Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về công tác cán bộ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện lương tài, tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.21 KB, 58 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
===o0o===

PHẠM KIM TUYẾN

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ VÀO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở HUYỆN LƢƠNG TÀI,
TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
===o0o===

PHẠM KIM TUYẾN

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ VÀO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở HUYỆN LƢƠNG TÀI,
TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


ThS. Vi Thị Lại

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đề tài khóa luận và kết thúc khóa học,với tình cảm chân
thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
2 đã tạo điều kiện cho em có mơi trƣờng học tập tốt trong suốt thời gian em
học tập, nghiên cứu tại trƣờng.
Em xin gửi lời cảm ơn tới cô ThS. Vi Thị Lại đã giúp đỡ em trong suốt
quá trình nghiên cứu và trực tiếp hƣớng dẫn em hồn thành đề tài khóa luận
tốt nghiệp này. Đồng thời em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới thầy cơ trong khoa
Giáo dục chính trị, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá
trình học tập và hồn thành khóa luận tốt nghiệp lần này.
Với điều kiện thời gian và kiến thức của bản thân nên khóa luận khó
tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận đƣợc sự đóng góp từ thầy cơ
và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Phạm Kim Tuyến


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh với đề tài
“Vận dụng tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ vào xây dựng đội
ngũ cán bộ ở huyện Lƣơng Tài, tỉnh Bắc Ninh hiện nay” đƣợc thực hiện dƣới
sự hƣớng dẫn của ThS. Vi Thị Lại. Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên

cứu của riêng cá nhân tơi. Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung
thực và chƣa đƣợc cơng bố trong các cơng trình khác.
Nếu sai, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Phạm Kim Tuyến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ ......... 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 5
1.2. Những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ .... 9
CHƢƠNG 2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở HUYỆN LƢƠNG
TÀI, TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHI MINH . 26
2.1. Những yếu tố ảnh hƣởng đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ........ 26
2.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Lƣơng tài, tỉnh Bắc
Ninh hiện nay .............................................................................................. 29
2.3. Nguyên nhân của thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện
Lƣơng tài, tỉnh Bắc Ninh hiện nay .............................................................. 39
2.4. Một số giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Lƣơng
Tài, tỉnh Bắc Ninh theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh .......................................... 42
KẾT LUẬN .................................................................................................... 50
TÀI LIỆU KHAM KHẢO.............................................................................. 52


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời và sức lực của mình để đấu

tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Ngƣời luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ;
Ngƣời cho rằng "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" và "Muôn việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Đồng thời, Ngƣời khẳng định
“vấn đề cán bộ là một vấn đề trọng yếu, rất cần kíp”. Chính vì vậy, cơng tác
cán bộ có vai trị “then chốt” để có thể hồn thành sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, trong các phong trào
cách mạng, đội ngũ cán bộ ln đóng vai trị quan trọng. Chỉ có đội ngũ “cán
bộ tốt”, đáp ứng đƣợc yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ cách
mạng thì việc xác định đƣờng lối, chính sách mới đúng đắn, cùng với đó là
việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện đƣờng lối, chính sách mới trở thành hiện thực
và cách mạng mới giành đƣợc thắng lợi. Hiện nay, khi đất nƣớc đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vai trò Đảng, của Nhà nƣớc càng cần phải
đƣợc củng cố và phát huy. Muốn vậy, công tác cán bộ của Đảng cần phải
đƣợc xem xét kĩ lƣỡng, nhìn nhận đánh giá khách quan; từ đó, có những biện
phù hợp nhằm nâng cao cơng tác cán bộ. Do đó, cơng tác cán bộ là công tác
mà Đảng và Nhà nƣớc phải đặc biệt quan tâm, thực hiện hiệu quả và triệt để.
Trong những năm gần đây, cán bộ và công tác cán bộ của tỉnh Bắc Ninh
nói chung và huyện Lƣơng tài nói riêng cũng đã đạt đƣợc những chuyển biến
theo hƣớng tích cực về chất lƣợng. Cơng tác tổ chức cán bộ đƣợc quan tâm
bồi dƣỡng , nâng cao, đổi mới và kiện tồn; đội ngũ cán bộ có sự trƣởng
thành rõ rệt, thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với mục đích
lý tƣởng của Đảng và khơng ngừng nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm với
công việc, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phƣơng, của đất

1


nƣớc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc của công tác cán bộ
của huyện Lƣơng Tài cũng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm dẫn

đến sự bất cập, chắp vá và không đồng bộ trong đội ngũ cán bộ nhƣ : Cán bộ
chƣa phát huy đƣợc vai trò thực hiện nhiệm vụ, năng lực chuyên mơn cịn
chƣa cao, thiếu ý thức trách nhiệm làm giảm sút lịng tin của ngƣời dân đối
với Đảng; cơng tác sắp, bố trí, luân chuyển , sử dụng cán bộ còn lúng túng ,
chƣa hợp lý ở một số đơn vị cơ sở . Trƣớc tình hình đó, địi hỏi các cấp ủy
Đảng huyện Lƣơng Tài quán triệt sâu sắc hơn tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về cơng tác cán bộ và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhằm
mang lại hiệu quả thiết thực trong việc xây dựng, nâng cao năng lực, trình độ
học vấn, phẩm chất, phong cách công tác tốt cho đội ngũ cán bộ nhằm đáp
ứng đƣợc yêu cầu ngày càng cao trong thời kỳ đất nƣớc đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa; có sự sắp xếp, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ phù
hợp để có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ cách mạng. Chính từ những lý do
trên, tơi chọn đề tài: “Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở huyện Lƣơng Tài, tỉnh Bắc Ninh hiện
nay” làm khóa luận tốt nghiệp đại học chuyên ngành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ trƣớc đến nay có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về công tác
cán bộ, về vấn đề xây dựng công tác cán bộ theo quan điểm Hồ Chí Minh nhƣ:
n

- Võ Nguyên Giáp ( 2015),
m n

n

on

n

m, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

- Bùi Đình Phong (2006),

ng H Chí Minh về cán bộ và công tác

cán bộ, Nxb.Lao Động, Hà Nội.
- Lại Quốc Khánh (2012), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng
tác cán bộ”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4.
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Thành phố Hồ
Chí Minh (1997), Vận dụn

ng H Chí Minh về vấn ề cán bộ và

2


công tác cán bộ trong sự nghiệp ổi mới hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
- Trần Thị Ngọc (2012), “Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào thực
hiện công tác đào tạo cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Nam Định”, Luận văn
thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã làm rõ tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ, và sự vận dụng tƣ tƣởng đó vào thực tiễn
ở những địa phƣơng khác nhau. Tuy nhiên, chƣa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống việc nghiên cứu và vận dụng quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ vào địa bàn huyện Lƣơng Tài. Vì
vậy, trên cơ sở kế thừa và có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã đƣợc cơng
bố này, tơi hy vọng góp phần khẳng định vai trò và giá trị của tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về cơng tác cán bộ đối với thực tiễn nói chung và xây dựng đội ngũ
cán bộ ở huyện Lƣơng Tài nói riêng để tìm ra những giải pháp nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức các cấp ở huyện Lƣơng Tài đáp ứng với

yêu cầu của thời kỳ đất nƣớc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Nghiên cứu sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
vào nâng cao hiệu quả công tác cán bộ ở huyện Lƣơng Tài - tỉnh Bắc Ninh
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để hồn thành mục đích nghiên cứu đã đƣợc xác định ở trên, khoá luận
cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ nội dung tƣ tƣởng về công tác cán bộ.
- Phân tích , đánh giá thực trạng thực hiện công tác cán bộ ở huyện
Lƣơng Tài - tỉnh Bắc Ninh từ năm 2012-2018

3


- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện công
tác cán bộ ở huyện Lƣơng Tài, tỉnh Bắc Ninh hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những nội dung cơ bản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ; Thực
trạng thực hiện công tác cán bộ của huyện Lƣơng Tài hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung : Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ.
- Về không gian : Thực trạng thực hiện công tác cán bộ ở huyện Lƣơng
Tài, tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: từ năm 2012- năm 2018.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: Phƣơng
pháp lịch sử, lơgíc; phƣơng pháp thu thập, phân tích tài liệu; phƣơng pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê số liệu nghiên cứu; phƣơng pháp nghiên cứu
tác phẩm, văn bản...
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận tốt nghiệp
gồm 2 chƣơng, 6 tiết.

4


CHƢƠNG 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Cán bộ
“Cán bộ” - với tƣ cách là “hiền tài”, ngƣời lãnh đạo, quản lý, điều tiết
công việc của đất nƣớc - là đề tài luôn đƣợc quan tâm, chú trọng. Trong các
triều đại phong kiến, hiền tài đƣợc xem là “nguyên khí quốc gia”, có vai trị
quyết định đến sự tồn vong, thịnh suy của đất nƣớc. Đảng ta, ngay từ khi
thành lập cho đến nay, ln khẳng định vai trị quan trọng của vấn đề cán
bộ và công tác cán bộ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thƣờng
xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ”[5, tr269].
Để hiểu về công tác cán bộ rõ hơn, trƣớc tiên phải hiểu thế nào là cán bộ?
Khái niệm cán bộ có nhiều cách hiểu khác nhau:
Khái niệm “cán bộ” đƣợc sử dụng từ sau thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám, khi chính quyền đã thuộc về tay nhân dân. Đây là thời kỳ Đảng ta
trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nƣớc tiếp tục sự
nghiệp cách mạng vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Dƣới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng chế độ mới, xây dựng

Nhà nƣớc thực sự của dân, do dân và vì dân. Trong hồn cảnh đó, vấn đề cán
bộ và cơng tác cán bộ, theo yêu cầu của thực tiễn đặt ra và đỏi hỏi của quần
chúng nhân dân nhƣ một trong những vấn đề tiên quyết nhất, là “cái gốc”
của công việc, là “công việc gốc” của Đảng.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Cán bộ đƣợc định nghĩa là: 1. Ngƣời làm
cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong các cơ quan nhà nƣớc (nhƣ cán bộ
nhà nƣớc; cán bộ khoa học; cán bộ chính trị). 2. Ngƣời làm cơng tác có chức
vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với ngƣời thƣờng khơng có

5


chức vụ (nhƣ đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ; họp cán bộ và công nhân nhà
máy; làm cán bộ Đồn thanh niên)[22, tr16].
Theo Từ điển Hành chính: “Cán bộ là ngƣời có đủ các điều kiện
đƣợc tuyển dụng vào làm việc ở các cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế do Nhà nƣớc thành lập, tổ chức
lực lƣợng vũ trang; trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách Nhà nƣớc,
có trình độ chun mơn từ trung cấp trở lên. Từ cán bộ đƣợc sử dụng rộng
rãi trong các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây (cán bộ, công nhân). Cán bộ,
công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ đƣợc pháp lệnh và nhân dân bảo
vệ” [4, tr46].
Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức (1998): Tại Điều 2: Cán bộ, công
chức là công bộc của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo
đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực cơng tác để thực hiện tốt nhiệm vụ,
công vụ đƣợc giao [21, tr1].
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là những ngƣời
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc

của mọi cơng việc” [11, tr309].
Có thể hiểu, Cán bộ là những ngƣời làm việc trong các cơ quan, đoàn
thể, lực lƣợng vũ trang. Họ có thể là những đảng viên cộng sản hoặc chƣa
phải đảng viên. Họ có thể giữ những chức vụ nhƣ chỉ huy, phụ trách, quản lý
lãnh đạo hoặc làm công tác nghiệp vụ chuyên môn đơn thuần. Tóm lại, họ là
những ngƣời hoạt động trong thời kỳ cách mạng, kháng chiến, thốt ly, có
hƣởng lƣơng nhằm để phân biệt với nhân dân, là công bộc của nhân dân. Tuy
nhiên, trong các tạp chí, bài viết, tác phẩm, Ngƣời nhấn mạnh nhiều đến
cán bộ, đảng viên trong hàng ngũ của Đảng có nắm giữ chức quyền, những

6


ngƣời chịu trách nhiệm trực tiếp, nặng nề trƣớc nhân dân và toàn dân tộc.
Ngƣời xác định : “Cán bộ là tiền vốn của Đồn thể. Có vốn mới làm ra lãi.
Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là có lãi.
Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [11, tr365].
Nhƣ vậy, từ các quan niệm về cán bộ, công chức nhà nƣớc và theo quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì có thể hiểu khái niệm cán bộ, công chức
nhà nƣớc nhƣ sau: Cán bộ Nhà nƣớc là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà
nƣớc ở các cấp, trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc. Cịn
cơng chức nhà nƣớc là công dân Việt Nam, đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan nhà nƣớc ở các cấp, đƣợc phân loại
theo trình độ đào tạo, ngành chun mơn, vị trí cơng tác trong các cơ quan
Nhà nƣớc, trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc.
1.1.2. Công tác cán bộ
Nhận thức rõ vai trị quan trọng của cán bộ, mà cơng tác cán bộ có vị trí
“then chốt” trong sự nghiệp các mạng của Đảng, của nhà nƣớc. Muốn cán bộ
tốt, làm đƣợc việc, phù hợp thì phải thực hiện tốt công tác cán bộ. Vậy cần

hiểu rõ về công tác cán bộ.
Đầu tiên, công tác là công việc của cơ quan nhà nƣớc hoặc của đoàn thể,
tổ chức xã hội mà một ngƣời phải thực hiện. Từ đó có thể thấy rằng : Công
tác là nhấn mạnh chủ thể mang tính định hƣớng và áp đặt quyền lực khẳng
định tính định hƣớng chủ thể. Khi nói đến cơng tác cán bộ không thể tách rời
giữa trách nhiệm của tổ chức và cả cá nhân ngƣời cán bộ. Công tác cán bộ là
sự rèn luyện phấn đấu của từng cán bộ với tƣ cách là “chủ thể”. Nhƣng cán bộ
là con ngƣời của tổ chức, luôn gắn liền với tổ chức. Chất lƣợng của đội ngũ
cán bộ còn là kết quả tổng hợp đồng bộ của tất cả các khâu lựa chọn, đào tạo,
bồi dƣỡng (huấn luyện), bố trí, sử dụng, đánh giá, cất nhắc, kiểm tra, phê

7


bình… Đảng khơng làm tốt cơng tác cán bộ thì không đủ sức và không xứng
đáng là ngƣời lãnh đạo cách mạng.
Công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ là tổng hợp các biện
pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, đoàn thể trong xây dựng và thực hiện
các tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dƣỡng
cán bộ; luân chuyển cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệmm ... nhằm phát huy
năng lực đội ngũ cán bộ theo hƣớng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sắp xếp hợp lý.
Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, chúng ta khơng tìm thấy khái niệm cơng
tác cán bộ hồn chỉnh. Nhƣng Ngƣời khẳng định: “Cán bộ quyết định mọi
việc... Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tƣ tƣởng đạo đức,
thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí” [13, tr.XIV]. Theo Hồ Chí Minh,
cơng tác cán bộ là q trình thực hiện những vấn đề có liên quan đến cán bộ
đặt ra trong sự nghiệp hoạt động cách mạng. Q trình đó bao gồm các khâu :
Tuyển chọn ; đào tạo, huấn luyện, bồi dƣỡng; sắp xếp, bố trí; thực hiện chính
sách đối với cán bộ. Đồng thời, Ngƣời cũng xác định mỗi khâu có một vị trí,

vai trị khác nhau, việc thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các khâu trên sẽ làm
nên thành công của công tác cán bộ. Ngƣời coi công tác cán bộ là hoạt động
của toàn Đảng, các cơ quan nhà nƣớc và đoàn thể mà trƣớc hết là các cấp ủy
Đảng; nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức - tài, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
của cách mạng, xứng đáng là lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, là ngƣời đầy tớ
thật trung thành của nhân dân.
Hiện nay, chúng ta cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan
trọng và tính chất khó khăn, phức tạp của vấn đề công tác cán bộ; sự cần thiết
phải triển khai chiến lƣợc cán bộ đạt hiệu quả cao nhằm thực hiện công tác
cán bộ nhằm đáp ứng với sự phát triển của đất nƣớc thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

8


1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
1.2.1. Vị trí , vai trị của cơng tác cán bộ
Hồ Chí Minh đã nhận thức đƣợc sâu sắc về vị trí, vai trị của công tác
cán bộ trong sự nghiệp hoạt động cách mạng. Ngƣời đã tỏ rõ quan điểm của
mình trong thƣ gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời
đã rõ ràng: trở về nƣớc, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đƣa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [10, tr 209].
Vì vậy, để có cán bộ đủ đức, đủ tài, đáp ứng đòi hỏi của mỗi giai đoạn cách
mạng, cơng tác cán bộ có vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh khẳng định rằng.:
“Cán bộ là gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng”[11, tr309]. Chất lƣợng của cán bộ tùy thuộc vào cơng tác cán bộ.
Muốn có đội ngũ cán bộ tốt, cán bộ giỏi, thì phải có tổ chức vững mạnh.
Muốn “tạo ra trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”, thì phải chăm
lo tiến hành cơng tác cán bộ. Khi thực hiện tốt công tác cán bộ sẽ tạo điều

kiện để thực hiện các công tác khác của Đảng.
Thực hiện công tác cán bộ, thực chất là việc xây dựng đội ngũ cán bộ
tốt. Ngƣời coi tổ chức và đội ngũ cán bộ rất quan trọng và cần thiết. Đội ngũ
cán bộ và tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cán bộ và đội ngũ cán bộ
là tế bào tạo nên tổ chức. Cán bộ tốt sẽ làm cho tổ chức vững mạnh, trong
sạch. Chất lƣợng cán bộ phụ thuộc vào kết quả tổng hợp các khâu của công
tác cán bộ và sự phấn đấu nỗ lực của từng cán bộ. Công tác cán bộ bao gồm
các khâu: Tuyển chọn; đào tạo, huấn luyện, bồi dƣỡng; đánh giá; sắp xếp, bố
trí; thực hiện chính sách đối với cán bộ đều làm tốt thì nhất định ta sẽ có đội
ngũ cán bộ chất lƣợng tốt. Có tổ chức vững mạnh, thì việc làm tốt cơng tác
cán bộ sẽ hạn chế và sửa chữa những khuyết điểm, giúp đỡ phát huy những
ƣu điểm của cán bộ, nhân sức mạnh của cán bộ lên. Hơn nữa, “lãnh đạo khéo,

9


tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo khơng khéo, tài to cũng hóa thành tài
nhỏ”. Nhƣ vậy, xây dựng đội ngũ “cán bộ tốt”, “cán bộ giỏi” thì chính là hạt
nhân xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ mới, những ngƣời thật sự có đức,
có tài, tạo niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc và
chế độ.
Hơn nữa, thực hiện tốt cơng tác cán bộ có vai trị quan trọng và cần thiết
trong việc củng cố, tăng cƣờng bộ máy của chính quyền, của Đảng. Cán bộ
chính là nhân tố trung tâm của tổ chức, bộ máy hoạt động do đội ngũ cán bộ
vận hành và quyết định hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy đó. Cán bộ
cũng chính là ngƣời đề ra cơ chế, chính sách điều hành bộ máy thực hiện cơ
chế chính sách đó. Vì vậy, khi thực hiện tốt cơng tác cán bộ, có đƣợc đội ngũ
“cán bộ tốt”, “cán bộ giỏi” thì góp phần vào hồn thiện, nâng cao hơn nữa
hiệu quả hoạt động của tổ chức chính quyền, của Đảng.
Tóm lại, cơng tác cán bộ giữ vai trị trọng yếu trong tồn bộ hoạt động

của Đảng. Thực hiện cơng tác cán bộ hiệu quả là sự chủ động tạo ra một đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ mình khi
thật trong sạch, vững mạnh; toàn diện và đồng bộ. Điều này phụ thuộc rất lớn
ở chất lƣợng công tác cán bộ.
Công tác cán bộ có đúng đắn và hiệu quả thì mới hình thành đƣợc đội
ngũ cán bộ giỏi, cán bộ tốt, nhiệm vụ cách mạng đƣợc hồn thành. Vì vậy,
chăm lo cơng tác cán bộ, thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững
mạnh, toàn diện và đồng bộ là vấn đề mấu chốt trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng, là “công việc gốc của Đảng”.
1.2.2. Nội dung của công tác cán bộ
1.2.2.1. Tuyển chọn cán bộ
Tuyển chọn cán bộ là cơ sở để tổ chức xem xét, đồng thời cũng là cơ sở
để lựa chọn từng ngƣời cán bộ có đủ tiêu chuẩn, phù hợp từng thời kỳ hoạt

10


động cách mạng, có nhiệm vụ khác nhau; đồng thời, địi hỏi phải có đội ngũ
cán bộ tốt đáp ứng yêu cầu cách mạng của thời ấy.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá con ngƣời cần phải
dựa vào hai tiêu chuẩn cơ bản, đó là đạo đức và tài năng hay phẩm chất và
năng lực, trong đó đạo đức đƣợc coi là cái gốc.
Tiêu chuẩn về

o ức củ n

i cán bộ

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những phẩm chất đạo đức cần có của
ngƣời cán bộ.

Thứ nhất, cán bộ là ngƣời phải có ý thức dân tộc, suốt đời nguyện hy
sinh phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng quê hƣơng, đất nƣớc, phải biết đặt lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, phải “hết lịng hết
sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gƣơng mẫu
trong mọi việc”[24, tr603].
Thứ hai, cán bộ là ngƣời có bản lĩnh chính trị vững vàng, thực hiện
nghiêm kỷ luật của Đảng, đảm bảo kỷ luật chiến đấu, kỷ luật lao động.
Thứ ba, cán bộ phải kiên trì phấn đấu cho lý tƣởng cách mạng “bại cũng
khơng nản, thắng cũng khơng kiêu”, vƣợt qua những khó khăn thử thách, kiên
quyết hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao với một tâm niệm “quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”; phải “biết thật thà tự phê bình và thành
khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ”.
Thứ tƣ, cán bộ là những ngƣời phải có đạo đức cách mạng, đó là Nhân,
Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm và Ngƣời đã ví: “Đức là gốc của ngƣời cách mạng”,
cũng nhƣ “cây thì phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Ngƣời cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo
đƣợc nhân dân” [11, tr292], làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội
mới đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang, nhƣng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng
nề: “Sức có mạnh mới gánh đƣợc nặng và đi đƣợc xa. Ngƣời cách mạng phải

11


có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hồn thành đƣợc nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang” [15, tr601].
Chính việc tu dƣỡng đạo đức của ngƣời cán bộ là tấm gƣơng sáng cho
quần chúng noi theo. Ngƣời cán bộ có đạo đức cách mạng mới luôn gần gũi
với nhân dân, mới đƣợc dân tín nhiệm và bầu chọn vào các cơ quan lãnh đạo,
cơ quan chính quyền và khi đó mới có điều kiện để cống hiến trí và lực của
mình cho cách mạng, thơng qua trƣờng học quần chúng mà tu dƣỡng phẩm

chất đạo đức, phát triển tài năng của mình.
Ngƣời cán bộ phải có đạo đức cách mạng thì khi làm việc mới trung
thực, thẳng thắn, do vậy mọi công việc mới phát triển đƣợc, cách mạng mới
tiến lên đƣợc.
Ngƣời cán bộ phải có đạo đức cách mạng thì mới quyết tâm phấn đấu
vƣơn lên trong học tập, trong cuộc sống và vƣợt qua những khó khăn thử
thách. Ngƣời cán bộ cách mạng phải “lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ”, mà
“không kèn cựa về mặt hƣởng thụ, không công thần, không quan liêu, không
kiêu ngạo, không hủ hố”. Với tinh thần đó, đạo đức cách mạng là một nguồn
động lực giúp cán bộ vƣợt qua mọi khó khăn cám dỗ trên con đƣờng cách
mạng khơng ít chông gai, thử thách.
Nhƣ vậy, đạo đức cách mạng là đạo đức, phẩm chất của những ngƣời
đấu tranh, cống hiến qn mình vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc. Đó là
những phẩm chất quan trọng hàng đầu của ngƣời cán bộ, đảng viên trong chế
độ mới.
Tiêu chuẩn về

năn

ủ n

i cán bộ

Hồ Chí Minh vừa quan tâm xây dựng đạo đức cách mạng vừa coi trọng
tài năng của ngƣời cán bộ.
Thứ nhất, đó phải là ngƣời cán bộ có khả năng nắm vững những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào

12



hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Ngƣời khẳng định: “Khơng có lý
luận thì lúng túng nhƣ nhắm mắt mà đi” và “thực tiễn khơng có lý luận hƣớng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông” [10, tr 95].
Thứ hai, ngƣời cán bộ phải nắm vững thực tiễn tình hình của đất nƣớc để
đề ra đƣờng lối đúng đắng, phù hợp với hoàn cảnh của đất nƣớc. Các cán bộ ở
địa phƣơng phải nắm rõ về tình hình kinh tế - xã hội ở địa phƣơng mình để
“khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và
kinh nghiệm cách mạng ở các nƣớc, ở trong nƣớc và ở địa phƣơng”[8, 289].
Thứ ba, ngƣời cán bộ phải hiểu đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng, những nhu
cầu của quần chúng nhân dân. Phải "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong
quần chúng" [8, tr 288]. Có hiểu đƣợc tâm tƣ , nguyện vọng của nhân dân thì
ngƣời cán bộ mới thƣơng dân, gần dân và mới đề xuất đƣợc những kế hoạch,
biện pháp giúp nhân dân phát triển về kinh tế - xã hội.
Thứ tƣ, ngƣời cán bộ cần có khả năng tổ chức quần chúng nhân dân, đƣa
đƣờng lối của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc vào cuộc sống, biến chúng thành
hành động của hàng triệu triệu quần chúng. Nếu “cách xa dân chúng, không
liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng nhƣ đứng lơ lửng giữa trời, nhất định
thất bại” [8, tr326].
Thứ năm, ngƣời cán bộ phải có năng lực chun mơn, có khả năng sáng
tạo, giải quyết kịp thời những vấn đề vƣớng mắc nảy sinh. Đó chính là sự
hiểu biết về tự nhiên, khoa học xã hội và nắm vững những quy luật vận động,
phát triển của đất nƣớc.
Thứ sáu, ngƣời cán bộ có khả năng thuyết phục quần chúng một cách
khéo léo, lôi kéo đƣợc mọi tầng lớp trong xã hội tham gia, có khả năng
giáo dục, thuyết phục, giác ngộ, tập hợp quần chúng nhằm xây dựng lực
lƣợng cách mạng và năng lực tổ chức cho quần chúng hành động đúng quy

13



luật của cách mạng. Rõ ràng là tài ở đây không dừng lại ở sự hiểu biết lý
thuyết khoa học mà điều quan trọng hơn là kết quả hoạt động thực tiễn làm
thƣớc đo của tài năng.
Thứ bảy, ngƣời cán bộ phải có khả năng tổng kết thực tiễn để góp
phần bổ sung, phát triển lý luận, làm phong phú lý luận, từng bƣớc làm
sáng tỏ đƣờng lối cách mạng, những chính sách của Đảng, của Nhà nƣớc,
cụ thể hố thành những biện pháp giải quyết phù hợp với đặc điểm, truyền
thống ở địa phƣơng.
Tóm lại, Ngƣời nhấn mạnh đạo đức là gốc của ngƣời cách mạng nhƣng
cũng không coi nhẹ tài năng. Ngƣời cho rằng : Có đức mà khơng có tài làm
việc gì cũng khó. Cịn có tài mà khơng có đức là ngƣời vơ dụng. Với mọi cán
bộ, đảng viên, Ngƣời yêu cầu: Vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn;
nghề nào cũng phải học và phải thông thạo. Những yêu cầu trên đây không
chỉ là căn cứ khoa học, là nội dung của việc xác định tiêu chuẩn cán bộ, mà
còn là điều kiện cơ bản, là “cái gốc” để một con ngƣời có thể trở thành ngƣời
cán bộ của Đảng.
1.2.2.2. Về

o

o, huấn luyện, b

d ỡng cán bộ

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện, bồi
dƣỡng để nâng cao trình độ nhận thức, lý luận cho cán bộ. Vì vậy:
Mục đích đào tạo cán bộ:
Ngƣời khẳng định: “Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có gan làm

việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành cơng” [14, tr320]. Đồng thời,
ngƣời cán bộ phải thấy rằng mục đích quan trọng và cơ bản nhất là:
“Học để làm việc làm ngƣời, làm cán bộ.
Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại.”
Nội dung đào tạo cán bộ:
Huấn luyện mặt lý luận, Hồ Chí Minh viết: “Khơng có lý luận lúng túng
nhƣ nhắm mắt mà đi” [11, tr311]. Có thể thấy, Ngƣời coi lý luận là “trí khơn”,

14


là “ánh sáng”, là “tâm hồn” và tình cảm của mọi cán bộ, đảng viên. Phải dạy
cho cán bộ lý luận thiết thực, có ích. Ngƣời đặc biệt u cầu phải huấn luyện
lý luận Mác - Lênin. Bởi vì chủ nghĩa Mác - Lênin “không những chỉ là cái
"cẩm nan” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi
sáng con đƣờng chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, để đi tới chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản”, “mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận, phải đem lý
luận áp dụng vào công việc thực tế. Đồng thời, phải chữa cái bệnh kém lý
luận, khinh lý luận và lý luận suông”.
Huấn luyện về mặt nghề nghiệp, Hồ Chí Minh cho rằng: “Phải thực hành
khẩu hiệu: Làm việc gì học việc ấy” [11, tr309]. Trong huấn luyện cần phải
hƣớng dẫn cho ngƣời học các nội dung cần học: Điều tra, nắm đƣợc tình tình
có mối liên hệ với cơng tác; nghiên cứu, tìm tịi, học hỏi kỹ những chính sách,
gần gũi và trực tiếp đến nghề nghiệp; tìm hiểu, nắm chắc những kinh nghiệm
thành công và nguyên nhân thất bại của các cơ quan và cán bộ trong ngành
nghề mà ngƣời học đang làm; nắm chắc lịch sử thay đổi của môn học, của
ngành nghề; nghiên cứu sâu sắc lý luận.
Huấn luyện về mặt chính trị. Ngƣời nhấn mạnh “có hai loại là thời sự và
chính sách”[11, tr310]. Làm cho cán bộ nắm chắc đƣợc tình hình thời sự bằng
đọc báo, thảo luận, hội họp, báo cáo thời sự. Cán bộ nào cũng cần phải đƣợc

huấn luyện chính trị, gồm những nghị quyết, chƣơng trình tun ngơn của
Đảng, của Chính phủ. Nhƣng tuỳ theo mơn học mà nội dung huấn luyện chính
trị nhiều ít phù hợp khác nhau.
Về mặt văn hóa. Hồ Chí Minh khẳng định; “với những cán bộ cịn kém
văn hố, thì việc huấn luyện này rất trọng yếu”[11, tr311]. Nếu khơng nắm
chắc đƣợc những kiến thức thơng thƣờng, thì gặp nhiều rào cản khi nghiên
cứu lý luận hoặc học tập chuyên môn nghề nghiệp. Điều đặc biệt cần lƣu ý là
“phải theo trình độ văn hố cao hay thấp mà đặt lớp, chứ không theo cấp bậc
cán bộ cao hay thấp”. Muốn đạt đƣợc những điều ấy cần phải có phƣơng pháp

15


tốt và ngƣời học phải xác định rõ mục đích của việc học và nhất là phải:
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tƣ”.
Phƣơng pháp đào tạo cán bộ: Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tuỳ theo
điều kiện mà dùng phƣơng pháp đào tạo cho phù hợp. Dù ở mức độ nào thì
ngƣời học cũng phải đạt yêu cầu cơ bản là phải hiểu và nắm chắc đƣợc vấn đề
để xử lý với việc.Trên cơ sở đó mà liên hệ đến thực tiễn, suy ngẫm và đề ra
cách giải quyết, tổng kết khái quát những vấn đề của thực tiễn.
Trong những cách thức học tập cụ thể, Ngƣời rất chú ý đến cách tự
nghiên cứu, thảo luận. Phát huy cách thức này sẽ làm cho ngƣời học say mê
đọc, học hỏi, tự do tƣ tƣởng trong thảo luận. Trong bài “Nói về cơng tác huấn
luyện và học tập” (tháng 5/1950), Ngƣời chỉ rõ: Huấn luyện phải “thiết thực,
chu đáo hơn nhiều”, “huấn luyện từ dƣới lên”, “phải gắn liền với công tác
thực tế”, “phải nhằm đúng yêu cầu”, “phải chú trọng việc cải tạo tƣ tƣởng”.
Nhƣ vậy, Ngƣời không chỉ nhấn mạnh đến nội dung đào tạo một cách
toàn diện mà quan trọng hơn là phải có phƣơng pháp phù hợp để nâng cao tri
thức, năng lực thực tiễn; biến quá trình đào tạo, bồi dƣỡng thành quá trình tự
đào tạo, bồi dƣỡng. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác đào tạo

cán bộ khơng những có ý nghĩa lịch sử mà cịn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là
nền tảng, kim chỉ nam cho công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ của Đảng ta
hiện nay.
1.2.2.3. Về

n

n bộ

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng các quan điểm sau:
Cần phải tiến hành thƣờng xuyên
Đánh giá đúng cán bộ sẽ giúp việc bố trí, sử dụng đúng đắn đội ngũ cán
bộ, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng. Đồng thời, giúp Đảng phát
hiện và phân biệt chính xác thực chất đội ngũ cán bộ để có thể phát huy hết
khả năng của họ. Việc ánh giá đúng cán bộ còn giúp ngƣời cán bộ “thấy rõ

16


mình” để tự hồn thiện, vƣơn lên. Đánh giá cán bộ thƣờng xuyên giúp cho tổ
chức nắm chắc đội ngũ cán bộ để có chính sách và biện pháp thích hợp; đồng
thời tạo tâm lý an tâm cho đội ngũ cán bộ của Đảng trong hoạt động thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Từ trƣớc đến nay Đảng ta chƣa thực hành cách
thƣờng xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết:
mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt tìm thấy những nhân tài mới, một mặt
khác những ngƣời hủ hóa cũng lịi ra”[11, tr314].
Phải đánh giá khách quan và tồn diện
Đánh giá cán bộ là “xem xét” một con ngƣời, là một vấn đề mang tính
khoa học và nghệ thuật. Vì vậy, “khách quan” là yêu cầu hàng đầu. Mỗi giai
đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng, thực tiễn đặt ra những yêu cầu và tiêu chuẩn

khác nhau đối với ngƣời cán bộ. Khi xem xét đánh giá cán bộ phải chú trọng
bản chất, năng lực, phẩm chất và hiệu quả công việc trong mối quan hệ đa
chiều.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ bao giờ cũng
chú trọng phẩm chất đạo đức và xem đây là “cái gốc”, là nền tảng, Ngƣời
thƣờng phân tích đánh giá cán bộ với cách nêu những đặc trƣng tốt - xấu rất
cụ thể, rõ ràng, nhƣng khơng cầu tồn.
Đánh giá cán bộ cần phải đảm bảo tính “tồn diện”. Ngƣời dạy rằng:
“Xem xét cán bộ, khơng chỉ xem ngồi mặt mà cịn phải xem tính chất của họ.
Khơng chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, tồn cả cơng
việc của họ. Có ngƣời lúc phong trào cách mạng cao, họ vào Đảng, họ làm
việc rất hăng. Nhƣng lúc phong trào hơi khó khăn thì đâm ra hoang mang.
Lúc gặp sự nguy hiểm thậm chí hóa phản cách mạng. Nếu ta khơng xem xét
rõ ràng, thì lầm nó là cán bộ tốt. Vì vậy, nhận xét cán bộ khơng nên chỉ xét
ngồi mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ cơng việc của
cán bộ”[11, tr318].
Hồ Chí Minh u cầu trong đánh giá phải đứng trên quan điểm “động”
và “phát triển”. “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tƣ tƣởng của ngƣời

17


cũng biến hóa. Vì vậy, cách xem xét cán bộ, quyết khơng nên chấp nhất, vì nó
cũng phải biến hóa… Một ngƣời cán bộ khi trƣớc có sai lầm, khơng phải vì
thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chƣa bị sai lầm, nhƣng chắc gì
sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tƣơng lai của một ngƣời
không phải luôn giống nhau”[11, tr318].
Ngƣời đánh giá cần phải tự biết mình, phải sáng suốt, tỉnh táo
Ngƣời đánh giá phải đủ tƣ cách, nhất là “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tƣ”. Đồng thời, Ngƣời địi hỏi ngƣời cán bộ phải sáng suốt, tỉnh táo để
phân biệt đúng - sai, thật - giả, không để “bọn vu vơ bao vây, mà xa cách cán

bộ tốt”. Đặc biệt là bọn cơ hội, luồn lách, những kẻ xấu chui vào phá hoại nội
bộ ta. Muốn sáng suốt, tỉnh táo, Hồ Chí Minh yêu cầu ngƣời đánh giá phải
chữa những chứng bệnh nhƣ sau:
“1. Tự cao tự đại,
2. Ƣa ngƣời ta nịnh mình,
3. Do lịng u, ghét của mình mà đối với ngƣời,
4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi
ngƣời khác nhau. Nếu nhƣ ai đó bị mắc một trong bốn bệnh đó thì cũng nhƣ
mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái
mình trơng” [11, tr317].
Tóm lại, đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng: Hiểu đƣợc con ngƣời
là một việc khó, nếu khơng hiểu đúng thì khơng dùng ngƣời đúng, nếu khơng
dùng ngƣời đúng thì khơng thể cất nhắc đúng. Vì vậy, trong đánh giá cần phải
có sự cơng tâm, khách quan, công bằng, không thiên tƣ, thiên vị, định kiến
hẹp hịi.
1.2.2.4. Sắp xếp, bố trí cán bộ
Về sử dụng cán bộ
Sử dụng cán bộ phải bố trí đúng ngƣời, đúng việc, đúng sở trƣờng để
khai thác đƣợc tài năng của cán bộ. Vì vậy “chúng ta càng phải quý cán bộ,

18


phải trọng dụng nhân tài, trọng dụng cán bộ, phải khéo dùng ngƣời, phải dùng
ngƣời đúng chỗ, đúng việc”, nó biểu hiện ở chỗ phải đặt ngƣời đúng việc,
nhìn việc mà đặt ngƣời, chứ khơng phải vì ngƣời mà đặt việc. Ngƣời căn dặn:
“Chúng ta phải nhớ rằng; ngƣời đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, dùng ngƣời
nhƣ dùng gỗ. Ngƣời thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng
đƣợc” ; “tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực
về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy” [10, tr43].

Mỗi cơng việc địi hỏi một chun mơn riêng, do đó muốn phát huy
đƣợc năng lực của con ngƣời, phải bố trí đúng chun mơn đƣợc đào tạo.
Ngƣời phê phán: “Khơng có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng
ta phải khéo dùng ngƣời, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ƣu
điểm của họ. Thƣờng chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng ngƣời”[11, tr314].
Bố trí đúng năng lực, vừa sức cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ phát triển,
phấn đấu hồn thành tốt nhiệm vụ của mình. Theo Hồ Chí Minh, trƣớc khi
giao cơng việc cho cán bộ, phải bàn bạc kỹ với họ. Nếu họ gánh khơng nổi,
thì chớ miễn cƣỡng giao việc đó cho họ. Khéo dùng cán bộ còn là sự tin
tƣởng vào cán bộ, tin tƣởng vào năng lực, phẩm chất của họ. Trên cơ sở lòng
tin đối với cán bộ mà mạnh dạn trao việc cho họ. “Thả cho họ làm ” và “thả
cho họ phụ trách”, dù sai lầm ít cũng khơng sợ. Tuy nhiên, điều đó khơng có
nghĩa là phó thác, bng trôi, bỏ mặc, vô trách nhiệm làm cho cán bộ ỷ lại,
thụ động; hoặc “ôm đồm”, không dám giao việc cho cán bộ.
Đối với cán bộ mắc sai lầm, theo Ngƣời: “Chúng ta khơng sợ có sai lầm
và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết
điểm”[11, tr 323]. Và càng sợ, khi ngƣời lãnh đạo khơng biết tìm đúng cách để
giúp cán bộ có thể sữa chữa sai lầm. Cách đúng ở đây đó là, ngƣời lãnh đạo cần
giúp đỡ họ một cách nhiệt tình, làm cho họ tự giác thấy đƣợc nguyên nhân của
sự sai lầm và tác hại của nó, để có biện pháp sửa chữa một cách tích cực và
hiệu quả.

19


Kết hợp hài hoà giữa cán bộ già với cán bộ trẻ, quan tâm đặc biệt đến
cán bộ nữ. Đội ngũ cán bộ, là có cán bộ già và cán bộ trẻ.
Đối với cán bộ nữ, Ngƣời nhận thức sâu sắc vị trí xã hội của họ và coi
cơng tác cán bộ nữ (nhất là bố trí, cất nhắc, đề bạt…) là khâu rất quan trọng,
là thƣớc đo mức độ giải phóng phụ nữ, là biểu hiện văn minh của chế độ xã

hội chủ nghĩa. Ngƣời luôn luôn tạo những điều kiện cho phụ nữ học tập và
làm việc; mạnh dạn đƣa phụ nữ vào các cƣơng vị lãnh đạo và những vị trí
thích hợp với tài năng, giới tính và sức khoẻ của phụ nữ. Đồng thời, Ngƣời
cũng đòi hỏi bản thân chị em phải tự phấn đấu vƣơn lên đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng.
Về quy ho ch cán bộ
Trong công tác quy hoạch cán bộ, chúng ta cần phải tập trung nghiên
cứu để hoạch định hai vấn đề: Một là kế hoạch về tạo nguồn cán bộ, hai là kế
hoạch về cơ cấu cán bộ.
Kế hoạch tạo nguồn cán bộ là vấn đề rất quan trọng. Chuẩn bị cán bộ có
nghĩa là phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ, dựa trên những dự đoán về các
khả năng trong tƣơng lai của nội bộ và của xu thế bên ngồi. Để có những cán
bộ nối tiếp nhau xây dựng đất nƣớc, chúng ta phải có kế hoạch chuẩn bị
trƣớc, thậm chí hàng trăm năm.
Kế hoạch cơ cấu cán bộ tức là việc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ có tác
dụng lớn trong việc phát huy thế mạnh cán bộ ở những hoàn cảnh khác nhau.
Trong cơ cấu cán bộ, Ngƣời thƣờng chú ý đến những thành phần vốn chịu
nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ nhƣ: Về giới, Ngƣời khuyên nên tạo điều kiện
thuận lợi cho phụ nữ nâng cao vai trò và địa vị của họ trong xã hội mới; về
giai cấp nông dân, Ngƣời khuyên “trong các cấp chính quyền cũng nhƣ trong
các ban lãnh đạo Nơng hội, phải có những anh em bần nơng, cố nơng tham
gia thực sự”. Ngồi ra, Ngƣời cũng chú ý đến cơ cấu về độ tuổi trong công tác

20


×