Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH SINH THÁI CỦA HỒ BA BỂ VÀ CÁC KHU VỰC LÂN CẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.06 KB, 13 trang )

TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH SINH THÁI CỦA
HỒ BA BỂ VÀ CÁC KHU VỰC LÂN CẬN

1. TIỀM NĂNG VỀ TỰ NHIÊN ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi cao, địa hình bị chi phối bởi những dãy núi
vịng cung quay lưng về phía đông xen lẫn với những thung lũng.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc, phía
Nam giáp Thái Nguyên, phía Bắc giáp Cao Bằng, phía Đơng giáp Lạng Sơn,
phía Tây giáp Tun Quang.
Hồ Ba Bể nằm ở trung tâm vườn quốc gia Ba Bể thuộc đia bàn huyện Ba
Bể,tỉnh Bắc Kạn, cách thị xã 70km về phía Tây Bắc, hồ Ba Bể là một trong
những di tích danh thắng có vẻ đẹp tự nhiên, độc đáo nhất Việt Nam.
Hồ Ba Bể nằm ở độ cao 150m so với mặt nước biển, được bao bọc bởi
những dãy núi đá vôi cao và những cánh rừng già nguyên sinh, nước hồ
trong xanh, quanh năm mát mẻ. Tồn cảnh hồ như một bức tranh thủy mặc.
Hồ có chiều dài hơn 8km, chiều rộng 800m, độ sâu trung bình 20m, trên hồ
có những hịn đảo nhỏ xinh đẹp. Do những cấu tạo địa chất đặc biệt nên hồ
có những nét riêng so với các hồ caxto khác trên thế giới. Vì vậy, năm 1995,
Hội nghị Quốc tế về hồ nước ngọt tổ chức tại Mỹ đã xếp hồ Ba Bể là một
trong 20 hồ nước ngọt tự nhiên đẹp của thế giới cần được bảo vệ. Năm 2012,
hồ Ba Bể được công nhận là danh thắng quốc gia đặc biệt.
Đến với Bắc Kạn chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh thiên
nhiên tuyệt mỹ này, nổi bật lên là Hồ Ba Bể nằm trong hệ tự nhiên của VQG
Ba Bể, đã từng được người xưa gọi là ”Thiên hạ đệ nhất hồ”. Bao bọc quanh
hồ là các vách đá vôi dựng đứng, nhiều cánh rừng nguyên sinh và những

1


dịng sơng, suối chảy ngầm. sự kết hợp hài hịa giữa “Non” và “Nước” đã
tạo ra khung cảnh hữu tình cho VQG Ba Bể, là cơ sở cho phát triển hoạt


động du lịch sinh thái.
Hồ cacxtơ Ba Bể được mệnh danh như “Biển ở trên núi”. Hồ có cấu tạo
khá đặc biệt, thắt ở giữa và phình ra ở hai đầu. Ba Bể gồm 3 hồ lớn thông
nhau là: Pé Lèng, Pé Lù, Pé Lầm, từ đó mà thành tên. Hồ nhận nước từ hai
nguồn chính là sơng Tà Han và sơng Chợ Lèng. Hồ cịn có chức năng phân lũ
cho sông Năng, như một hồ chứa của sông Năng: về mùa khô nước từ hồ đổ
ra sông Năng nhưng về mùa mưa khi có lũ lớn thì nước sơng Năng lại chảy
vào hồ. Chính vì có sự thơng với các dịng sơng mà nước hồ Ba Bể ln ln
vận động khiến cho nước hồ rất sạch và trong xanh.
Được ghi trong Công ước Ramsar là vùng đất ngập nước có tầm quan
trọng thế giới vào năm 2011 và trong Công viên Di sản ASEAN vào năm
2004, vườn quốc gia Ba Bể được coi là một trong những điểm đến du lịch đẹp
và hấp nhất dẫn tại miền Bắc Việt Nam. Về sản phẩm du lịch thế mạnh, hồ Ba
Bể và các khu vực xung quanh có sự kết hợp mạnh mẽ giữa di sản văn hóa
với thiên nhiên và là nhân tố lôi cuốn, hấp dẫn khách du lịch nhất.
Các điểm du lịch thiên nhiên và hấp dẫn chính bao gồm sự hình thành
địa chất địa tầng kỳ vỹ, phong cảnh núi rừng, đa dạng sinh học và khí hậu ơn
hịa. Các khu vực hình thành địa chất địa tầng chính bao gồm hồ Ba Bể, các
dãy núi đá vôi, vách núi đá vôi, hang động đá vôi như động Puông, các điểm
giao giữa sông Năng với vách núi đá vôi, thác Đầu Đẳng, tại khu vực Ao Tiên
và các đảo khác nhau trong đó có đảo An Mã. Các cánh rừng được bảo vệ tốt
nhất gồm khu vực rừng tại Ao Tiên, thác Đầu Đẳng và Hồ Ba Bể/khu vực Cốc
Tộc. Động vật hoang dã chính thu hút du khách là Voọc bạc má (tên khoa
học là: Trachypithecus Francoise)
2. TIỀM NĂNG VỀ NHÂN VĂN ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
2


Các điểm du lịch hấp dẫn về văn hóa/ dân tộc thiểu số và thôn quê
trong khu vực hồ Ba Bể bao gồm văn hóa, trang phục, truyền thống đa dạng

và nghi lễ của ít nhất 6 nhóm dân tộc thiểu số, chủ yếu là dân tộc Tày; nét
kiến trúc truyền thống phong phú bao gồm nhà sàn dài, thức ăn truyền thống
bao gồm nếp cẩm và trà thảo mộc; các lễ hội nhiều sắc màu như Lễ hội Xuân
Ba Bể; trang phục và âm nhạc truyền thông của người Tày và người Dao, tập
quán kiếm sống truyền thống bao gồm canh tác ruộng bậc thang, đánh cá và
chèo thuyền. Các khu định cư của người dân tộc tiềm năng trong tiềm năng du
lịch sinh thái bao gồm các thôn/ bản: Pắc Ngịi, Bó Lù, Lùng Quan, Bản Q,
Cốc Lùng, Cám Hạ, Tà Kèn, Cám Thượng, Bản Tầu, Khuổi Tăng và Khang
Ninh.
Hầu hết các bản làng dân tộc và các điểm du lịch sinh thái trong khu vực
VGQ Ba Bể đều đã kết nối với nhau bằng hệ thống đường bộ, thuyền và
đường mịn. Có nhiều cơ hội để nâng cấp cải thiện hệ thống hạ tầng này. Khu
vực VGQ Ba Bể bao gồm các cơ sở lưu trú cơ bản từ nhà khách của VQG đến
Khách sạn/Nhà nghỉ và Nhà nghỉ sinh thái (đang xây dựng) cho tới dịch vụ
nhà nghỉ cộng đồng. Có cơ hội lớn để nâng cấp, mở rộng và nhân rộng mơ
hình nhà nghỉ cộng đồng đang được cung cấp bản Pắc Ngòi. Khu vực VGQ
Ba Bể hiện đã được biết đến trên cả thị trường du lịch trong nước và quốc tế,
do đó sản phẩm của Hồ Ba Bể có tiềm năng lớn để mở rộng quy mô trên thị
trường và hướng sự chú ý của khách du lịch tới các sản phẩm và các khu lịch
sinh thái mới. Các thành viên cộng đồng dân tộc thiểu số và các bên có liên
quan chủ chốt tại khu vực VGQ Ba Bể bao gồm VQG Ba Bể, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Bắc Kạn đã bắt đầu một số hoạt động du lịch sinh thái
thơn bản tại bản Pắc Ngịi và các bên liên quan chủ chốt có thể phát triển, xúc
tiến và quản lý các sản phẩm du lịch sinh thái một cách hiệu quả và bền vững.
2.1

Thành phần xã hội
3



Huyện Ba Bể (tức Chợ Rã cũ) là một trong những huyện miền núi vùng cao
của tỉnh Bắc Kạn, là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em như tày, nùng,
dao, kinh. Trong đó chiếm tỷ lệ đơng nhất là người tày và người nùng. - Ba
Bể là địa phương có kho tàng văn hóa truyền thống phong phú, đa dạng, mang
đậm bản sắc dân tộc vốn có từ lâu đời. Bằng nhiều hình thức duy trì và phát
triển, hiện nay, nền văn hóa của huyện đã và đang ngày càng khởi sắc, góp
phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống vật chất cũng như văn hóa tinh
thần của người dân trên địa bàn. Bản sắc văn hóa dân tộc là dấu hiệu cơ bản
để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, của địa phương
này với địa phương khác, là các giá trị do lịch sử truyền lại, được các thế hệ
sau kế thừa giữ gìn và phát huy trong thời đại của mình, đó là những tinh hoa
dân tộc được vun đắp qua lịch sử. Huyện Ba Bể là địa phương vùng cao của
tỉnh Bắc Kạn, nơi sinh sống của 6 dân tộc anh, em (Tày, Nùng, Dao, Kinh,
Mông, Hoa). Mỗi đồng bào dân tộc nơi đây đều có một hình thức sinh hoạt
văn hoá tinh thần riêng biệt, bổ sung và hịa quyện với nhau tạo thành bản sắc
văn hóa đa dạng, phong phú, mang đậm hương vị dân gian đặc trưng của
huyện Ba Bể. Để duy trì và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, trong những năm
qua, huyện Ba Bể luôn tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức của
nhân dân trong việc bảo tồn, xây dựng và phát triển những giá trị văn hóa
mới, đặc biệt là phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc thiểu số. Hàng
năm, các cấp, ngành tổ chức nhiều loại hình hoạt động văn hóa (liên hoan,
giao lưu văn nghệ, hội diễn nghệ thuật quần chúng), nhằm khơi dậy, thu hút
các nghệ nhân, diễn viên và các loại hình văn hóa dân tộc tham gia, góp phần
vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Các cấp ủy đảng địa
phương ln chỉ đạo các cơ quan chức năng và cơ sở quan tâm xây dựng gìn
giữ văn hóa dân tộc gắn với sưu tầm, tìm hiểu và phục dựng các lễ hội, các
làn điệu dân ca, dân vũ truyền thống của địa phương, đồng thời mở rộng giao
lưu với các địa phương bạn, nhằm tiếp thu có chọn lọc những nét tinh hoa
4



trong văn hóa truyền thống của các dân tộc, kết hợp với việc đấu tranh chống
các hủ tục lạc hậu, lỗi thời, mê tín, dị đoan. Hiện nay, các giá trị truyền thống
văn hóa của vùng cao huyện Ba Bể đang từng bước được khai thác, khôi phục
và phát huy giá trị, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của các
tầng lớp nhân dân. Nổi bật trong nét văn hóa dân tộc huyện Ba Bể có thể kể
đến là vải thổ cẩm của đồng bào nơi đây. Từ xa xưa, người dân huyện Ba Bể
đã gắn bó với nghề trồng bơng, dệt vải. Phụ nữ các dân tộc ở đây có kinh
nghiệm và kiên nhẫn trong việc kéo sợi, dệt vải, nhuộm chàm và pha màu sợi
thổ cẩm. Đặc biệt, trong gia đình người Tày, rất nhiều các vật dụng trong nhà
được làm từ vải thổ cẩm như áo, túi, chăn, màn… với những nét văn hoa sặc
sỡ mang đậm sắc thái dân tộc. Đến nay, nghề dệt thổ cẩm truyền thống của
đồng bào dân tộc Tày vẫn được duy trì và sản phẩm từ vải thổ cẩm đang là
một trong những nét văn hóa du lịch của địa phương được nhiều khách tham
quan, du lịch ưa thích, lựa chọn. Huyện Ba Bể cũng đang có những chính
sách phát triển, khuyến khích người dân địa phương duy trì và từng bước phát
triển ngành nghề này trở thành sản phẩm du lịch địa phương mang lại hiệu
quả kinh tế. Cịn trong lĩnh vực văn hố tinh thần, cho tới nay, các dân tộc trên
địa bàn huyện Ba Bể vẫn bảo tồn được nhiều yếu tố văn hoá đặc sắc của dân
tộc mình, được thể hiện trong bộ trang phục, như dân tộc Mông, Dao rực rỡ
với họa tiết sắc màu, người Tày, Nùng lại giản dị mang đậm màu chàm của
rừng núi Việt Bắc… Hay trong các hình thức sinh hoạt văn hố, văn nghệ của
mỗi cộng đồng đều mang một âm hưởng riêng, như lễ hội truyền thống (lồng
tồng, hội xuân) của người Tày, Nùng, lễ cầu mùa của dân tộc Dao, các điệu
dân ca hát lượn, đối đáp, tỏ tình, múa khèn, trị chơi dân gian (đua thuyền độc
mộc, chọi bò, võ dân tộc, bắn cung, bắn nỏ…) của người Tày. Hội xuân Ba
Bể là nét văn hóa nổi tiếng và đặc trưng của huyện Ba Bể Trong đó, lễ hội
lồng tồng (xuống đồng) của các dân tộc Tày, Nùng vùng hồ Ba Bể vào dịp
đầu xuân đã trở thành nét văn hóa nổi tiếng trên cả nước. Cứ mỗi dịp đầu
5



xuân năm mới, huyện Ba Bể lại long trọng tổ chức lễ hội lồng tồng tại thơn
Bó Lù, xã Nam Mẫu để cầu mong các vị thần nông, thần linh phù hộ cho mưa
thuận gió hịa, vạn vật sinh sơi nảy nở, mùa màng tốt tươi, muôn dân hạnh
phúc. Trong lễ hội còn diễn ra các hoạt động sinh hoạt văn hố của cộng đồng
với nhiều trị chơi sơi động mang tinh thần thượng võ như tung còn, kéo co,
đấu vật… các món ăn dân gian, truyền thống như bánh trời, mắm tép… Ngồi
ra, cịn có đồng bào Dao với điệu hát màng. Trai gái H’Mông không thể thiếu
điệu múa khèn trong các ngày hội, xuống núi họp chợ. Nam, nữ thanh niên
Tày, Nùng thường hát Sli, hát lượn, đối đáp, tỏ tình… và cịn có cả kho tàng
thơ, ca hết sức phong phú, giàu chất dân gian, hay làn điệu Lượn cọi với sức
truyền cảm mạnh mẽ, là nét văn hóa nổi tiếng ở phía Bắc tỉnh Bắc Kạn. Hiện
nay, huyện có 01 đội văn nghệ tại thơn Pác Ngịi, xã Nam Mẫu chun phục
vụ các đồn khách nước ngồi có nhu cầu thưởng thức các làn điệu dân ca,
dân vũ địa phương. Bên cạnh những nét văn hóa tinh thần đó, nét văn hóa ẩm
thực Ba Bể cũng rất đa dạng, phong phú, mang một hương vị rất riêng. Nhiều
món ăn truyền thống như khấu nhục, thịt treo bếp, tép cá chua… hiện nay vẫn
được người dân duy trì, trở thành món ăn ưa chuộng của nhiều du khách thập
phương. Có thể nói, văn hóa vừa là sản phẩm sáng tạo của con người, vừa là
môi trường nhân tạo để nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của con
người. Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là một yêu cầu cần thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Bởi vậy, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc theo
xu hướng vừa giữ gìn vừa phát huy và vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
là mục tiêu quan trọng luôn được huyện Ba Bể quyết tâm thực hiện trong giai
đoạn hiện nay.
2.1Những lễ hội truyền thống tiêu biểu của tỉnh Bắc Kan
2.1.1 Lễ hội xuân Ba Bể.


6


Lễ hội Xuân Ba Bể được tổ chức tại xã Nam Mẫu huyện Ba Bể, Bắc Kạn vào
ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Đây là Lễ hội truyền thống đầu
năm, thể hiện những nét văn hoá đặc trưng của người dân địa phương. Vào
những ngày này, bà con vừa ăn Tết, vừa chuẩn bị cho ngày hội. Bà con làm
nhiều loại bánh khác nhau từ bột gạo nếp ngâm với các loại lá rừng như bánh
trời, bánh khảo, bánh nếp... rồi đặc sản rượu Khưa Quang cất từ ngô trồng
trên đỉnh núi được chưng cất bằng men lá, uống vào sẽ có cảm giác lâng lâng
như đi trên mây suốt mấy ngày.Vào ngày hội, mỗi xã, thị trấn trong huyện Ba
Bể đều dựng trại và bày bán đủ thứ đặc sản của địa phương mình. Vải thổ
cẩm, quần áo dân tộc, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong, rượu ngơ, măng khơ,
thậm chí cả khoai, sắn, bí ngơ, đỗ mèo dân dã cũng được trang trọng bày ở
bàn giới thiệu đặc sản địa phương.Sáng ngày mùng Mười, lễ hội chính thức
khai mạc. Mở đầu là màn dâng lễ của 16 xã. Lễ vật của các xã chỉ đơn giản có
xơi, gà, nải chuối, bánh khảo và một chai rượu ngô. Mười sáu mâm lễ này
được các thôn nữ kính cẩn dâng lên thần núi, thần sơng, thần hồ để cầu một
năm bình an với mưa thuận gió hồ, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy
nở.Sau tiếng trống khai hội, các tiết mục văn nghệ chào mừng với những câu
sli, điệu lượn, lời then, tiếng tính… làm say lòng du khách bởi sự hấp dẫn kỳ
diệu, đượm bản sắc văn hoá vùng cao. Sau phần lễ là phần hội. Lễ hội năm
nào cũng là nơi phô diễn những bản sắc dân tộc của đồng bào địa phương với
nhiều trò chơi hấp dẫn như: đua thuyền độc mộc, ném còn, đấu võ dân tộc,
bắn cung và biểu diễn múa, hát truyền thống của các dân tộc…, thu hút nhiều
bà con các dân tộc trong vùng đến vui. Lễ hội cũng giúp cho khách thập
phương hiểu thêm về con người và truyền thống văn hố nơi đây. Sơi động
nhất là đua thuyền trên hồ Ba Bể, một trong những trò chơi hấp dẫn thu hút
nhiều người đến xem, đặc biệt là du khách đến tham quan du lịch tại vùng hồ,
người xem vịng trong, vịng ngồi reo hị cổ vũ cho những “vận động viên”

của làng mình, bản mình. Những cô gái dẻo tay trong bộ váy của dân tộc Tày,
7


những chàng trai khỏe tay cùng nhau đua thuyền độc mộc trên hồ, những
chiếc thuyền lao vun vút để lại phía sau dịng nước trắng xóa.Ném cịn cũng
là trị chơi thu hút nhiều nam thanh, nữ tú vì qua trị chơi này họ có thể giao
dun, tìm bạn, nếu nhặt được quả cịn của nhau, họ sẽ có cuộc hẹn hò trong
những ngày Xuân ấm áp. Thế nên mỗi khi mùa lễ hội đến, ở Ba Bể lại có
thêm nhiều đơi nên vợ nên chồng. Người đi trảy hội cịn có thể tham gia các
điệu hát và múa trong điệu nhạc dân tộc du dương trầm bổng.
Đến lễ hội mùa Xn, du khách cịn có thể đi du lịch trên hồ bằng thuyền để
ngắm cảnh hồ, thả mình giữa những rừng cây chen đá, lá chen hoa, đặc biệt là
đi thuyền độc mộc giữa một vùng núi đá mn hình, muôn vẻ. Mặc dù chỉ
diễn ra trong 1 ngày nhưng Lễ hội Xuân Ba Bể đã thu hút hàng vạn du khách
tới tham dự.Mỗi năm phong tục lễ hội càng thêm phong phú nhưng nét truyền
thống vẫn được giữ gìn, đảm bảo bản sắc của các dân tộc miền núi phía Bắc
nói chung và Bắc Kạn nói riêng.
2.2.2 Lễ hội Lồng Tồng
Bắc Kạn là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc có lễ hội Lồng tồng – lễ
hội xuống đồng - một lễ hội truyền thống dân gian tại các thơn bản vào mùa
xn. Khơng khí ngày hội mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện sự tơn
kính với bậc Hiền nhân, người có cơng với dân làng. Hơn hết, đó cũng là dịp
để mọi người được tụ hợp, vui chơi gặp gỡ trong ngày đầu xuân may mắn.
Nhưng để lễ hội Lồng tồng diễn ra theo đúng nghĩa, đúng phong tục xưa kia
thì đó lại là điều khiến cho những người có tâm huyết ngày đêm trăn trở.
Đến bản Phiêng Dường, xã Yên Cư, Chợ Mới, gặp ông Ma Văn Vịnh – một
người cao tuổi am hiểu về phong tục, nghi lễ trong các lễ hội truyền thống của
dân tộc Tày, chúng tôi được nghe ông kể chuyện và bày tỏ sự tiếc nuối khi lễ


8


hội Lồng tồng mỗi năm lại ít đi và mai một dần, nghi lễ diễn ra chỉ mang tính
hình thức.
Ơng Vịnh bồi hồi nhớ lại ngày còn bé, mỗi dịp Tết đến lại được tham gia lễ
hội Lồng tồng đậm đà bản sắc. Những ngày đầu xuân, già trẻ trong bản ai nấy
đều háo hức chuẩn bị cho nghi lễ đặc biệt quan trọng này. Khi biết chúng tơi
muốn tìm hiểu về một lễ hội Lồng Tồng của người Tày xưa, ông Vịnh thao
thao kể như được sống lại trong khơng khí của lễ hội thời trước. Để lễ hội
Lồng Tồng được diễn ra, cơ sở vật chất tổ chức lễ hội Lồng tồng đều do dân
trong thơn đóng góp tạo dựng, bao gồm: Một cái Lườn nghè ( tức miếu thờ
Thành Hồng), có họ tên cụ thể, khoảng 24 mét vuông, dựng trên núi. Dân cử
ra một ông Từ để trực tiếp mo cúng, coi giữ bảo quản Lườn nghè, trống
chiêng, cờ lọng, điều khiển các ngày hội. Nếu ông Từ này xin thôi, thôn sẽ cử
người khác. Trang phục của ông Từ là áo, khăn màu đen dài, rộng không được
dùng mũ áo của các vị Pháp sư thầy then tào. Âm nhạc ngày hội có hai
chiêng, 2 trống to, 3 đến 5 cờ, 2 lọng. Vị trí lễ hội khoảng 3000 mét vuông
ruộng, thời gian lồng tồng chỉ diễn ra trọn một ngày từ sáng tới tối. Các trị
trong ngày hội được diễn ra theo chương trình truyền thống. Người dân trong
thôn cắt cử nhau luyện tập chuẩn bị thể hiện 7 cách đánh trống lễ, hát lượn,
trò chơi sao cho thật đẹp.
Ngày hội đến. Từ sáng sớm đã diễn ra lễ rước Thành Hoàng từ lườn nghè đến
điểm hội, nghe trống hiệu, già trẻ kéo nhau, gồng gánh mâm cỗ đi hội. Ngai
thờ được kê cao một mét cho ông từ bày cỗ thờ. Khu vực trước ngai thờ trải
bốn tấm chiếu. Đây là vị trí ông Từ mo, lạy, điều khiển lễ hội. Hai bên cánh
gà, mâm cỗ của các gia đình, dịng họ trong thôn được bày thành hàng ngang
trên tấm chiếu mang theo gọi là phe Đông, phe Tây, thờ Pá tạo nà, A tạo rẩy
(người làm nên ruộng nương), là tổ tiên con họ đã xây đắp nên thôn bản, sau


9


khi ông Từ mo, lạy, mọi nam nữ trong thôn thực hiện văn hóa lạy Thành
Hồng từng tốp, theo nhịp trống, rất nghiêm trang, cung kính thiêng liêng lên
thần linh. Tiếp theo nam thanh nữ tú hát bài lượn cầu mùa, cầu an, chúc tụng,
múa hát diễn ra suốt ngày.
Cách ngai thờ về phía trước 25-30 mét là sân diễn các trò chơi truyền thống,
quay đu, tung còn, kéo co, bắn nỏ, đánh quay, đánh yến, đi cà kheo, cầu noi,
đu rút... diễn ra nhộn nhịp. Các trò diễn trong lễ hội mỗi năm chỉ một lần, lại
ln có thế hệ người mới lớn tham gia nên không hề nhàm chán.
Mọi người đi dự hội mặc trang phục dân tộc sao cho mình đẹp hơn mọi ngày.
Mọi hoạt động văn hóa, trị chơi, trang phục mâm cỗ được thi đua tự nhiên, tự
giác, trong phạm vi thơn bản vì thế khơng ai muốn gia đình bị kém hơn người.
Xiên lí (người ngồi thơn) đến dự chủ yếu chỉ thưởng thức, học tập để xây
dựng lễ hội ở thơn mình đẹp hơn. Nhờ thế chơi vui hội lồng tồng luôn gắn kết
cộng đồng, chủ khách khơng hề lâm vào tình thế thụ động. Hết ngày hội, theo
quan niệm của dân bản, mâm cỗ của gia đình nào được mọi người ăn hết thì
coi như cả năm gia đình đó được sung túc, ấm no. Ơng Từ làm lễ cầu mùa
bơng vải, tung khẩu phéc (thóc nổ bỏng) mọi người reo hị hứng lấy may rồi
ra về, kết thúc ngày hội, mọi người ra về với niềm kiêu hãnh, để năm sau lễ
Lồng tồng cịn vui hơn thế. Đêm đến, Xiên lí - nam nữ người ngoài xã đến
chơi hội được mời nghỉ lại để hát lượn giao duyên với chúa bản – tìm bạn tình
trong thơn bản, để rồi ngày hơm sau cùng đi chơi hội Lồng tồng ở thơn bản
khác.
Có thể nói, ngày nay, việc khơi phục lễ hội đã hoàn toàn nằm trong tầm tay,
cái cần là người làm văn hóa phải nhận thức được rõ vai trị của văn hóa bản
địa và các gia đình trong thơn cùng góp cơng chung sức xây dựng cơ sở vật
chất lễ hội như xưa để bảo tồn giá trị văn hóa bản sắc.
10



2.3 Hát then – Bắc Cạn

Hát then, Đàn tính - Di sản nghệ thuật truyền thống độc đáo: Là một di sản
nghệ thuật truyền thống độc đáo của các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở các tỉnh
miền núi phía bắc như Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Lạng Sơn….và một số ít
ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, then được lưu giữ, phát triển thành một
khơng gian văn hóa hát then – đàn tính hết sức đồ sộ về khối lượng, phong
phú về thể loại, đa dạng về hình thức biểu diễn. Cùng với sự phát triển của
các tộc người trong quá khứ và hiện tại, then mang dấu ấn nền văn minh nhân
loại. Hát then, đàn Tính - “đặc sản văn hóa dân gian” vùng cao phía Bắc. Trải
qua thời gian, điệu hát Then đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu là
linh hồn trong đời sống văn hóa của bà con nơi đây. Nhưng để điệu hát Then
phát triển đến ngày hôm nay, một phần lớn nhờ cơng của những con người đã
gìn giữ, thổi hồn vào điệu hát Then độc đáo này. Theo quan niệm dân gian,
Then có nghĩa là Thiên, Thiên tức là “trời”, được coi là điệu hát của thần tiên
truyền lại. Chính vì thế, trong đời sống của người Tày cổ, nó được dùng trong
những sự kiện trọng đại hay lễ cầu an, cầu mùa, gọi hồn…Đồng bào Tày quan
niệm, những điệu then giúp gửi lời cầu khấn đến nhà trời. Bắc Kạn cũng là
một trong những nơi nghệ thuật hát then, đàn tính được bảo tồn và phát triển.
Ở mỗi vùng làn điệu Then lại có những nét độc đáo riêng: Then Lạng Sơn dìu
dặt tha thiết, Then Tuyên Quang dồn dập như thúc quân ra trận, Then Hà
Giang nhấn nhá từng tiếng một, Then Bắc Kạn như chuyện kể thầm thì...
Trong hầu hết các trình văn hóa, nghệ thuật quần chúng Bắc Kạn, tiếng đàn
tính, câu hát then là một trong những tiết mục khơng thể thiếu. Nhưng nói đến
việc bảo tồn hát then, đàn tính ở Bắc Kạn thì đầu tiên phải kể đến các nghệ
nhân, như ông Lưu Đình Bạo một nghệ nhân cao tuổi xã Dương Quang, thị xã
Bắc Kạn, người đang giữa một kho tàng Then cổ. Việc lưu truyền loại hình


11


Then bản địa, ông Bạo hiện đã truyền lại cho 2 người con trai trong gia đình
những bài Then cổ truyền thống và đặc sắc nhất, trong gia đình ơng đã 8 đời
theo nghề hát. Hầu hết những bài Then phổ biến mà ơng vẫn thường sử dụng
chính là sản phẩm mà được truyền lại từ thế hệ đi trước. Cán bộ ngành văn
hoá ở tỉnh Bắc Kạn đều biết đến ông Ma Văn Vịnh - người thôn Phiêng
Giường, xã Yên Cư, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, người có cơng gìn giữ
nhiều bài then Tày cổ. Hiện nay, kho tư liệu then của ơng đã có hơn 100 bài.
Trong đó có những bài quý hiếm của lễ Lẩu then (lễ cấp sắc của nhà then),
then Đệ cộ. Ông đã sưu tầm được 36 kiểu hát then, một số bài có thể hát theo
nhiều kiểu. Người già tìm đến Câu lạc bộ then bản Tinh để nói chuyện với
ơng, lũ trẻ trong thơn, bản tìm đến ơng để học đánh đàn tính và hát then. Ơng
Vịnh cịn là một nghệ nhân làm đàn nổi tiếng. Trong hai năm gần đây, ông đã
làm trên 200 cây đàn tính, sản phẩm làm ra không đủ bán. Nhằm lữu giữ và
phát huy nghệ thuật của hát Then, đàn Tính, Sở VH - TT và DL Bắc Kạn đã tổ
chức mời các nghệ nhân hướng dẫn, truyền dạy loại hình nghệ thuật này cho
thế hệ trẻ. Các cấp, ngành và nhân dân Bắc Kạn tiếp tục duy trì nghệ thuật
này khơng chỉ trên sân khấu mà còn diễn trong ngày lễ tết, tổ chức cầu an, cầu
may, chúc thọ… Đồng thời, tỉnh còn gắn hát Then - đàn Tính với làm du lịch,
vừa góp phần nâng cao đời sống tinh thần, giúp đồng bào có cơng ăn việc làm
cải thiện cuộc sống, vừa tăng thêm phần hấp dẫn đối với du khách khi đến với
Bắc Kạn.
3. KẾT LUẬN
Từ những tiềm năng, điều kiện tự nhiên, điều kiện nhân văn và những thế
mạnh ở trên chúng ta hồn tồn có thể phát triển thành cơng sản phẩm du lịch
sinh thái và cộng đồng tại VQG hồ Ba Bể. Cần phát triển và mở rộng mô hình

12



này trên toàn bộ khu vực VQG hồ Ba Bể và các vùng lân cận. Phát triển các
chiến lược xúc tiến quảng bá và kế hoạch hành động đối với du khách trong
nước và khách du lịch quốc tế.
Để phát triển tốt cần xây dựng các chủ đề chính dành cho khách du lịch có thể
bao gồm những chủ đề sau: Du thuyền truyền thống trên một trong những Hồ
tự nhiên đẹp nhất trên thế giới “Hồ Ba Bể”. Ngắm cảnh và thư giãn dọc các
địa tạo kỹ vĩ (động Puông, đảo An Mã, thác Đầu Đẳng, ao Tiên, núi đá vơi và
địa hình…., tại các bản lân cận, hang động và di tích lịch sử. Trải nghiệm nhà
nghỉ cộng đồng của người dân tộc. Đi bộ leo núi,... lựa chọn sản phẩm du lịch
sinh thái và cộng đồng cho hồ Ba Bể và khu vực xung quanh.

13



×