Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Môn Văn hóa dân gian: LỄ HỘI – MỘT SINH HOẠT DÂN GIAN ĐIỂN HÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.61 KB, 27 trang )

VHHDG

VĂN HÓA DÂN GIAN
LỄ HỘI – MỘT SINH HOẠT DÂN GIAN ĐIỂN HÌNH:
Phần 1: Cơ chế hình thành lễ hội
Phần 2: Phân loại lễ hội
Phần 3: Quy trình của lễ hội
Phần 4: Đặc trưng của lễ hội
Phần 5: Các thành tố của lễ hội
Phần 6: Thực trạng và giải pháp bảo tồn lễ hội ở Việt Nam.

Phần 1. CƠ CHẾ HÌNH THÀNH LỄ HỘI
Sự hình thành
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hố, sản phẩm tinh thần của
người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ
hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể
hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tơn vinh những hình tượng thiêng,
được định danh là những vị “Thần” - những người có thật trong lịch sử dân tộc hay
huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của
con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá
vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác
thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối
cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh
phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lịng tri ân cơng đức của các vị thần đối với
dân tộc.
1


VHHDG

Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội


của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.
Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là
quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đồn kết để vượt qua
gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất
và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các
thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý
báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua
tài, giải trí...
Lễ hội là dịp con người được giải tỏa, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh,
mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với ngày mai
tươi sáng hơn.
Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể
là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn
giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quôc tế)
đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dịng họ... chính lễ hội là dịp biểu dương
sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết,
như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài
ngun và lợi ích kinh tế (cơng hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một
lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong
các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là mơi trường
góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng
đồng.
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời
sống tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng 2


VHHDG


chân thiện mỹ - cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tơn thờ, trong đó có niềm
tin tơn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tơn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh,
tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tơn giáo tín ngưỡng. Chính tơn
giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống
tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ
đời sống trần tục, hiện hữu.
PHẦN 2. VỀ PHÂN LOẠI LỄ HỘI HIỆN NAY
Lễ hội ở nước ta đã được đề cập tới từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chỉ trở thành
một đối tượng, một lĩnh vực nghiên cứu sâu vào những năm 80 của TK XX, và
mới tập trung vào lễ hội dân gian truyền thống, chưa có nhiều cơng trình nghiên
cứu sâu lễ hội mới, lễ hội du nhập từ nước ngoài vào.
Đinh Gia Khánh, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian hàng đầu ở nước ta, đã
dành nhiều trí tuệ và tâm huyết nghiên cứu về lễ hội, đã đưa ra quan điểm phân loại
lễ hội dân gian như sau: “Có nhiều cách phân loại hội lễ. Cách phân loại đơn giản
nhất là chia hội lễ thành hội lễ vốn khơng có nguồn gốc tơn giáo và hội lễ có nguồn
gốc tơn giáo. Hội lễ mà nguồn gốc vốn không phải là tôn giáo vốn có từ rất lâu. Thí
dụ như: Hội lễ ngun thủy gắn với nghi thức phồn thực, với sản xuất nông nghiệp.
Hội lễ tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và tôn giáo đã
ra đời (Balamôn giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Do Thái giáo, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo...)”.
Phân biệt lễ hội là vậy nhưng Đinh Gia Khánh khơng qn nhắc nhở: “Nhìn
chung, khi xem xét các hội lễ ngày trước, không thể tách bạch một cách đơn giản
ra hai loại hội lễ là hội lễ hồn tồn khơng chịu ảnh hưởng của tơn giáo và hội lễ
hồn tồn mang tính chất tơn giáo, tuy vẫn có thể, như ở trên đã nêu, phân biệt khá
rõ ràng các hội lễ có nguồn gốc phi tơn giáo với các hội lễ có nguồn gốc tơn giáo”.

3


VHHDG


Tác giả Vĩnh Quang Lê dựa vào đặc điểm không gian tổ chức lễ hội để phân
loại lễ hội dân gian cổ truyền người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ thành 3 loại: Hội
đền, hội đình, hội chùa.
Tác giả Tơn Thất Bình nghiên cứu về lễ hội ở tỉnh Thừa Thiên - Huế đã chia
lễ hội ra 4 loại: Lễ hội tưởng nhớ vị khai canh, thành hoàng làng; lễ hội tưởng niệm
vị tổ sư ngành nghề; lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo; lễ hội theo mùa vụ.
Tác giả Ngô Đức Thịnh đưa ra nhận định chung: “Từ nhiều năm nay, giới
nghiên cứu về lễ hội nước ta, từ nhiều góc độ khác nhau, cố gắng đưa ra một cách
phân loại lễ hội sao cho thỏa đáng nhất. Trước hết người ta căn cứ vào nội dung
phản ánh của lễ hội để chia đây là lễ hội nông nghiệp, kia là lễ hội anh hùng lịch
sử, còn kia nữa là lễ hội tơn giáo, tín ngưỡng... Căn cứ vào phạm vi to nhỏ để phân
đâu là hội làng, hội vùng và hội của cả nước...; rồi lại căn cứ vào thời gian mở hội
để chia ra lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu, hay nơi tổ chức ở chùa, đền hay đình...
Cách phân chia nào cũng có mặt hợp lý, nhưng cũng đều không tránh được những
chồng chéo, bất hợp lý của nó”. Như vậy, việc phân loại lễ hội tùy thuộc vào cách
tiếp cận và tiêu chí đưa ra của mỗi nhà nghiên cứu.

PHẦN 3. QUY TRÌNH CỦA LỄ HỘI.
Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau:
Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị
cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được
tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân
cơng, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công
việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ
tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần...
4


VHHDG


Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế
lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trị vui. Đây là tồn bộ những hoạt động chính
có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với
lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động
trong những ngày này.
Kết thúc hội: Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.
Thời gian mở hội: Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng
mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa
xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội.
Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.
PHẦN 4. ĐẶC TRƯNG CỦA LỄ HỘI.
Tính thiêng: Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một
lý do mang tính "thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã
xuống mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh
hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm
ngày sinh, ngày mất của một người có cơng với làng với nước, ở lĩnh vực này hay
lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có
người trị thủy, có người đánh giặc... ). Song, những người đó bao giờ cũng được
"thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của người dân.
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, khơng chỉ có thể
phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh, làm
nghề, sản xuất, đánh giặc... mà cịn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa
dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống. Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa

5


VHHDG


tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ
những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
Tính "cộng đồng": Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở
thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội
cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc
cả nước.
Tính địa phương: Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất
nhất định. Bởi thế lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương
của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân
dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, khơng chỉ ở nội
dung lễ hội mà cịn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn
tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
Tính cung đình: Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các
lễ hội của người Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa.
Bởi thế những nghi thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu...
đều mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mơ phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang
phục, động tác đi lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy
hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng
lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng
của người dân.
Tính đương đại: Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận
động của lịch sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trị chơi
mới, những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete,
video, tăng âm, micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được
6


VHHDG

thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới. Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần

dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể
là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý...
PHẦN 5.CÁCH THÀNH TỐ CỦA LỄ HỘI.
Nghệ thuật diễn xướng
Có thể nói rằng, tồn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt. Tại sân khấu này, có
ba nhân vật chính. Một nhân vật là ơng Thầy cúng (Thầy Đồng đền ở Đền, Ơng
chủ tế ở đình...) người có khả năng thông qua các Thần linh, sự nhập vai của các
Thần linh (các hiện tượng lên đồng). Nhân vật thứ hai là quần chúng nhân dân,
những tín đồ của tơn giáo hay tín ngưỡng, những người đã có sẵn những cảm xúc
tơn giáo, tín ngưỡng nhạy bén, sẵn sàng tham gia, nhập cuộc vào cuộc trình diễn
này. Nhân vật thứ ba tuy không xuất hiện trên sân khấu, nhưng lại có vai trị rất
quan trọng trong lễ hội, chính nhân vật này tạo ra cảm hứng xuyên suốt cuộc lễ
hội, là động lực của lễ hội. Đó là các Thần linh, đối tượng thờ cúng của các lễ hội.
Nghệ thuật âm nhạc, ca hát và múa
Âm nhạc, ca hát và múa không chỉ xuất hiện ở phần hội. Ngay ở phần lễ, các
loại nghệ thuật biểu diễn này đã có mặt như một yếu tố khơng thể thiếu được, và ở
một số lễ hội, các loại hình nghệ thuật này đã chiếm vai trò chủ đạo. Chẳng hạn, ở
huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, có một loại sinh hoạt ca hát đã trở thành ngày hội
làng. Đó là hội Dô, với loại hát Dô độc đáo. Với các quy định chặt chẽ về lề lối
sinh hoạt, hát Dô là một hình thức hát thờ, hát nghi lễ được tổ chức khá quy củ với
các làn điệu, bài bản phong phú. Loại hình hát nghi lễ cịn khá phổ biến trên khắp
địa bàn vùng đồng bằng Bắc Bộ.

7


VHHDG

Có thể tạm kể ra đây một vài ví dụ về sự tham gia của các nghệ thuật ca múa
nhạc và lễ thức:

Hội trong chùa: Về nghệ thuật ca hát, có các loại hình: đọc, tụng, canh, kệ,
vãn... Trong đó riêng thể loại canh đã có hàng trăm bài bản, hình thức. Về âm nhạc
có chng, khách, mõ (đá hoặc gỗ đồng).
Hội làng: Về nghệ thật ca hát, có các loại hình: đọc văn tế. Về âm nhạc, có
chng, đàn bát âm (phục vụ cho tế). Về múa, có tế, múa Lân, múa Rồng (rước
kiệu). Đặc biệt, ở Triều Khúc, trong hội làng, múa tham gia vào ngay trong lúc
hành lễ với các điệu múa "Con đĩ đánh bồng", "Múa cờ"...
Lễ Hầu Đồng (lễ đền): Về nghệ thuật ca hát, có loại hát Chầu văn (có hát văn
thờ) tham gia vào quá trình hành lễ, hát văn hầu đồng, phục vụ cho các giá đồng.
Về múa, có các loại hình múa lên đồng. Về âm nhạc, có đàn nguyệt, trống chầu,
sênh tiền...
Về thành phần, ca múa nhạc trong Lễ hội truyền thống Việt Nam bao gồm 2
phần chính: Nhạc nghi lễ, và các tổ hợp ca múa.
Nhạc nghi lễ
1. Nhạc thờ cúng (trong gia đình, chùa, điện, miếu) gồm ba loại sau đây: nhạc
tế, nhạc nhà chùa và nhạc điện miếu.
Trong khi làng mở hội, ngồi sân đình có ca hát, vui chơi giải trí, đối đáp giao
duyên như hát ví, hát đúm, hát trống qn, quan họ... thì trong đình có tế thần.
Trong khi tế có dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế đều có nhạc bát âm phụ họa
cùng với chiêng trống. Hiện nay tại Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ, phổ biến một số
bài bản chính cho nhạc bát âm gồm: Lưu Thủy, Ngũ Đối, Kim Tiền...
Trong dàn nhạc bát âm phục vụ cho tế thần, tiếng Kèn dăm (Kèn bóp) chủ
động dẫn nhịp, có tác dụng khá lớn. Bài bản cũng tùy từng địa phương chế tác sử
dụng. Nhưng cần phân biệt rõ Kèn dăm trong dàn nhạc bát âm Tế Thần khác hẳn

8


VHHDG


thứ kèn bóp "Già nam" trong phường nhạc hiếu (nhạc tang ma) và nhất là phi phân
biệt với loại kèn bóp "so na" phục vụ cho Nhạc tuồng
Hiện nay, nhiều nơi dàn nhạc tế đã có vai trị rất quan trọng, như ở Lệ Mật,
Việt Hưng (Gia Lâm, Hà Nội), đội nhạc bát âm cịn xếp đội hình thành các chữ
"Thượng công lưu nhất" rất độc đáo, lại tăng thêm phần ngoạn mục và tinh tế xen
kẽ các tuần tế. Tại Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội), dàn nhạc tế còn phục vụ cho
múa Bồng truyền thống. Vai trò của dàn nhạc bát âm quán xuyến suốt từ đầu tới
cuối buổi tế thần, kết hợp với các tuần đổ hồi chiêng trống.
Trong khi niệm kinh thờ phật, khơng có ca nhạc, chỉ dùng chiêng mõ điểm
xuyết trong các câu kinh kệ. Chỉ tới khi lập đàn chay, chạy đàn... nhà chùa mới sử
dụng toàn thể bộ gõ gồm: trống cái, trống la, thanh la, tiu bộc, với tiết tấu ồn ào sơi
động gây khơng khí náo nhiệt, thành kính cho những người dự lễ, cuốn khúc theo
sư tổ chạy đàn. Trong chùa thờ phật lúc nào cũng cần sự yên tĩnh, trầm tư mặc
tưởng nên từ trước tới nay, ngoài chng mõ khơng dùng nhạc khí nào khác.
Các Điện thường thờ thần. Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, thế gian chia
làm ba giới: Thiên đình, Âm Phủ và Thủy Phủ. Các vị thần chấn thủ ba nơi này
mang các danh hiệu Tứ Đại Thiên Vương, Nhị Thập Bát Tú, Thập Tam Hồng Thái
Tử, Ngũ Vị Vương Quan...Các vị đó có nhiệm vụ che trở cho lồi người chống
hạng u quái quấy nhiễu dương gian. Nhưng muốn đạt tới các vị đó, người đời
phải mượn trung gian là các Đạo sỹ, Phù thủy, ông Đồng Bà Cốt. Rồi từ việc mượn
người trung gian để cầu xin các vị Thần linh phù hộ che chở cho đến việc tự nhận
mình là "Con cơng đệ tử". Từ đó đã hình thành một loại tín ngưỡng rất phức tạp,
trong đó ca nhạc đóng vai trị quan trọng, đó là hát chầu văn. Giai điệu Hát văn
mượt mà, hấp dẫn. Nhịp điệu dồn dập, khỏe mạnh vui tươi. Tới cao trào, bóng
thường hay múa gươm hoặc bơi thuyền. Cung văn phi chuyển sang "nhịp một" sơi
nổi kích động. Trống thanh la gõ rộn ràng và "Hòa khoan" theo làn điệu "Chèo đò"
phù hợp với động tác chèo thuyền của bóng.
9



VHHDG

2. Nhạc rước:
Tiếng trống rước vang rất xa làm náo nức lòng người, thúc dục tới xem hội.
Bộ trống rước gồm một trống cái do hai người khiêng và bộ trống con thường gồm
4 hoặc 6 chiếc. Người đánh trống lớn sau khi đổ hồi, đánh dõng dạc từng tiếng
một, điểm hòa vào bộ trống con. Người đánh trống con đeo trống qua vai, đánh
bằng hai dùi nhỏ theo nhịp bước, theo từng khổ quy định, có trống cái điểm. Rứt
khổ trống cái đổ ba tiếng liền. Theo nhịp trống, dàn nhạc bát âm tấu Lưu ThủyKim Tiền, có tiếng mõ và sênh tiền hòa theo
Nhịp trống rước khoan thai hơn nhịp tiến của bộ trống quân nhạc: đổ vào nhịp
mạnh, rung vào các phần nhịp và nhịp yếu, tiếng trống con kết hợp với tiếng chũm
chọe, sênh tiền, tiu, mõ. Tiếng trống cái đệm vào nhịp yếu từng tiếng một và cắt
khổ trống.
Dàn nhạc bát âm thường gồm có nhị, hồ, nguyệt, sáo, tiêu, mõ, sênh tiền, tiu
bộc và có dùng kèn dăm (kèn bóp). Gần đây cịn thêm đàn tứ và đàn tam.
Hát múa
Lúc ở trong đình đang tế thần, ngồi sân đình cũng tổ chức các cuộc thi hát và
múa, căn cứ đặc điểm của từng địa phương. Trong hội làng tại các cửa Đình, giáo
phường xưa cử các đào và kép đàn trình diễn ca múa nhạc kết hợp với tế Thần và
chúc tụng, mua vui giải trí cho dân làng. Tên hát cửa đình xuất hiện. Hát cửa đình
vừa là hình thức, vừa là phong cách biểu diễn của đào kép, đáp ứng yêu cầu thẩm
mỹ của dân làng trong những ngày hội, ngoài việc phục vụ nghi lễ. Hát Cửa Đình
thường kéo dài cả ngày, cả đêm, có khi kéo dài suốt mấy ngày liền. Cho nên, để
ghi điểm, thường dùng thẻ làm bằng mảnh tre có ghi đấnh dấu, thưởng cho đào
kép. Do đó các đào hát Cửa Đình lĩnh thưởng bằng thẻ gọi là hát thẻ (chữ hán đọc
thẻ là trù), đọc theo chữ hán là ca trù. Danh từ ca trù bắt nguồn từ hát Thờ ở Cửa
Đình. Giáo phường Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội) là nơi lưu giữ được gần như

10



VHHDG

nguyên vẹn di tích và sinh hoạt của giáo phường xưa, duy trì được nền nếp Hát
Cửa Đình.
Ngồi ra cịn một số điệu múa hoặc mơ tả thành tích Thần Hồng làng như
điệu Múa rắn Lệ Mật cứu Cơng chúa nhà Lý, sau di dân sang khai hoang phía tây
thành Thăng Long, thành lập "Thập tam trại", hoặc một việc luyện quân của Phùng
Hưng trước khi về đánh thành Tống Bình, Hà Nội, hoặc chỉ mang cả tính nghệ
thuật lẫn động viên giải trí như Múa Bồng, Múa Đèn, Múa Rồng và phổ cập nhất là
Múa Sư tử.
Hát văn và Hầu đồng
Hát văn và Hầu đồng là những sinh hoạt mang tính tín ngưỡng và văn hóa của
đạo thờ Mẫu của người Việt từ Bắc vào Nam, trong đó có ba trung tâm nổi bật là
Hà Nội, Huế, và Sài Gịn. Cũng như các tín ngưỡng và tơn giáo khác, đạo thờ Mẫu
cũng hình thành nên hệ thống nghi thức thờ cúng và lễ hội của nó. Dân gian ta có
câu: "Tháng tám giỗ Cha, Tháng ba giỗ Mẹ", là để nói hai lần trong năm tiến hành
các nghi thức thờ cúng và lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của đạo thờ Mẫu.
Tháng tám là ngày giỗ Vua cha Ngọc Hồng, Đức Thánh Trần,... Cịn tháng ba giỗ
Mẹ là Mẫu Liễu Hạnh, và các Thánh Mẫu khác của đạo này.
Trong hai dịp "Xuân thu nhị kỳ" như vậy, một trong những lễ thức quan trọng
của lễ hội là Hầu Đồng. Nó được tổ chức ở hầu hết các đền miếu, các Điện Mẫu
trong chùa, trong các Điện Mẫu ở một số nhà riêng các Ông đồng và Bà đồng.
Hầu đồng là một lễ thức đặc trưng và tiêu biểu nhất của tín ngưỡng dân gian
thờ thánh Mẫu của dân tộc Việt. Lên đồng là hình thức nhập hồn tự nguyện và
nhập hồn nhiều lần trong một buổi lễ, trong khung cảnh thờ cúng, âm nhạc và hát
tụng, nhằm mục đích chữa bệnh, tẩy trừ rủi ro, mưu cầu phúc lợi và phán truyền về
định mệnh của con người. Lễ thức này mang tính chất Saman giáo, một hình thức
tôn giáo phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới từ xa xưa còn tồn tại đến ngày nay.


11


VHHDG

Trong mơi trường tín ngưỡng dân gian kể trên đã hình thành và phát triển một
số hình thức diễn xướng Văn hóa - Nghệ thuật dân gian, đó là âm nhạc, hát và
múa. Trong hát văn, lời văn rất phong phú, đa dạng, thuộc loại hình các sáng tác
văn học dân gian và bước đầu mang tính chất của văn học chuyên nghiệp (một số
bài văn chầu, hát văn bước đầu được ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm hay Quốc
ngữ...). Văn chầu là những bài tụng ca thuộc thể văn vần, dưới hình thức thơ song
thất lục bát hay lục bát, nội dung kể sự tích các Thần linh, nhiều lúc mang tính chất
hoang đường quái dị, mà về mặt nào đó, gần gũi với văn học truyền kỳ của Việt
Nam.
Bản thân cái hào hùng, huyền diệu, trữ tình của lời văn chầu không thể hấp
dẫn và lôi cuốn con người nếu như khơng đặt nó vào mơi trường diễn xướng hài
hòa với âm nhạc và nhảy múa. Nhạc chầu văn đã định hình và mang bản sắc riêng,
sinh hoạt âm nhạc có quy định, thể thức nghiêm ngặt về cách thức trình diễn.
Trong âm nhạc hát văn, có qui tụ khá nhiều các hình thức dân ca, nên nó gần gũi
với khá nhiều dân ca ở tiết tấu giai điệu lời ca. Cấu trúc của loại hình âm nhạc này
vừa cân đối, hoàn chỉnh trong từng câu văn, từng làn điệu, nhưng mặt khác âm
nhạc của nó cơ bản vẫn là cấu trúc mở, nghĩa là giai điệu của nó có thể lặp lại để có
thể chứa đựng nội dung lời ca. Hình thức âm nhạc hát văn đến nay vẫn tiếp tục
phát triển về bài bản, làn điệu, cách điệu dàn nhạc... Đặc biệt những thập kỷ gần
đây, hát văn và âm nhạc hát văn đã có bộ phận dần tách ra thành loại hình âm nhạc
và dân ca độc lập, chứa đựng nội dung mới, đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của
con người hiện đại.
Hát, âm nhạc kết hợp với múa, thành loại múa Hầu đồng. Đây là hình thức
múa tơn giáo mà múa và âm nhạc đã tạo ra sự phấn khích đưa con người hợp nhất
với Thần linh, cũng như Thần linh thông qua các động tác nhảy múa của các Ông

đồng, Bà đồng mà tái sinh, sống động lại trong con người.

12


VHHDG

Múa Hầu đồng tiếp thu nhiều hình thức múa dân gian, như múa quạt, múa
kiếm, đao, múa cung, múa nồi... nhưng đã cách điệu để phù hợp với môi trường tín
ngưỡng. Nhìn tổng qt, diễn xướng Hầu Đồng là một hình thức diễn xướng tổng
hợp, một hình thức sân khấu tâm linh. Qua loại hình diễn xướng đặc thù này, người
ta đã có thể tìm hiểu những hình thức ngun sơ của sân khấu dân gian.
Hầu đồng - Hát văn với tính chất là một loại hình sinh hoạt tín ngưỡng- văn
hóa cộng đồng, có nguồn gốc phát sinh từ lâu đời, ít nhất cũng từ thời Lý trở lại
đây. Trong quá trình nảy sinh và phát triển lâu dài ấy, Hát văn - Hầu đồng đã bị chi
phối bởi nhiều khuynh hướng phát triển khác nhau, như lịch sử hóa, địa phương
hóa, tích hợp văn hóa, hiện đại hóa...
Xuất phát từ hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu thơ sơ của cư dân nơng nghiệp,
trong q trình phát triển nó chịu ảnh hưởng của nhiều hình thức tín ngưỡng,
phương thuật dân gian khác (Saman giáo), đặc biệt là Đạo giáo nam Trung Quốc,
để từ đó hình thành nên tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ. Tứ Phủ chịu sự chi phối của
khuynh hướng lịch sử hóa, gắn Thần linh của đạo này với lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Tuy là những Thần linh siêu nhiên, nhưng nó vẫn gần gũi với đời
sống con người, giúp con người vượt qua rủi ro, vận hạn, mang lại cho họ tài lộc
và sức khỏe, gắn với lịch sử dân tộc, đáp ứng nhu cầu của đời sống tinh thần của
người dân, đó là lịng u nước - lịng u nước đã linh thiêng hóa.
Quê hương ra đời của Hát văn và Hầu đồng là đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên,
trong q trình lịch sử, nó theo gót người Việt Nam vào Nam Trung Bộ và Nam
Bộ, hình thành những sắc thái địa phương trong Hát văn và Hầu đồng. Sự khác biệt
về sắc thái này thể hiện ở hệ thống Thần linh, nghi thức thờ cúng, các hình thức âm

nhạc, hát văn và múa...
Khuynh hướng tích hợp văn hóa giữa các dân tộc cũng thể hiện trong hát văn
và hầu đồng, tạo nên một trong những nét độc đáo nhất của hình thức sinh hoạt tín
ngưỡng - tơn giáo này. Xuất phát từ việc trong điện thần Tứ Phủ có một số vị thánh
13


VHHDG

là người dân tộc Mường, Tày, Nùng, Dao, Chăm... nhất là các vị thánh hàng Chầu
bà, nên khi các Ông đồng, Bà đồng hầu các vị thánh đó, thì từ trang phục đến nội
dung văn chầu, các làn điệu bài hát văn, cách thức nhảy múa... đều mang các sắc
thái dân tộc. Thơng qua hiện tượng tích hợp văn hóa này của tín ngưỡng Tứ Phủ, ta
thấy tinh thần bình đẳng, khơng hề có chút kỳ thị dân tộc.
Trị hội
Có thể chia trị hội thành mấy dạng chính:
Thi phẩm vật. Ví dụ: Thi pháo, thi xơi, thi bánh, hoặc có nơi thi lợn béo, trâu
khỏe (trong hội làng).
Thi tài. Ví dụ: Đánh vật, bơi chải, thổi cơm, hát thi, leo cầu tre, đánh cờ, cướp
cầu, kéo co, đấu gậy... (trong đó có những nơi có thi tài một số sự việc liên quan tới
sự tích Thần. Ví dụ: vừa hành qn, vừa thổi cơm).
Trị góp vui. Những trị này làm tăng khơng khí nhộn nhịp cho lễ hội. Rất
phong phú và đa dạng.
Nhiều trị hội khơng chỉ là biểu hiện của sự thơng minh, tài trí, khéo léo và
dũng cảm hoặc tinh thần thượng võ, lòng nhân hay sự yêu đời, nó cịn tốt lên tính
tập thể, tinh thần cố kết cộng đồng và cao hơn nữa cịn gắn bó có tính máu thịt khi
niềm sùng tín cho rằng sự hay dở của trò hội liên quan đến hạnh phúc của cộng
đồng (làng bản) trong năm đó. Trị hội khơng những nghiêm trang mà còn ẩn chứa
sự hồi hộp hệ trọng. Lấy thí dụ, cũng là trị kéo co nhưng ở Thạch Bàn (Gia Lâm,
Hà Nội) trong lễ hội của làng, trò này chia làm hai phe, được gọi là mạn đường và

mạn chợ, trong đó được xem như phần gốc và phần ngọn, nếu phe phần gốc thắng
thì người ta hoan hỉ tin rằng năm đó sẽ đại phúc.
Hội làng cổ truyền người Việt là lễ hội nông nghiệp. Trò chơi là một bộ phận
của lễ hội, nên phải phục vụ cho nội dung của lễ hội. Vì vậy những trò chơi này
được coi là trò chơi phong tục hay nghi lễ. Chẳng hạn như, những cuộc đua thuyền
buổi đầu khơng phải là hoạt động (hoặc là trị chơi) hướng về tinh thần thượng võ
14


VHHDG

mà để thực hiện một nghi lễ với Thủy Thần: Lễ cầu nước. Chỉ có hai thuyền dự
đua được định danh: Một thuyền đực - biểu tượng chim, gắn hình chim ở đầu
thuyền; Một thuyền cái - biểu tượng cá, gắn hình cá ở đầu thuyền; Với ý nghĩa đối
ứng, giao hịa âm/dương; chim (trên cao)/cá (dưới thấp); khơ/ướt và thuyền trơi,
mái chèo khuấy động trong nước với mục đích "đánh thức thủy thần" nhắc- hoặc
cầu - thần đem nước tới đúng vụ làm mùa (như ở Đào xá, Tam Thanh, Vĩnh Phú).
Như cuộc tung cầu - cướp cầu mà ngày nay ta gọi là trị chơi, cũng có một
khởi nguyên nghi lễ cầu mùa nghề nông. Quả cầu bằng gỗ, sơn son, to bằng quả
bưởi tượng trưng cho mặt trời (đỏ, tròn), được thờ trong hậu cung. Vào ngày Hội
làng, người ta rước cầu trình Thánh rồi tung ra sân cho thanh niên hai giáp tranh
cướp trong trò "cướp cầu". Cầu được truyền tay và ném vào hai hố ở hai đầu sân
đình theo hướng đơng - tây. Vậy là quả cầu bay theo hướng đơng tây. Đó là hình
ảnh mơ phỏng sự vận hành của mặt trời ban ngày (đông - tây) và ban đêm (tây đông), theo quan niệm cổ của nhân dân. trò chơi phong tục này cốt thực hiện mục
đích của lễ cầu ánh sáng trong tục thờ Mặt trời của dân cư nông nghiệp ruộng
nước. Đây là trò chơi phổ biến ở Vĩnh Phú, Hà Bắc, Nam Hà...
Ý nghĩa của trò hội:
Thứ nhất, đại diện cho cộng đồng: Những người tham gia thuộc hai bên là đại
diện cho hai nhóm xã hội (giáp - cộng đồng nhỏ trong làng). Lúc này trò chơi là
việc làm trách nhiệm, nghiêm túc, mang tính thiêng của cộng đồng.

Thứ hai, phản ánh tín ngưỡng cổ: Sùng bái giới tự nhiên (Thần Mặt trời, Mặt
trăng) cầu sinh sôi giống loài...
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội
của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội thể hiện
sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ
chung vị thần, có chung mục tiêu đồn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống
ấm no, hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn
15


VHHDG

hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển
giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và
các trị chơi đua tài, giải trí...
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực là khơi dậy lòng yêu quê hương
đất nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức hướng về cội nguồn, hội làng còn tồn tại
một số tập quán lạc hậu, những biểu hiện mê tín, những tệ nạn xã hội. Ở một số
nơi, lễ hội được tổ chức không phải để tôn vinh các giá trị truyền thống mà để kinh
doanh kiếm lời. Họ rào làng, bịt lối, bán vé vào cửa, bán vé vào lễ, gây phiền hà
cho người đến lễ hội, trái ngược hẳn với tục mở rộng vịng tay đón bạn mười
phương về chung vui hội làng thời xưa. Các tệ nạn mê tín dị đoan như: lên đồng,
bói tốn, đội bát nhang, uống nước thánh, đốt vàng mã, cúng tế, rước xách linh
đình kéo dài ngày càng có chiều hướng gia tǎng. Hơn nữa, trong lễ hội đã bắt đầu
xuất hiện các tệ nạn xã hội như: đánh bạc, cá cược, hút thuốc phiện...
Một mùa lễ hội mới đã về trên khắp nẻo làng quê Việt Nam. Chúng ta mong
rằng các lễ hội ở Việt Nam vẫn giữ nguyên sức cuốn hút, hấp dẫn của nó, giảm trừ
các hủ tục, tệ nạn xã hội. Bởi lễ hội là tinh hoa văn hóa Việt Nam, các giá trị văn
hóa của lễ hội được bảo tồn và phát huy chắc chắn gópphần xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nghệ thuật tạo hình và trang trí
Nghệ thuật tạo hình và trang trí tồn tại trong Lễ hội như một yếu tố tất yếu.
Cờ hội với năm sắc ngũ hành - năm màu tương ứng với năm yếu tố cơ bản của vũ
trụ theo quan niệm triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tương phản, gây sự chú ý. Các
loại kiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ tinh vi. Tượng gỗ với cách tạo hình
16


VHHDG

dân gian và truyền thống. Và, trong ngày hội làng, các đội tế với cách ăn mặc đặc
biệt, đã gây ấn tượng đối với người dự hội. Thực ra, trang phục của đội tế, từ chủ tế
đến các thành viên của đội, là sự mô phỏng sắc phục của quan lại khi lâm triều. Đó
cũng là yếu tố tâm lý hấp dẫn đối với những người trong đội tế. Dường như trong
trang phục đó, họ cảm thấy một vinh dự đặc biệt dành cho họ và họ được đứng ở
một vị trí khác hẳn ngày thường. Ở các đền phủ, nghệ thuật trang trí đặc biệt được
coi trọng. Màu sắc và các đồ trang sức của người lên đồng chính là yếu tố quan
trọng để phân biệt các giá đồng. Nếu Cô Bé Thượng Ngàn chỉ dùng trang phục sắc
xanh (miền núi) với các loại trang sức như vòng bạc, hoa tai thường được đồng bào
các dân tộc thiểu số ưa dùng thì Ơng Hồng Mười, một vị quan văn hào hoa, phong
nhã, lại ăn mặc kiểu quan văn... Cách bài trí điện thờ cũng đặc biệt. Khác với chùa
chiền thường trang trí giản dị, gợi cảnh thú nhàn, xa lánh thế tục, các đền phủ ưa
trang hoàng lộng lẫy, rực rỡ gần với cảnh lộng lẫy của các cung điện thế tục. Trong
điện thờ, các vị Thánh được thờ ở một vị trí riêng, vừa phù hợp với thứ bậc của họ
trong hệ thống Thần linh của Đạo Mẫu, vừa phù hợp với tính cách của các vị theo
quan niệm truyền thống.

PHẦN 6. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN LỄ HỘI

TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
1.

Thực trạng.

Những hiệu quả không thể phủ nhận:
Trong những năm qua, công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta đã có
nhiều chuyển biến tích cực, từ tư duy nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã
hội; việc ban hành và thực thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra,
kiểm tra lễ hội cho đến việc phục hồi và phát huy có hiệu quả nhiều lễ hội dân
17


VHHDG

gian, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân
tộc, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Hầu hết các lễ hội quy mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ phạm vi làng, xã đều
được tổ chức các nghi thức cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Chương
trình tham gia phần hội phong phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục
tập quán tốt đẹp của dân tộc theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức
các hoạt động văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ, dân nhạc của
các dân tộc để quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam.
Mặt khác, việc tổ chức lễ hội dân gian đã kết hợp gắn kết các hoạt động văn
hóa, thể thao truyền thống với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất nước, con
người Việt Nam và mỹ tục truyền thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân
tộc ta, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm thức hướng về nguồn cội của cộng đồng.
Đồng thời, các sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp phần giáo dục đạo lý uống
nước nhớ nguồn, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng, làm nên vẻ
đẹp của các công trình tín ngưỡng, tơn giáo.

Do phát huy vai trị chủ thể của người dân hoạt động lễ hội đã được xã hội
hoá rộng rãi, huy động được nguồn lực lớn từ nhân dân, nguồn tài trợ, cung tiến
ngày càng tăng, nguồn thu qua cơng đức, lệ phí, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng
cho trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hố, tổ chức lễ hội đã và đang góp phần
bảo tồn các phong tục, tập quán truyền thống và hoạt động phúc lợi công cộng.
Thông qua lễ hội, đã và đang tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự
là chủ thể của hoạt động lễ hội, chủ động sáng tạo, cùng tham gia tổ chức, đóng
góp sức người sức của cho các lễ hội truyền thống, nâng cao trách nhiệm của tổ
chức cá nhân và cộng đồng trong tham gia hoạt động lễ hội, phù hợp với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước và nhu cầu tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân.
Với tư cách là tài nguyên du lịch nhân văn đặc biệt, bản thân các lễ hội hay
việc tổ chức các lễ hội kết hợp phát triển du lịch là mơ hình mới được hình thành
18


VHHDG

những năm gần đây và đang trên đà phát triển mạnh, đem lại những hiệu quả văn
hóa và kinh tế thiết thực như những đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tại Hội nghị triển khai công tác văn hóa, thể thao và du lịch: “Hoạt động lễ hội đã
thực sự trở thành hoạt động văn hóa du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước và con
người Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”.
Nhờ công tác chỉ đạo quyết liệt của Bộ và sự vào cuộc của các cơ quan
chuyên môn như Thanh tra Bộ, Cục Văn hóa cơ sở, Cục Di sản Văn hóa, Viện Văn
hóa Nghệ thuật Việt Nam, trong mùa lễ hội Xuân 2012 vừa qua, mộ số tồn tại trong
công tác quản lý, tổ chức lễ hội đã có những thay đổi cơ bản như Lễ hội chùa
Hương ( Hà Nội), Đền Trần ( Nam Định). . .
Bốn cảnh báo về tổ chức 1ễ hội cổ truyền hiện nay:
Bên cạnh những điều đáng mừng trên, quan sát bức tranh lễ hội cổ truyền hiện
nay, ta vẫn thấy canh cánh những lo lắng, băn khoăn. Sau một thời gian dài, do

chiến tranh, do quan niệm ấu trĩ, sai lầm của chúng ta, lễ hội mất mát, tiêu điều,
nay phục hưng trở lại, do vậy cũng không tránh được lệch lạc, khiếm khuyết; công
tác tổ chức và quản lý lễ hội đã và đang nảy sinh nhiều bất cập, nhiều hạn chế và
tồn tại. Tình hình đó được phản ánh thường xun, liên tục trên các phương tiện
thông tin đại chúng, tại nhiều hội nghị, hội thảo cho đến cả nghị trường của Quốc
hội, gây khơng ít bức xúc trong xã hội. Có thể khái quát thành bốn hiện tượng đáng
cảnh báo như sau:
Đơn điệu hố lễ hội:
Văn hố nói chung cũng như lễ hội nói riêng, bản chất của nó là đa dạng.
Cùng là lễ hội, nhưng mỗi vùng miền, thậm chí mỗi làng có nét riêng, theo kiểu
người xưa nói “Chiêng làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Hay
người xưa khi nói về những nét riêng của lễ hội từng làng của Xứ Đồi thì đã có
câu ca :
Bơi Đăm, Rước Giá, Hội Thầy
19


VHHDG

Vui thì vui vậy, chẳng tầy rã La
Như vậy, mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập
phương đến với lễ hội làng mình. Tuy nhiên, ngày nay, lễ hội đang đứng trước
nguy cơ nhất thể hoá, đơn điệu hoá, hội làng nào, vùng nào cũng na ná như nhau,
làm thui chột đi tính đa dạng của lễ hội, du khách thập phương sau một vài lần dự
hội thì cảm thấy nhàm chán và khơng cịn hứng thú đi chơi hội nữa.
Trần tục hố lễ hội:
Lễ hội gắn với tín ngưỡng dân gian, do vậy nó thuộc về đời sống tâm linh nó
mang “tính thiêng”. Tất nhiên, tính thiêng là cái vĩnh hằng, nhưng trong mỗi xã hội
nó được biểu hiện ở những hình thức khác nhau. Lễ hội cổ truyền tuy nảy mầm,
bén rễ từ đời sống hiện thực, trần tục, nhưng bản thân nó là sự thăng hoa từ đời

sống hiện thực và trần tục ấy. “Ngôn ngữ” biểu hiện của lễ hội là ngơn ngữ biểu
tượng. Ví dụ, 3 trận đánh giặc Ân của ơng Gióng trong hội Gióng là 3 trận đánh
mang tính biểu trưng. Giặc Ân cũng biểu trưng hố thành yếu tố “âm” của 28 cơ
gái. Để nói vận hành của trời đất liên quan đến canh tác nông nghiệp của người
nơng dân, thì trong hội vật cầu hay hội đánh phết, người xưa đã biểu trưng hoá quả
cầu hay quả phết thành màu đỏ biểu tượng cho mặt trời, được đánh theo hướng
đông tây là chuyển động của mặt trời…
Ngày nay, trong phục hồi và phát triển lễ hội, do chưa nắm được ý nghĩa
thiêng liêng, đặc biệt là cách diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu tượng” của
người xưa, nên lễ hội đang bị trần tục hoá, tức nó khơng cịn giữ được tính thiêng,
tính thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng của lễ hội và như vậy lễ hội khơng cịn là lễ
hội đích thực nữa.
Quan phương hố lễ hội:
Văn hố nói chung, trong đó có sinh hoạt lễ hội là sáng tạo của nhân dân, do
nhân dân và vì dân. Đó là cách thức mà người dân nói lên những mong ước, khát
vọng tâm linh, thoả mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hố của mình. Do vậy,
20


VHHDG

từ bao đời nay, người dân bỏ công sức, tiền của, tâm sức của mình ra để sáng tạo
và duy trì sinh hoạt lễ hội. Đó chính là tính nhân bản, khát vọng dân chủ của người
dân, nó khác với các nghi thức, lễ lạt của triều đình phong kiến trước kia.
Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là
đổi mới lễ hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với du lịch…đây đó
và ở những mức độ khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hoá, áp đặt một
số mơ hình định sẵn, làm cho tính chủ động, sáng tạo của người dân bị suy giảm,
thậm chí họ cịn bị gạt ra ngồi sinh hoạt văn hố mà vốn xưa là của họ, do họ và
vì họ. Chính xu hướng này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phơ trương,

“giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến cho du
khách hiểu sai lệch về nền văn hoá dân tộc.
Thương mại hoá lễ hội:
Cần phân biệt giữa hoạt động mua bán trong lễ hội và việc thương mại hoá lễ
hội. Từ xa xưa, trong lễ hội không thể thiếu việc mua bán các sản phẩm độc đáo
của địa phương, các món ăn đặc sản, mà hội chợ Viềng Ở Nam Định và các hội
chợ vùng núi là hiện tượng điển hình. Chính các hoạt động mua bán đó vừa mang ý
nghĩa văn hố, phong tục “mua may bán rủi”, vừa quảng bá các sản phẩm địa
phương, mang lại những thu nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa phương.
Đó là các hoạt động rất đáng khuyến khích.
Tuy nhiên, cùng với xu hướng phục hồi và phát triển lễ hội hiện nay, thì
khơng ít các hoạt động mang tính “thương mại hố”, lợi dụng lễ hội để thu lợi bất
chính, ép buộc, bắt chẹt người đi trẩy hội, đặc biệt là lợi dụng tín ngưỡng trong lễ
hội để “buôn thần bán thánh” theo kiểu “đặt lễ th”, “khấn vái th”, bói tốn, đặt
các “hịm cơng đức” tràn lan, tạo dựng các “di tích mới” để thu tiền như trong lễ
hội Chùa Hương, Bà Chúa Kho... Cũng khơng phải khơng có một số “tổ chức”
mệnh danh là quản lý lễ hội, hoạt động du lịch để bán vé thu tiền bất chính khách

21


VHHDG

trẩy hội. Những hoạt động thương mại này đi ngược lại tính linh thiêng, văn hố
của lễ hội, đẩy lễ hội rớt xuống mức thấp nhất của đời sống trần tục.
2.

Các giải pháp bảo tồn.

Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng

như hiện nay, xuất hiện hai luồng dư luận trái chiều. Một số cơ quan thông tin đại
chúng cho rằng việc tổ chức lễ hội và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc
văn hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả tai hại và đề xuất các biện pháp mang tính
hành chính như “cấm”, “bỏ”. Thậm chí có người chưa hiểu rõ xu hướng biến đổi
của lễ hội là một yêu cầu khách quan khi chuyển sang cơ chế thị trường nên sốt
ruột đề ra các giải pháp mang tính chất chữa cháy là chính. Hoặc cũng có khuynh
hướng coi nhẹ vai trị quản lý nhà nước, cần để cho người dân tự do làm chủ, tự do
tổ chức lễ hội. Cả hai luồng dư luận như vậy đều khơng đánh giá đúng thực tế. Có
thể tham khảo một số giải pháp sau:
1. Về quan điểm:
Cần nhận thức sự biến đổi của lễ hội cổ truyền cũng như xuất hiện nhiều loại
hình tổ chức sự kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời sống văn hóa hiện
nay. Vì thế khơng nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các nguyên lý tổ chức lễ hội
truyền thống làm khuôn mẫu cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức các sự kiện như
hiện tại. Ở lĩnh vực này cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên cơ sở lý luận
về quản lý văn hóa. Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trị chủ thể của cộng
đồng người dân tổ chức lễ hội. Người dân phải được tham gia các quá trình tổ chức
lễ hội, phải được trao quyền tổ chức lễ hội hiệu quả. Đồng thời cũng không coi nhẹ
việc quản lý của nhà nước đối với lễ hội.
2. Đẩy mạnh nghiên cứu xu hướng biến đổi của 1ễ hội và tổ chức sự kiện
nhằm dự báo sát với thực tiễn của tình hình lễ hội. Trong đó, cũng cần phân loại
các loại hình lễ hội theo chức năng, hoặc theo quy mô lễ hội (như lễ hội cấp thôn
làng, lễ hội vùng, lễ hội liên vùng, liên tỉnh). Trong thực tiễn, nhiều yếu tố tiêu cực,
22


VHHDG

nhiều điểm hạn chế gây tác hại xấu đến đời sống văn hóa là việc khơng quản lý
chặt chẽ loại hình tổ chức sự kiện mới (có nhiều người gọi là lễ hội hiện đại, lễ hội

du lịch, hoặc festival).
Nhiều huyện, nhiều tỉnh đua nhau mở các lễ hội, tổ chức các sự kiện như các
sự kiện kỷ niệm năm chẵn thành lập địa phương, ngành. Tổ chức các festival quảng
bá du lịch, tổ chức các lễ hội đón nhận danh hiệu thi đua khá tốn kém...
Nguyên nhân xuất hiện của các loại hình lễ hội, tổ chức sự kiện mới này có
những yếu tố tích cực và cũng có những yếu tố tiêu cực. Ở các tỉnh, các địa
phương kinh tế du lịch phát triển yêu cầu tổ chức các festival, các sự kiện là một
nhu cầu đúng và cần thiết. Việc tổ chức các sự kiện này thực chất là việc quảng bá
cho du lịch, giới thiệu về du lịch. Nhiều địa phương sau khi tổ chức các sự kiện, du
lịch phát triển rất mạnh, lượng du khách tăng từ 20 - 30% so với trước khi tổ chức
sự kiện. Trong nền kinh tế thị trường, việc tổ chức các sự kiện quảng bá là một yêu
cầu khách quan cần thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố cá nhân (tâm lý thích
“chơi trội”, tâm lý chạy đua “con gà tức nhau tiếng gáy”, tâm lý thích đề cao
những giá trị ảo...) nhiều địa phương đua nhau tổ chức các sự kiện, các lễ kỷ niệm
nhưng lại mang danh lễ hội. Thậm chí có nơi du lịch khơng phát triển nhưng lãnh
đạo tỉnh vẫn tìm mọi cách đề nghị để được tổ chức năm quốc gia du lịch rất tốn
kém. Hậu quả là kết thúc năm quốc gia du lịch cũng khơng phát triển hơn, lượng
khách nước ngồi đến thăm tỉnh đó khơng bằng một phần của lượng du khách đến
một huyện du lịch trọng điểm. Vì vậy, nơn nóng quảng bá, lựa chọn các hình thức
tổ chức sự kiện không phù hợp cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho đời sống
văn hóa. Trước thực trạng này, cần phải quy định rõ về các tiêu chí để tổ chức các
sự kiện lớn (ví dụ tỉnh nào có du lịch phát triển mạnh mới được tổ chức năm du
lịch quốc gia, tỉnh nào có điều kiện cơ sở hạ tầng phù hợp mới được tổ chức các
cuộc liên hoan, festival cho toàn vùng, như tổ chức liên hoan phim, tổ chức festival
khu vực).
23


VHHDG


Đối với loại hình lễ hội mới, tổ chức các sự kiện, festival mới đòi hỏi phải xây
dựng quy chế quản lý riêng, vừa chặt chẽ, khoa học, vừa phù hợp với thực tiễn chứ
không cứng nhắc chủ quan theo ý kiến của nhà quản lý.
3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du 1ịch cần tổng kết thực tiễn, hội thảo tranh thủ
ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học để ban hành bản quy chế quản lý lễ
hội thay cho quy chế quản lý lễ hội năm 2001 đã có nhiều điểm bất cập (có những
yêu cầu cấm nhưng hầu hết các lễ hội vẫn cứ thực hiện, như các dịch vụ gọi hồn,
giải hạn, trừ tà, xem số... Việc đốt đồ mã cũng vậy, hầu hết các lễ hội liên quan đến
tơn giáo tín ngưỡng vẫn đều thực hiện). Vậy những thực trạng này cần được quản
lý ra sao? Ngay về thời gian tổ chức lễ hộỉ, trong quy định của quy chế sẽ không
phù hợp với những lễ hội mang tính chất quảng bá du lịch. Vì hạn chế thời gian đối
với loại hình festival du lịch hoặc tổ chức sự kiện quảng bá du lịch sẽ dẫn đến việc
hạn chế kéo dài thời gian lưu trú của du khách, không phù hợp với lợi ích của nhà
tổ chức. Hiện nay cơ quan quản lý nhà nước đã có một số văn bản mang tính quy
phạm pháp luật như: Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang và lễ hội ban hành theo quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11
năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ hoặc Thơng tư số 04/2011 của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội. Các văn bản này bước đầu đã đề cập những vấn đề quản lý mới
nhưng riêng về lễ hội vẫn còn nhiều yếu tố bất cập, chưa quản lý được các tình
huống, chưa hướng dẫn các chế tài xử phạt hoặc một số điểm cịn bất cập, khơng đi
vào thực tiễn. Cần phân biệt giữa lễ hội cổ truyền đang biến đổi và các loại lễ hội
mới, các sự kiện festival mới hình thành và du nhập để có các quy định quản lý
phù hợp.
4. Về đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy quản lý lễ hội: Hệ thống các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp văn hóa nghệ thuật du lịch các tỉnh cần có
chương trình giảng dạy về việc tổ chức quản lý lễ hội, nhằm đào tạo các cán bộ
24



VHHDG

quản lý văn hóa có trình độ và khả năng quản lý lễ hội, xử lý đúng các tình huống
xảy ra trong công tác quản lý ở địa phương.
Cục Văn hóa cơ sở cần thành lập phịng quản lý lễ hội và tổ chức sự kiện. Các
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đều có tổ hoặc chuyên viên chuyên về quản lý lễ
hội và việc tổ chức các sự kiện.
Kinh nghiệm thực tiễn ở các địa phương đã chỉ rõ vấn đề tổ chức lễ hội thành
công hay không, hạn chế được những tiêu cực hay không đều phụ thuộc phần lớn ở
ban tổ chức. Ban tổ chức lễ hội (và tổ chức các sự kiện) đóng một vai trị rất quan
trọng, khơng thể thiếu được trong tổ chức lễ hội, vì thế dù là lễ hội của thôn làng
cho đến lễ hội quốc gia đều cần phải có ban tổ chức. Tuy nhiên ban tổ chức cũng
cần đề cao vai trị tự quản của người dân, tơn trọng cộng đồng, thu hút được toàn
dân tham gia vào việc tổ chức, quản lý lễ hội. Tránh tình trạng coi việc tổ chức lễ
hội là nhiệm vụ của các cấp chính quyền hoặc nhiệm vụ của ban tổ chức mà quên
mất vai trò chủ chốt của người dân địa phương.
5. Cục Văn hóa cơ sở, Hội Di sản, Hội Văn nghệ Dân gian, Viện Khoa học xã
hội…cần tổ chức nhiều hội thảo khoa học để bàn về quản lý lễ hội hiệu quả. Trong
điều kiện các lễ hội đều có xu hướng biến đổi hoặc thích nghi với đời sống đương
đại hoặc xuất hiện nhiều loại hình mới chưa có trong xã hội truyền thống thì u
cầu nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận về lễ hội là một yêu cầu cấp bách.
Tựu trung, lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa đặc biệt, có sức sống
từ ngàn đời nay, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội. Lễ hội đã đáp ứng
nhu cầu thiết tha của dân tộc ta trong quá khứ và trong hiện tại, giúp cho con người
vượt qua tính vị kỷ cá nhân hướng về đoàn kết cộng đồng, với đầy đủ sự sáng tạo
và nhằm hưởng thụ văn hóa, lễ hội chứa đựng nhiều dấu ấn về bản sắc văn hóa của
dân tộc và điểm tối thượng của lễ hội cổ truyền là hướng con người đến tinh thần
yêu nước.Việc nhận thức, đánh giá đúng lễ hội truyền thống, việc bảo tồn và phát

25



×