Bước 2: Thu thập thông tin về bộ phận, đơn vị được KTNB
Trong kế hoạch KTNB năm, mục tiêu và phạm vi KTNB đã được xác định.
Để xây dựng kế hoạch chi tiết và thiết kế chương trình KTNB, KTV nội bộ cần phải
tiến hành thu thập thông tin về bộ phận, đơn vị được KTNB, bao gồm:
- Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ hoạt động của bộ phận, đơn vị đó đảm nhiệm; tình
hình phát triển của DN ảnh hưởng đến bộ phận, đơn vị đó; những khó khăn, vướng
mắc và những thuận lợi của bộ phận; mối quan hệ của bộ phận được KTNB với các
bộ phận khác trong DN.
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
- Thông tin về tài chính, kết quả hoạt động và tình hình hoàn thành kế hoạch
SXKD của bộ phận được KTNB.
- Các quy định nội bộ của bộ phận, số lượng, trình độ, khả năng lãnh đạo của
người phụ trách bộ phận…
Để có được các thông tin trên, KTV nội bộ có thể khai thác và thu thập qua
các văn bản pháp lý, các quy định, các kế hoạch và báo cáo có liên quan đến bộ phận
được KTNB, hoặc thông qua việc tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với lãnh đạo và cán bộ
trong bộ phận, quan sát quá trình làm việc thực tế của bộ phận hoặc sử dụng bảng câu
hỏi…
Bước 3: Lập kế hoạch chi tiết cho từng cuộc KTNB
Kế hoạch chi tiết cho từng cuộc KTNB là việc cụ thể hoá kế hoạch KTNB
năm của từng cuộc KTNB góp phần đảm đảo công việc KTNB được thực hiện một
cách hiệu quả, đúng tiến độ. Kế hoạch KTNB chi tiết cơ thể được sửa đổi trong quá
trình thực hiện KTNB nếu có những thay đổi về tình huống hoặc do những kết quả
ngoài dự đoán của các thủ tục KTNB. Nội dung của kế hoạch KTNB chi tiết bao
gồm: - Thông tin chung về bộ phận được KTNB: các mô tả chi tiết về tình hình hoạt
động, đặc điểm SXKD, tổ chức nội bộ, quy định quản lý nội bộ của bộ phận được
kiểm toán.
- Xác định mục tiêu cụ thể của cuộc KTNB: mục tiêu này được xây dựng trên
cơ sở mục tiêu kiểm toán năm và đặc điểm cụ thể của cuộc KTNB.
- Xác định phạm vi, đối tượng cụ thể của cuộc KTNB.

- Xác định nội dung và phương hướng áp dụng các phương pháp kỹ thuật của
KTNB.
- Kế hoạch thời gian của cuộc KTNB: thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc,
thời gian tổng hợp, lập và phát hành báo cáo KTNB.
- Xác định nhân sự: dự kiến nguồn nhân lực, xem xét vấn đề thuê chuyên gia...
cần huy động cho cuộc KTNB.
- Kế hoạch kinh phí và các điều kiện vật chất khác phục vụ cho cuộc KTNB.
Bước 4: Thiết kế chương trình KTNB
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
Chương trình KTNB là toàn bộ những chỉ dẫn cho KTV nội bộ tham gia vào
công việc KTNB về mục tiêu KTNB, nội dung KTNB, lịch trình và phạm vi các thủ
tục KTNB cụ thể, thời gian thực hiện ước tính cho từng phần hành KTNB. Chương
trình KTNB do người phụ trách đoàn KTNB lập trên cơ sở kế hoạch năm và trình
người phụ trách KTNB duyệt. Thiết kế được chương trình KTNB thích hợp sẽ giúp
KTV nội bộ thu thập được đầy đủ bằng chứng với thời gian và chi phí hợp lý. Nội
dung chương trình KTNB bao gồm: - Thông tin chi tiết về đối tượng KTNB cụ thể
- Xác định các tài liệu cần thiết phải thu thập phục vụ cho cuộc KTNB
- Xác định mục tiêu và hướng kiểm toán từng phần hành cụ thể.
- Xác định nội dung, thời gian thực hiện các thủ tục chi tiết đối với công việc
kiểm toán từng phần hành.
- Phân công KTV nội bộ thực hiện các thủ tục phân tích và dự kiến thời gian
hoàn thành.
1.2.1.2 Thực hành KTNB
Thực hành KTNB là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã được ấn
định trong trong kế hoạch, chương trình KTNB. Trong giai đoạn này, các KTV nội bộ
áp dụng các phương pháp kiểm toán để thu thập, đánh giá các bằng chứng KTNB
theo kế hoạch và chương trình đã lập. Khi thực hành KTNB, các KTV nội bộ cần
phải thực hiện các nguyên tắc cơ bản sau:
- Tuyệt đối tuân thủ chương trình KTNB đã được xây dựng, trong mọi trường
hợp, KTV nội bộ không được tự ý thay đổi chương trình.

- Trong quá trình kiểm toán, KTV phải thường xuyên ghi chép những phát
giác, những nhận định về các nghiệp vụ, con số, sự kiện... nhằm tích luỹ bằng chứng,
nhận định cho các kết luận KTNB và loại trừ những ấn tượng, nhận xét ban đầu
không chính xác về nghiệp vụ, các sự kiện thuộc đối tượng kiểm toán.
- Định kỳ tổng hợp các kết quả kiểm toán trên các bảng tổng hợp để nhận rõ
mức độ thực hiện so với khối lượng công việc chung.
- Mọi điều chỉnh về nội dung, phạm vi, trình tự kiểm toán... đều phải có ý kiến
thống nhất của người phụ trách đoàn KTNB.
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
- Kết thúc giai đoạn thực hành KTNB, KTV nội bộ cần thực hiện tập hợp,
chọn lọc, phân loại các bằng chứng KTNB gốc, đánh giá, phân tích, nhận định những
vấn đề thuộc nội dung kTNB để chuẩn bị cho công việc lập biên bản KTNB. Ngoài
ra, KTV nội bộ cần rà soát lại tài liệu KTNB, lưu giữ tài liệu của cuộc KTNB một
cách khoa học và hợp lý để đảm bảo khi tài liệu làm việc được cung cấp cho một cá
nhân khác không tham gia trực tiếp vào cuộc KTNB, cá nhân này vẫn có thể hiểu
được trình tự KTNB và cơ sở của các nhận xét, đánh giá của KTV nội bộ.
1.2.1.3 Kết thúc KTNB
Để kết thúc KTNB, các KTV nội bộ cần phải tổng hợp các thông tin đã thu
thập được để đi đến một kết luận chung, từ đó làm cơ sở lập báo cáo KTNB.
Kết luận KTNB là sự khái quát kết quả thực hiện kiểm tra, xác nhận, đánh giá
thực trạng về đối tượng KTNB trong cuộc KTNB. Kết luận KTNB phải đảm bảo yêu
cầu về nội dung, hình thức và tính pháp lý: Về nội dung, kết luận KTNB phải phù
hợp, đầy đủ và nhất quán với mục tiêu KTNB trong kế hoạch KTNB chi tiết. Về hình
thức, kết luận KTNB phải được diễn đạt chuẩn xác trong từ ngữ và văn phạm. Về
tính pháp lý, kết luận KTNB phải được chứng minh bằng các bằng chứng tương
xứng.
Lập báo cáo KTNB: Báo cáo KTNB là văn bản do KTV nội bộ lập và công bố
để trình bày ý kiến của mình về đối tượng được KTNB, nó là sản phẩm của cuộc
KTNB và có vai trò quan trọng với quá trình quản lý hoạt động của bộ phận được
KTNB.

Sau khi kết thúc cuộc KTNB, KTV nội bộ lập dự thảo báo cáo KTNB để làm
việc trong nhóm, trao đổi và thống nhất nội dung với lãnh đạo của bộ phận được
KTNB, sau đó mới lập báo cáo KTNB chính thức. Một báo cáo KTNB thường bao
gồm nội dung sau: Tiêu đề báo cáo, nơi gửi, đối tượng KTNB, nội dung công việc
KTNB, kết quả KTNB, nhận xét, kiến nghị của KTV nội bộ và ngày giờ lập báo cáo,
chữ ký của người lập báo cáo. Báo cáo KTNB sau khi lập xong được thông qua ban
lãnh đạo DN và các bên liên quan, và được lưu trữ cùng hồ sơ KTNB theo từng cuộc
KTNB.
1.2.1.4 Theo dõi thực hiện kiến nghị sau KTNB
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
Theo dõi thực hiện kiến nghị sau KTNB là công việc tiếp theo sau khi kết thúc
cuộc KTNB để đảm bảo rằng các kiến nghị được thực hiện sau KTNB. Theo dõi thực
hiện kiến nghị sau KTNB phải được thực hiện dưới hình thức kiểm tra thực tế và
kiểm tra trên báo cáo về tình hình thực hiện kiến nghị KTNB do bộ phận được KTNB
lập. KTV nội bộ cần làm biên bản xem xét, đánh giá tình hình thực hiện kiến nghị
KTNB giữa bộ phận được KTNB và đoàn KTNB. Để theo dõi thực hiện kiến nghị
sau KTNB, có thể thành lập đoàn công tác riêng biệt hoặc sử dụng đoàn KTNB được
phân công KTNB trong năm trực tiếp thực hiện.
Nội dung xem xét tình hình thực hiện kiến nghị sau KTNB bao gồm:
- Đánh giá mức độ thực hiện kiến nghị của bộ phận được KTNB: bộ phận
được KTNB đã thực hiện được bao nhiêu kiến nghị, chưa thực hiện được bao nhiêu
kiến nghị, nguyên nhân chưa thực hiện được là do hệ thống kiểm soát nội bộ ở bộ
phận được KTNB hoạt động chưa hiệu quả dẫn đến bộ phận chưa thực hiện được
ngay các kiến nghị hay do cố tình không thực hiện kiến nghị của KTNB, hay do kiến
nghị của KTNB nêu ra không phù hợp với tình hình thực tế của bộ phận…
- Lập báo cáo tình hình thực hiện kiến nghị sau KTNB: báo cáo này được lập
sau khi kết thúc quá trình thưo dõi tình hình thực hiện kiến nghị sau KTNB, báo cáo
cần nêu rõ tình hình thực hiện và các biện pháp xử lý trường hợp không thực hiện
kiến nghị của KTNB.
1.2.2 Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong DN

1.2.2.1 Mô hình tổ chức bộ máy KTNB
Bộ máy KTNB là hệ thống tổ chức của các KTV do DN tự lập ra theo yêu cầu
quản trị nội bộ và thực hiện nền nếp, kỷ cương quản lý. Nhiệm vụ cơ bản của tổ chức
bộ máy KTNB là xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, xác định kiểu liên hệ trong từng
mô hình và mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành hệ thống bộ máy KTNB –
KTV nội bộ.
Để tổ chức và quản lý hoạt động của bộ máy KTNB trong DN, lãnh đạo DN
thiết lập bộ máy KTNB theo các tiêu chí sau:
+ Quy mô của DN
+ Phạm vi hoạt động, mức độ phân tán về địa lý
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
+ Năng lực, trình độ của nhân viên
+ Các lĩnh vực hoạt động của DN
+ Yêu cầu quản lý của DN
Tuỳ theo điều kiện thực tế, mỗi DN sẽ lựa chọn một mô hình tổ chức bộ máy
KTNB khác nhau sao cho phù hợp, một bộ máy KTNB có thể được tổ chức thành
Phòng, ban, nhóm hoặc tổ công tác. Thông thường, bộ máy KTNB được xây dựng
theo các mô hình sau:
Mô hình tập trung: theo mô hình này, DN chỉ tổ chức bộ phận KTNB tại văn
phòng trung tâm, không có KTV hoặc bộ phận KTNB tại các đơn vị trực thuộc. Mô
hình này đảm bảo tính khách quan, độc lập trong công tác kiểm toán nội bộ và thuận
lợi cho việc nâng cao tính chuyên nghiệp của các KTV nội bộ. Tuy nhiên, mô hình
này không đảm bảo được tính nhanh chóng, kịp thời và sâu sát nên chỉ thường được
tổ chức tại các DN có quy mô vừa phải, lĩnh vực hoạt động không quá phức tạp và
trình độ của các KTV nội bộ đáng tin cậy.
Mô hình phân tán: theo mô hình này, DN sẽ tổ chức ngoài bộ phận KTNB tại
văn phòng trung tâm, tại các đơn vị cơ sở trực thuộc sẽ bố trí các KTV nội bộ hoặc
bộ phận KTNB có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm toán giới hạn trong phạm vi các đơn
vị đó. Bộ phận KTNB tại văn phòng trung tâm có nhiệm vụ hướng dẫn và kiểm tra
hoạt động của các KTV nội bộ, các bộ phận KTNB tại các đơn vị cơ sở. Mô hình này

đảm bảo sự nhanh chóng, kịp thời và sâu sát các hoạt động diễn ra tại đơn vị, nhưng
lại không đảm bảo được tính khách quan, chính xác.
Mô hình hỗn hợp: Mô hình này thường được tổ chức tại các DN có quy mô
lớn, lĩnh vực hoạt động phức tạp và phân bố rộng. Theo mô hình này, ngoài bộ phận
KTNB tại văn phòng trung tâm thì DN sẽ tổ chức các bộ phận KTNB nhỏ hơn tại các
đơn vị trực thuộc theo ngành dọc. Các bộ phận KTNB tại các đơn vị trực thuộc là
một phần của bộ phận KTNB của văn phòng trung tâm, chịu sự quản lý và điều hành
của bộ phận KTNB văn phòng trung tâm. Mô hình này vừa đảm bảo được sự nhanh
chóng, kịp thời và sâu sát các phát sinh trong các đơn vị vừa đảm bảo tính khách
quan trong các đánh giá, kiến nghị của báo cáo KTNB.
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
Dù DN tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình nào, DN cũng phải đảm bảo cho
bộ phận KTNB có một vị trí độc lập, hoạt động khách quan, chỉ chịu sự điều hành
của lãnh đạo cao nhất trong DN. Bộ phận KTNB có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Lập kế hoạch KTNB hàng năm và thực hiện các hoạt động KTNB theo kế
hoạch, các chính sách, quy trình và thủ tục KTNB đã được phê duyệt, đảm bảo chất
lượng và hiệu quả kiểm toán.
- Kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với tất cả các
đơn vị, bộ phận, các hoạt động của DN. Thông báo kịp thời cho lãnh đạo Dn biết
những vấn đề có thể ảnh hưởng xấu tới hoạt động của DN và đưa ra những khuyến
nghị thiết thực nhằm ngăn ngừa, khắc phục những vấn đề này.
- Đánh giá và kiến nghị các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót, xử lý
những vi phạm, đề xuất các biện pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ
thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong DN.
- Lập báo cáo kiểm toán nội bộ, thông báo và đệ trình kịp thời các kết quả
kiểm toán nội bộ cho các bên có liên quan theo đúng các chính sách, quy trình, quy
định của DN và pháp luật.
- Đảm bảo chất lượng của công tác KTNB.
- Tuyển dụng, đào tạo và bố trí sử dụng có hiệu quả các KTV nội bộ, phát huy
năng lực và trình độ của các KTV nội bộ phục vụ cho công việc đạt hiệu quả.

Quyền hạn của bộ phận KTNB trong DN:
- Được trang bị đầy đủ các nguồn lực cần thiết, chủ động thực hiện các nhiệm
vụ của mình theo kế hoạch đã được phê duyệt.
- Được cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu, hồ sơ cần thiết cho
công tác KTNB.
- Được tiếp cận, xem xét tất cả các quy trình nghiệp vụ, các tài sản và tiếp cận,
phỏng vấn tất cả các cán bộ, nhân viên trong DN khi thực hiện KTNB.
- Được giám sát, đánh giá, theo dõi các hoạt động sửa chữa, khắc phục, hoàn
thiện của các đơn vị, bộ phận đối với các vấn đề mà KTV nội bộ đã ghi nhận và có
khuyến nghị.
Trách nhiệm của bộ phận KTNB:
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
- Bảo mật tài liệu, thông tin theo đúng quy định pháp luật hiện hành.
- Chịu trách nhiệm trước lãnh đạo DN về kết quả công việc KTNB, về những
đánh giá, kết luận, kiến nghị, đề xuất trong các báo cáo KTNB.
- Theo dõi kết quả thực hiện các kiến nghị sau KTNB của các đơn vị, bộ phận
trong DN.
1.2.2.2 Yêu cầu đối với người làm công tác KTNB
Những nhân viên được phân công thực hiện công tác kiểm toán nội bộ trong
DN được gọi là các KTV nội bộ. Chất lượng KTNB của DN chỉ có thể đảm bảo bởi
những KTV nội bộ có trình độ, năng lực và tư cách đạo đức phù hợp với công việc.
Bộ phận KTNB trong DN có thể được tổ chức thành các phòng, ban hoặc
nhóm, tổ công tác, gồm các trưởng phòng, phó trưởng phòng (nếu có) KTNB, nhóm
trưởng hoặc tổ trưởng tổ KTNB đứng đầu và các KTV nội bộ.
Trưởng bộ phận KTNB là người ký, chịu trách nhiệm trước lãnh đạo DN và
pháp luật về báo cáo KTNB, có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Chủ động xây dựng kế hoạch và lập chương trình KTNB hàng năm trình
lãnh đạo DN phê duyệt.
- Tổ chức các cuộc KTNB trong DN theo nhiệm vụ, kế hoạch đã được phê
duyệt và các cuộc KTNB đột xuất được giao.

- Quản lý, bố trí, phân công công việc cho các KTV nội bộ và thực hiện cá
biện pháp đào tạo, huấn luyện KTV nội bộ, đảm bảo không ngừng nâng cao trình độ
và năng lực công tác của KTV nội bộ và bộ máy KTNB. Đề xuất với lãnh đạo DN về
việc đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với KTV nội bộ.
- Báo cáo lãnh đạo DN khi phát hiện các vấn đề yếu kém, tồn tại, các sai phạm
trong DN, kiến nghị và đề xuất thay đổi về chính sách, đường lối, quy định trong DN
nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và điều hành DN.
- Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị sau KTNB, lập và gửi các báo cáo
KTNB cho lãnh đạo DN và các bên hữu quan.
Đối với các KTV nội bộ thì tuỳ theo lĩnh vực, yêu cầu của DN, hoặc theo pháp
luật có những quy định cụ thể khác nhau, nhưng nhìn chung KTV nội bộ phải là
những người có các tiêu chuẩn sau:
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
- Là người có phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật và sự nhìn
nhận khách quan.
- Có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, về kế toán tài chính, quản trị kinh
doanh.
- Có bằng cấp các chuyên ngành phù hợp, có kiến thức đầy đủ và luôn được
cập nhật về các lĩnh vực được giao thực hiện KTNB.
- Có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin, có kiến thức
và kỹ năng về KTNB. Đồng thời phải đáp ứng được các yêu cầu riêng của DN.
KTV nội bộ do lãnh đạo DN trực tiếp bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị
của trưởng bộ phận KTNB. KTV nội bộ đã bị bãi nhiệm do vi phạm kỷ luật không
được bổ nhiệm lại, KTV nội bộ tuyệt đối không được đảm đương các công việc khác
trong điều hành, quản lý DN. KTV nội bộ có trách nhiệm và quyền hạn sau:
- Thực hiện nhiệm vụ KTNB theo sự phân công của trưởng bộ phận KTNB,
chịu trách nhiệm về chất lượng, tính trung thực và hợp lý của báo cáo kiểm toán nội
bộ trong phần việc mình thực hiện.
- Trong quá trình thực hiện KTNB, KTV nội bộ phải tuân thủ luật pháp, các
nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán, các chính sách, chế độ của Nhà

nước và tuân thủ các thủ tục, quy trình KTNB đã được lập.
- Có quyền yêu cầu các bộ phận, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài
liệu phục vụ cho công tác kiểm toán.
- Được nêu các ý kiến đánh giá, đề xuất kiến nghị giải pháp, các ý kiến tư vấn
cho việc cải tiến, hoàn thiện công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh
doanh của DN.
Trong công việc, KTV nội bộ thì cần phải thực hiện và duy trì các quy tắc đạo
đức nghề nghiệp sau:
- Trung thực: KTV nội bộ phải thực hiện công việc của mình một cách trung
thực, cẩn trọng và có trách nhiệm; tuân thủ pháp luật và thực hiện nội dung công việc
công khai theo quy định của pháp luật và nghề nghiệp; không chủ tâm liên quan đến
bất kỳ hoạt động bất hợp pháp nào, hoặc tham gia những hoạt động gây mất uy tín
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
đối với nghề nghiệp KTV nội bộ hoặc đối với DN; luôn tôn trọng và phấn đấu đóng
góp có hiệu quả cho những mục tiêu chính đáng và hợp pháp của DN.
- Khách quan: KTV nội bộ phải thể hiện tính khách quan nghề nghiệp ở mức
độ cao nhất trong quá trình thu thập, đánh giá và truyền đạt thông tin về hoạt động
hoặc các quy trình, hệ thống đã và đang được kiểm toán. KTV nội bộ cần đưa ra đánh
giá một cách công bằng về tất cả các vấn đề liên quan và không bị ảnh hưởng bởi
quyền lợi riêng, hoặc bởi bất kỳ áp lực nào khi đưa ra nhận xét, đánh giá của mình.
- Bảo mật: KTV nội bộ cần tôn trọng giá trị và quyền sở hữu của thông tin
nhận được, không được tiết lộ thông tin mà không được phép trừ khi có nghĩa vụ
phải tiết lộ thông tin theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm: KTV nội bộ phải luôn có ý thức trách nhiệm cao, phấn đấu học
hỏi, áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng có được để thực hiện công việc
KTNB một cách có hiệu quả.
1.3 Kinh nghiệm tổ chức kiểm toán nội bộ ở Việt Nam và trên thế giới
1.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển KTNB
KTNB là một loại hình của kiểm toán nói chung. Tuy hoạt động kiểm toán đã
xuất hiện từ rất lâu, song khái niệm KTNB thì ra đời muộn hơn rất nhiều. Các yếu tố

của KTNB dù đã có từ lâu trong các DN nhưng mãi đến năm 1940 khi các DN có quy
mô lớn hình thành thì mới xuất hiện khái niệm đầy đủ về KTNB. Từ khi ra đời,
KTNB đã thể hiện vai trò quan trọng trong công tác quản lý, đối với các DN thì
KTNB được coi như một công cụ quản lý hiệu quả, giúp lãnh đạo DN giám sát được
toàn bộ hoạt động của DN mình; đối với cơ quan Nhà nước thì nó giúp kiểm tra,
kiểm soát hiệu quả hoạt động của các đơn vị công.
Cùng với sự lớn mạnh của các DN, tầm quan trọng của KTNB cũng thể hiện
ngày càng rõ rệt hơn. KTNB ra đời trước tiên ở các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển như Mỹ, Pháp; bộ phận KTNB được xây dựng đầu tiên tại các ngân hàng,
các công ty đa quốc gia, các tổ chức thuộc thị trường chứng khoán. Tại một số quốc
gia, cơ quan lập pháp đã sớm đưa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo hành lang
pháp lý để tạo điều kiện cho KTNB hoạt động và phát triển.
䕗䕗䕗䕗䕗䕗䕗 䕗 䕗䕗 䕗䕗✯ 䕗 1 䕗
Tại Mỹ, năm 1941, Viện kiểm toán nội bộ IIA đã ra đời tại Newyork với 25
thành viên để nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng và cấp chứng chỉ cho các KTV nội bộ;
chính phủ Mỹ không can thiệp vào việc xác định bộ máy KTNB của DN và cũng
không bắt buộc đối với các DN, ban lãnh đạo DN dựa vào các chuẩn mực KTNB của
Viện KTNB Mỹ ban hành để thiết lập và vận hành bộ máy KTNB của mình.
Tại Pháp, năm 1960 các chức năng của KTNB đã được định nghĩa khá đầy đủ.
Năm 1965, Pháp thành lập Hội KTV nội bộ, đến năm 1973 trở thành Viện nghiên
cứu của KTV và KTV nội bộ của Pháp; chính phủ Pháp cũng không có bất cứ can
thiệp nào vào việc xây dựng bộ máy KTNB của DN, trong các DN, bộ phận KTNB
chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của lãnh đạo DN.
Tại các nước Châu Á, KTNB ra đời muộn hơn nhiều so với Mỹ và Châu Âu:
nó xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ 20 và đã phát triển khá nhanh. Ở Việt
Nam, KTNB xuất hiện muộn hơn vào năm 1997, khi các Tổng công ty 90, 91 được
hình thành, nhu cầu và điều kiện cần thiết cho việc thiết lập KTNB xuất hiện. Hoạt
động KTNB được chính thức triển khai từ tháng 10/1997 trên cơ sở Nghị định 59/CP
ngày 03/10/1996 của Chính phủ và Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày
28/10/1997 của Bộ tài chính ban hành Quy chế KTNB. Đây là những văn bản pháp lý

đầu tiên làm cơ sở cho các DN nhà nước triển khai KTNB, còn các DN tư nhân thì
chưa bị bắt buộc thực hiện KTNB. Khi nền kinh tế thị trường đã phát triển hơn, nhu
cầu KTNB trở nên rõ rệt hơn tại các DN Việt Nam, chính phủ đã ban hành thêm
Thông tư số 52/TT-BTC ngày 16/4/1998 và Thông tư số 171/TT-BTC ngày
22/12/1998 để hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các quy chế KTNB. Tuy hệ thống
các văn bản về KTNB ở Việt Nam còn chưa được đầy đủ song đó cũng là cơ sở để
KTNB được triển khai thực hiện và phát huy vai trò thực tiễn trong các DN.
Hoạt động KTNB được hình thành do nhu cầu quản lý khách quan của DN và
nó đã phát triển theo ba khía cạnh: KTNB như một tổ chức, KTNB như một chức
năng và KTNB như một nghề nghiệp.
+ Sự phát triển của KTNB như một tổ chức được đánh giá qua ba giai đoạn:
Trong giai đoạn đầu các chức năng của KTNB đã được công nhận rải rác ở vài nơi và
việc kiểm tra do bản thân chủ sở hữu hoặc lãnh đạo DN trực tiếp thực hiện; Giai đoạn

×