Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Câu hỏi ôn thi môn những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác LêNin cho lớp Trung cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.5 KB, 36 trang )

ĐÁP ÁN CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
(LỚP TRUNG CẤP LLCT-HC A41)
Câu 1: Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lênin? Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận? (Trang 2, SGK trang 13)
Câu 2: Trình bày nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật,
hiện tượng? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng vào cơng việc của đồng
chí hiện nay? (Trang 4, SGK trang 20)
Câu 3: Trình bày vai trị của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển xã hội?
Liên hệ với đấu tranh giai cấp ở nước ta? (Trang 6, SGK trang 242)
Câu 4: Trình bày sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội?
Nêu ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội? (Trang 8, SGK trang 124)
Câu 5: Phân tích hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình của hàng hóa? Ý
nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề nói trên đối với nền kinh tế nước ta hiện nay?
(Trang 13)
Câu 6: So sánh hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương
đối? Ý nghĩa của việc nghiên cứu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
trong nền kinh tế nước ta hiện nay? (Trang 15, SGK trang 150)
Câu 7: Trình bày quan điểm của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Liên hệ với Việt Nam hiện nay? (Trang
18, SGK trang 199)
Câu 8: Phân tích những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn
thế giới của giai cấp công nhân? Nêu thực trạng, giải pháp xây dựng và phát triển
GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay? (Trang 22, SGK trang 253)
Câu 9: Trình bày những đặc trưng của xã hội – XHCN mà nhân dân ta đang
xây dựng trong cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng? Bản thân đồng
chí cần làm gì để góp phần xây dựng thành cơng đặc trưng “Có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”? (Trang 31, SGK trang 294)
Câu 10: Trình bày nội dung kinh tế của liên minh giai cấp giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Giải


pháp tăng cường mô hình liên kết “4 nhà” ở tỉnh Cà Mau hiện nay? (Trang 35, SGK
trang 318)
1


Câu 1: Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Lênin? Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận?
1. Nội dung định nghĩa vật chất của Lênin:
Định nghĩa: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cám giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học
(phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và
được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái niệm “vật
chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (khái niệm dùng để chỉ những
dạng vật chất cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên trong xã hội).
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất được khái
quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại
khách quan (thực tại khách quan), tức là thuộc tính tồn tại ngồi ý thức, độc lập,
khơng phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay
khơng nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên
cảm giá ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con
người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin cũng khẳng định tư duy của con người có
thể nhận thức được vật chất. Rõ ràng, định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin đã khắc
phục được những hạn chế của quan niệm siêu hình, máy móc về vật chất của các nhà
duy vật trước đó. Đồng thời bác bỏ được thuyết khơng thể biết cũng như mọi biểu
hiện của quan niệm duy tâm về vật chất.

2. Ý nghĩa phương pháp luận:
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ được cả quan điểm duy tâm chủ
quan, cả quan điểm duy tâm khách quan về vấn đề cơ bản của triết học và về phạm trù
vật chất.
Nội dung định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được những mặt hạn
chế (như: tính chất trực quan, siêu hình, máy móc) trong quan niệm duy vật về vật
chất chủ nghĩa duy vật cũ, đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của
Mác và Ăngghen về vật chất;
2


Định nghĩa vật chất của Lênin là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm
duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội.
Định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
Một là, bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất là
thuộc tính tồn tại khách quan, V.I. Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái
niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là
phạm trù của các khoa học chuyên ngành (vật lý học, hóa học, sinh vật học,…). Từ
đó, khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ ;
cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập
cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục những hạn
chế duy tâm trong quan niệm về xã hội.
Hai là, khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, “được đem lại cho con
người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”,
V.I. Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý
thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận thức
được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người
đối với thực tại khách quan.
Trên cơ sở đó, xây dựng niềm tin, cổ vũ, động viên con người, nhất là các nhà

khoa học, tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khám phá, phát hiện ngày càng nhiều hơn những
bí ẩn (thuộc tính, bản chất, quy luật) của thế giới hiện thực, của sự vật, hiện tượng,
giúp cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người ngày càng hiệu quả hơn.

3


Câu 2: Trình bày nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự
vật hiện tượng? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng vào cơng việc
đồng chí hiện nay?
1. Nội dung ngun lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng:
Các nhà triết học siêu hình nhìn chung khơng nhìn thấy mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng, nếu có theo họ chỉ là mối liên hệ ngẫu nhiên, bề ngồi. Các nhà triết
học duy tâm có thấy được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, nhưng lại cho rằng
ý thức, tinh thần là cơ sở của mối liên hệ này.
Chủ nghĩa duy vật mácxít cho rằng giữa các sự vật, hiện tượng ln có sự tác
động, ảnh hưởng, chi phối, v.v. lẫn nhau. Trên cơ sở đó, theo triết học duy vật mácxít:
- Liên hệ là khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tác
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.
- Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế
giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng, phong phú, nhưng đều nằm trong mối
liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
- Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là khách quan, bởi lẽ, nó là vốn có
của sự vật, khơng có ai gắn cho sự vật.
- Mối liên hệ đó cịn là phổ biến, nghĩa là nó tồn tại trong cả tự nhiên, cả trong
xã hội, cả trong tư duy.
Đồng thời, mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, nghĩa là có mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ bản chất – không bản chất; mối liên hệ tất

nhiên – ngẫu nhiên, v.v.
2. Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng vào công việc hiện nay:
* Ý nghĩa phương pháp luận rút ra:
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, triết học duy vật mácxít rút ra ý nghĩa
phương pháp luận để định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiến của con
người, đó là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể:
- Từ tính khách quan và phổ biển của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm tồn diện. Quan điểm tồn diện
địi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật,
hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,
4


giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật,
hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức
đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận
thức và thực tiễn.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình
huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối
tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác
định rõ vị trí, vai trị khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ
thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các
vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh
và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà cịn phải tránh và khắc phục quan
điểm chiết trung, ngụy biện.
* Sự vận dụng vào cơng việc hiện nay:
- Khi nhìn nhận một vấn đề, cần nhìn đa chiều, đặt nó trong nhiều mối liên hệ với
các sự vật, hiện tượng khác để cho ra một kết quả hay quyết định khách quan nhất (Xét
đánh giá, nhận định về người khác, tính chất công việc được giao,... ).

- Trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan
điểm phiến diện, siêu hình mà cịn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung,
ngụy biện (đối diện với sự thật khi sai phạm, nâng cao lý luận để nhận diện tốt vấn đề
tránh thiếu hiểu biết dẫn đến ngụy biện hoặc nghe vấn đề một chiều dẫn đến nhận
định vấn đề trên quan điểm chiết trung).
Ví dụ: Khi đồng chí A vi phạm Luật giao thơng, bị cảnh sát giao thơng xử lý vi
phạm, đồng chí A đưa ra nhiều lý do để bào chữa cho sai phạm của mình nhằm chối
bỏ lỗi do hành vi mà anh đã thực hiện thay vì đồng chí A đối diện với sự thật và chấp
hành đối với hình thức xử lý theo quy định của pháp luật. Cũng đối với trường hợp
trên, theo quy chế cơ quan, đồng chí A sẽ bị cơ quan xử lý với hình thức kỷ luật là
cảnh cáo. Tuy nhiên, do tác động từ việc giải trình của đồng chí A và một số đồng
nghiệp thân tín với đồng chí A mà người đứng đầu cơ quan đã không kỷ luật cảnh cáo
mà chỉ nhắc nhở, rút kinh nghiệm. Từ sự việc trên, cho thấy người đứng đầu cơ quan
đã chấp nhận những lời ngụy biện của đồng chí A và những đồng nghiệp thân tín với
đồng chí A dẫn đến xem xét, xử lý vụ việc sai quy chế khi nghe vấn đề một chiều dẫn
đến nhận định vấn đề trên quan điểm chiết trung.

5


Câu 3: Trình bày vai trị của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển xã
hội? Liên hệ với đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay?
1. Đề làm sáng tỏ vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển xã
hội, ta phải hiểu giai cấp và đấu tranh giai cấp, cụ thể:
Khái niệm đấu tranh giai cấp: V.I.Lênin định nghĩa: Đấu tranh giai cấp là đấu
tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của
quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc
lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê
hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển xã hội:

- Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã
hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: mâu
thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất
mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với quan
hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
tự nó khơng giải quyết được, mà phải thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị lật
đổ giai cấp thống trị, sau đó mới xóa bỏ được quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ
sản xuất mới cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Với ý nghĩa ấu,
đấu tranh giai cấp được coi là động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử.
- Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội,
thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã
hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của tồn bộ đời sống xã
hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh
rằng, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là
đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội.
Vì vậy, đấu tranh giai cấp trở thành một động lực lớn của sự phát triển xã hội.
Tất nhiên, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất. Nhu cầu ngày càng
tăng của con người, sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, cả những nhân tố tư
tưởng, đạo đức, v.v. đều là những động lực phát triển của xã hội. Đấu tranh giai cấp là
một động lực cơ bản của sự phát triển xã hội đặc trưng cho các xã hội có giai cấp đối
kháng. Vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem cuộ đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản “là đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện đại”.
6


- Đấu tranh giai cấp chẳng những có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực
lượng xã hội phản động, kìm hãm xã hội phát triển mà cịn có tác dụng cải tạo bản
thân các giai cấp cách mạng. Thông qua đấu tranh giai cấp mà các lĩnh vực văn hóa,

tư tưởng, nghệ thuật, đạo đức, v.v. của xã hội được phát triển. Trên cơ sở đó thúc đẩy
xã hội phát triển.
- Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của mọi xã hội có giai cấp. Nhưng trong
quy luật ấy có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể. Điều đó do kết cấu
giai cấp của mỗi xã hội và do địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong từng
phương thức sản xuất quyết định.
- Các đội tiên phong của giai cấp vô sản, trong khi đề ra đường lối chiến lược
và sách lược cách mạng phải vận dụng quy luật đấu tranh giai cấp; phải xuất phát từ
sự phân tích tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của mình; phân tích kết cấu giai cấp
và những mối quan hệ giữa giai cấp trong xã hội; phân tích mối quan hệ giữa đấu
tranh giai cấp trong nước và đấu tranh giai cấp trên phạm vi toàn thế giới; đánh giá
đúng đắn lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng; có như thế mới đưa
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đến thắng lợi hồn tồn.
- Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh
cuối cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với
các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về căn
bản chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở hữu xã hội.
- Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính
trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chun chính của giai cấp vơ sản, mục
tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết : “Trong điều kiện
chun chính vơ sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không
thể giống như trước được”.
- Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp
mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu
tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của
nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao
động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một
xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh. Vì vậy, trong khi khẳng định rằng đấu
tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản, C.Mác cũng chỉ rõ: bản than nền

chun chính vơ sản này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới
xã hội khơng có giai cấp.
7


2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay:
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là tất yếu.
Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc,
của nhân dân, của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ
và cái bảo thủ, trì trệ, v.v. nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Thực chất đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là đấu tranh chống khuynh
hướng tự phát triển tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Nội dung chủ yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống
áp bức bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu
cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá các thế lực
thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định: động lực chủ
yếu để phát triển đất nước ta là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng
nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế
của toàn xã hội.
Từ những nhận định trên, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo và đưa ra những quan
điểm, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta với các nội dung cụ thể là:
đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu cách mạng, xây dựng nước ta thành nước “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Muốn vậy, phải phát triển mạnh mẽ
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, bảo vệ và phát triển những nhân tố xã hội chủ nghĩa, chống lại
khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường; xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền nhân dân và pháp chế xã
hội chủ nghĩa, đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch
hòng phá hoại độc lập và chủ nghĩa xã hội ở nước ta; giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm cho
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta không ngừng nâng cao.
Mà thành tựu đó là, nước ta đã thốt khỏi một nước nghèo, tình hình an ninh –
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân ta không ngừng nâng cao.
8


Câu 4: Trình bày sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội?
Nêu ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội?
Khái niệm tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật
chất, quan hệ vật chất của xã hội bao gồm các yếu tố: phương thức sản xuất vật chất,
điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, trong đó phương thức
sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
Khái niệm ý thức xã hội:
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tồn bộ những quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của những cộng đồng xã hội nảy
sinh từ tồn tại xã hội của họ và phản ánh tồn tại xã hội đó trong những giai đoạn lịch
sử cụ thể nhất định.
* Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội:
Các hình thái ý thức xã hội khơng chỉ tác động lẫn nhau mà còn tác động trở lại
tới tồn tại xã hội. Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội theo hai khuynh
hướng cơ bản là tích cực và tiêu cực.

Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát
triển của tồn tại xã hội thì thơng qua hoạt động thực tiễn của con người nó có thể tác
động tích cực trở lại tới tồn tại xã hội. Biểu hiện của sự tác động tích cực của ý thức
xã hội đối với tồn tại xã hội là nó thúc đẩy phương thức sản xuất phát triển; góp phần
cải biến điều kiện tự nhiên, hồn cảnh địa lý theo hướng có lợi cho con người và sản
xuất vật chất; điều chỉnh dân số và mật độ dân cư phù hợp với điều kiện kinh tế - địa
lý, v.v.. trên cơ sở đó, thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
Nếu ý thức xã hội lạc hậu, phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận
động, phát triển của tồn tại xã hội; hoặc ý thức xã hội phản tiến bộ, nhất là ý thức
chính trị; hoặc là ý thức xã hội phản ánh vượt trước tồn tại xã hội nhưng vượt trước
ảo tưởng, duy ý chí, v.v.. thì sẽ tác động tiêu cực tới tồn tại xã hội. Biểu hiện của sự
tác động tiêu cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nó cản trở tồn tại xã hội
phát triển. Cụ thể là ý thức xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con người cản
trở sản xuất vật chất phát triển; hủy hoại môi trường sống tự nhiên; làm mất cân bằng
về dân số và mật độ dân cư, v.v.. Như vậy là kìm hãm sự phát triển của xã hội theo
hướng tiến bộ.
Mức độ, tính chất và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của
9


chủ thể mang ý thức xã hội tức địa vị lịch sử của giai cấp … chủ thể mang ý thức xã
hội; tính khoa học hay khơng của ý thức xã hội; mức độ thâm nhập của ý thức xã hội
vào quảng đại quần chúng nhân dân; năng lực triển khai, hiện thực hóa ý thức xã hội
vào hoạt động thực tiễn của chủ thể lãnh đạo, quản lý.
Mức độ ảnh hưởng của ý thức xã hội đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào:
- Điều kiện lịch sử .
- Tính chất của các mối quan hệ kinh tế .
- Vai trò lịch sử của các giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng
- Mức độ mở rộng tư tưởng trong quần chúng.

Trước hết, muốn bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin phát triển không ngừng lớn mạnh, đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới.
Nhận thức sâu sắc sự tác động to lớn của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
trong công cuộc đổi mới hiện nay, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vự: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh”.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm sau:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do có nhiều nguyên nhân
khác nhau:
+ Do sức ỳ của tâm lý xã hội.
+ Trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ.
+ Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội ln gắn với lợi ích của những nhóm
xã hội, tập đồn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau. Vì vậy, những quan điểm, tư
tưởng, tâm lý cũ thường được các lực lượng xã hội, nhóm xã hội, tập đồn xã hội,
giai cấp xã hội bảo thủ, phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại những lực
lượng xã hội tiến bộ.
- Ý thức xã hội có thể “vượt trước” tồn tại xã hội. Ý thức xã hội nếu phản ánh
đúng quy luật vận động khách quancuar tồn tại xã hội thì nó có thể phản ánh vượt
trước tồn tại xã hội.
10


- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình. Do có sự kế thừa
trong sự phát triển của nó mà khơng thể giải thích ý thức xã hội đơn thuần từ tồn tại
xã hội. trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của xã hội gắn với tính chất giai cấp của

nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời
đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ
để lại.
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng là
một nguyên nhân làm cho trong mỗi hình tài ý thức có những mặt, những tính chất
khơng thể giải thích được cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
không những phê phán quan điểm duy tâm (tuyệt đối hóa vai trị của ý thức xã hội) mà còn
bác bỏ bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay :chủ nghĩa duy vật kinh tế” (tức quan
điểm phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội). Theo Ăngghen:
“Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, … đều dựa
trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh
hưởng đến cơ sở kinh tế. Mức ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên
đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ
phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng
của tư tưởng trong quần chúng; … Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư
tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển.
* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững tính độc lập tương đối của
ý thức xã hội
Một là, ý thức xã hội mới khơng hình thành một cách tự phát mà hình thành một
cách tự giác, lâu dài, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với sự tham gia tích cực
của quảng đại quần chúng nhân dân. Ý thức xã hội mới khơng phải được hình thành
một cách tự phát mà chủ yếu là kết quả tự giác của công tác giáo dục dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự tham gia và rèn luyện tích cực của quảng đại quần chúng nhân dân.
Quá trình hình thành ý thức xã hội mới không thể thiếu sự tham gia tích cực của đơng
đảo quần chúng nhân dân. Những điều kiện khách quan cho sự hình thành ý thức xã
hội mới chỉ có vai trị tác động, hậu thuẫn, tạo điều kiện. Hơn nữa, vai trò tác động,
hậu thuẫn, tạo điều kiện này của những điều kiện khách quan cũng chỉ được phát huy
khi thông qua chủ thể, thông qua nhân tố chủ quan. Do vậy, chính q trình tự giác,

rèn luyện, bồi dưỡng của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng xã hội mới là nhân
tố đóng vai trị quyết định trong sự hình thành ý thức xã hội mới. Để quá trình hình
thành ý thức xã hội mới diễn ra tự giác, đúng hướng, đạt hiệu quả thì cần phải có sự
11


lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân và của
cả dân tộc. Đảng cũng chỉ có thể hồn thành sứ mệnh lãnh đạo đó khi biết nâng cao
tầm trí tuệ, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo và gắn bó máu thịt với nhân dân.
Hai là, ý thức xã hội mới là kết quả của sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch
sử tư tưởng dân tộc và nhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những ý
thức lạc hậu, phản tiến bộ. Quá trình hình thành ý thức xã hội mới cũng là quá trình tiếp thu
những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của dân tộc và nhân loại. Ý thức xã hội mới không
phải là “biệt phái”, xuất hiện từ hư vô mà có cơ sở lý luận của nó là tồn bộ những giá trị
trong lịch sử tư tưởng của dân tộc và nhân loại. Về bản chất, ý thức xã hội mới khơng loại
trừ mà cịn bao hàm trong nó những giá trị tinh thần của nhân loại và dân tộc. Hơn nữa,
những giá trị tinh thần của dân tộc và nhân loại này còn được ý thức xã hội mới nâng lên
tầm cao mới. Quá trình hình thành ý thức xã hội mới cũng đồng thời là quá trình đấu tranh
không khoan nhượng với những ý thức lạc hậu, phản tiến bộ. Đó là q trình đấu tranh khắc
phục những tư tưởng, phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu; chống lại mọi biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng phản động; làm thất bại cuộc tiến công về tư tưởng của lực
lượng phản cách mạng. Đồng thời, đây cũng là cuộc đấu tranh bảo về sự trong sáng của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà cước. Đây là q trình đầy khó khăn, gian khổ, lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực,
cố gắng của mỗi cán bộ, đảng viên, của toàn Đảng và tồn dân.
Ba là, hình thành ý thức xã hội mới phải gắn liền với phát triển kinh tế, củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Quan niệm
duy vật lịch sử về ý thức xã hội chỉ rõ rằng, muốn hình thành được ý thức xã hội mới, về
lâu dài, cơ bản phải hình thành được tồn tại xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, phải phát triển
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải không ngừng củng cố quan hệ sản xuất xã

hội chủ nghĩa. Hiện nay, đất nước ta đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở cửa, giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta càng cần phải chú ý giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. Bởi lẽ, kinh tế thị trường khơng
chỉ có tác động tích cực mà cịn là môi trường thuận lợi cho những hiện tượng tiêu cực về
tinh thần, tư tưởng, đạo đức nảy sinh. Đây là những nhân tố phá hoại, cản trở việc hình
thành, củng cố ý thức xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Có phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao động, chúng ta mới lôi cuốn được
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia cải tạo những tư tưởng lạc hậu, đấu tranh có hiệu
quả với những tư tưởng sai trái, phản tiến bộ; tự giác hình thành trong bản thân ý thức xã
hội mới. Có phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao động thì mới thu hút được đơng
đảo họ tham gia quản lý, xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học.
Đây là điều kiện cơ bản, quan trọng cho việc hình thành và phát triển ý thức xã hội mới.
12


Câu 5: Phân tích hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình của hàng hóa. Ý
nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề trên đối với nên kinh tế nước ta hiện nay?
1. Phân tích hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình của hàng hóa:
- Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về
mặt giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào
sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay
chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư
bản lưu dộng.
- Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị,
nhà xưởng, V.V. tham gia tồn bộ vào q trình sản xuất, nhưng giá trị của nó khơng
chuyển hết mệt lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mịn
của nó trong thời gian sản xuất.
- Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao
mịn dần trong q trình sản xuất. Có hai loại hao mịn là hao mịn hữu hình và hao

mịn vơ hình:
+ Hao mịn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy.
Hao mịn hữu hình do q trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ
phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
+ Hao mịn vơ hình là sự hao mịn thuần t về mặt giá trị. Hao mịn vơ hình xảy
ra ngay cả khi máy móc cịn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại
hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng cơng suất cao hơn. Để tránh hao mịn
vơ hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng
ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho
các nhà tư bản sau mỗi q trình sản xuất, khi hàng hóa được bán xong.
- Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động là
phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình
sản xuất.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề trên đối với nên kinh tế nước ta hiện nay:
+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để
tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được
thiệt hại hao mịn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mịn vơ hình gây ra. Nhờ đó,
mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
13


+ Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của
tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm,
do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
hàng năm tăng lên. Đây là sự phân chia có ý nghĩa lớn trong quản lý kinh tế, trong
sản xuất cần có cách thức tác động phù hợp với tính chất vận động của từng loại tư

bản để nâng cao hệ số sử dụng tư bản.

14


Câu 6: So sánh hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và
tuyệt đối? Ý nghĩa của việc nghiên cứu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối trong nền kinh tế nước ta hiện nay?
1. So sánh hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối
- Giá trị thặng dư là bộ phận của giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Giá trị thặng dư là lao động không công
của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, thời gian lao
động tất yếu và giá trị sức lao động không đổi.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời
gian lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi ngày lao
động có thể khơng đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
So sánh 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối
* Giống nhau: đều làm tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư, đều phản
ánh mối quan hệ giữa tư bản và lao động.
* Khác nhau:
Phương pháp sản xuất GTTD tuyệt đối Phương pháp sản xuất GTTD tương đối
- Kéo dài ngày lao động trong điều kiện - Rút ngắn thời gian lao động tất yếu, độ
thời gian lao động tất yếu không đổi, nhờ dài ngày lao động không đổi nhờ đó kéo
đó kéo dài thời gian lao động thặng dư.
dài thời gian lao động thặng dư.
- Năng suất lao động tăng, giá trị lao - Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu

động và thời gian lao động tất yếu không phải giảm giá sức lao động. Muốn hạ thấp
đổi.
giá trị sức lao động phải giảm giá trị các tư
- Hạn chế: bị giới hạn bởi ngày lao động liệu sinh hoạt; nghĩa là phải tăng năng suất
và thể chất tinh thần của người lao động. lao động trong các ngành sản xuất tư liệu
sinh hoạt hoặc trong các ngành sản xuất tư
liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sinh
hoạt đó.
- Khơng bị giới hạn bởi những nhân tố tạo
ra nó.
15


2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối trong nền kinh tế nước ta hiện nay
Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư tương đối của Mác là cần thiết và có lợi
cho sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước
tiểu nông, nghĩa là từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hóa, mặc dù có sản xuất
hàng hóa. Nhưng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do
vậy “cách tổ chức của kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hóa cũng mang tính
q độ. Nghĩa là, trong cùng một nền kinh tế vừa có kinh tế hàng hóa vì lợi ích của
Nhân dân, vừa có kinh tế hàng hóa vì lợi ích của tư nhân. Nhưng dù là nền kinh tế
hàng hóa nào thì sản phẩm cũng đều mang hình thức giá trị thặng dư, mặc dù chúng
phản ánh những quan hệ xã hội đối lập nhau. Trong đó, giá trị thặng dư phản ánh mối
quan hệ bóc lột và bị bóc lột vẫn được coi là nhân tố “trợ thủ của chủ nghĩa xã hội”,
“xúc tiến chủ nghĩa xã hội”, là cái “có ích” và “đáng mong đợi”. Vì thế, cốt lõi của
vấn đề là phải tạo điều kiện môi trường cho sự gia tăng khối lượng giá trị thặng dư
toàn xã hội ngày càng lớn, tỷ suất ngày càng cao.
Điều đó cho thấy, trước hết, chính sách áp dụng phát triển nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
hoàn toàn đúng đắn. Việc áp dụng lý luận giá trị thặng dư của C.Mác vào quá trình
phát triển kinh tế cho ta thấy: Muốn phát triển được nền kinh tế của đất nước thốt
khỏi tình trạng kém phát triển thì khơng thể khơng tiến hành cơng cuộc cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường cải tiến khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý,
trình độ chuyên môn, tay nghề của người lao động, nâng cao hiệu số sản xuất... Có
thay đổi những yếu tố đó thì mới đem lại được năng suất lao động cao từ đó thu được
nguồn lợi nhuận lớn.
Ngày nay, trải qua thực tiễn, chúng ta ngày càng nhận thức rõ: “Sản xuất hàng hóa
khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Thực tiễn chứng minh, trong nền kinh tế thị trường
thì thành phần kinh tế tư nhân có vai trị rất to lớn, là động lực lớn cho nền kinh tế.
Nghiên cứu để khẳng định sự đúng đắn về lý luận giá trị thặng dư không phải để
nhằm kỳ thị thành phần kinh tế tư nhân. Trái lại, hiểu rõ mục đích, bản chất, động lực của
kinh tế tư nhân để có chính sách thích hợp, vừa khuyến khích phát triển, vừa có chính sách
quản lý và điều tiết hợp lý để sử dụng kinh tế tư nhân phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở một nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
16


Khai thác động lực kinh tế tư nhân là để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Có chính sách đúng đắn và bảo đảm mức lợi nhuận thỏa đáng cho tư nhân.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ nghĩa xã hội vẫn cịn
phạm trù giá trị thặng dư. Vì thế, chúng ta phải học tập các nhà tư bản để sản xuất ra
càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt. Điều đó hồn tồn phù hợp với lý luận của
V.I.Lênin: “Tri thức về chủ nghĩa xã hội thì chúng ta có, nhưng chúng ta chưa có tri thức
về tổ chức với quy mơ hàng triệu người, chưa có tri thức về tổ chức và phân phối sản
phẩm”. Theo tinh thần đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư là cần thiết và có lợi.

Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị thặng dư
có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta trở thành một
việc làm cần thiết.
Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù
nền kinh tế hàng hóa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó, song đã là sản xuất
hàng hóa thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và
giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá
trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và việc sử dụng chúng trong nền
kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý
nghĩa thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.

17


Câu 7: Trình bày quan điểm của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH? Liên hệ với Việt Nam hiện nay?
1. Quan điểm của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
- Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử đặc biệt trong đó diễn ra cuộc cải tiến cách
mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để từ LLSX đến QHSX, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc
thượng tầng để xóa bỏ pháp quyền tư sản và hoàn thiện những đặc trưng của CNCS.
- Thời kỳ quá độ lên CNXH: C. Mác đã chỉ ra đặc điểm của thời kỳ này là
“Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây khơng phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội CSCN vừa thốt
thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội, về mọi phương diện- kinh tế, đạo đức, tinh
thần- còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra”.
- Kế thừa quan điểm Mác - Lênin cho rằng, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã

hội với tư cách là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản là thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên CNXH là sự tồn tại khách
quan của nền kinh tế nhiều thành phần, tương ứng với giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau nhưng vị trí, cơ cấu, tính chất của giai cấp, tầng lớp này có sự biến đổi sâu sắc.
* Quan điểm của Lênin về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
- Tính quy luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH là sự tồn tại và
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- Lênin chỉ rõ: “Vậy thì danh từ q độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế,
có phải có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của CNTB và CNXH không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”. Đồng
thời, Lênin đã nêu ra “Những hình thức cơ bản ấy của nền kinh tế xã hội là: CNTB,
tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa cộng sản”
- Từ đó, để tận dụng cơ hội phát triển, khơng được áp dụng một cách máy móc
tính quy luật chung, mà phải kết hợp vận dụng sáng tạo những tính quy luật chung
vào hoàn cảnh đặc thù của từng dân tộc trong quá trình đi lên CNXH. Lênin đã nêu
năm thành phần kinh tế:
Một là, kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên.
Hai là, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nơng dân bán lúa mì).
Ba là, kinh tế tư bản tư nhân.
18


Bốn là, kinh tế tư bản nhà nước.
Năm là, kinh tế xã hội chủ nghĩa
Như vậy, Lênin nêu ra năm thành phần kinh tế và thứ tự các thành phần kinh tế
được Lênin sắp xếp một cách có chủ đích và hàm chứa ý nghĩa phương pháp luận.
Thứ tự đó phản ánh trình độ sản xuất, các hình thức vận động của chế độ sở hữu
trong tiến trình lịch sử từ thấp đến cao.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội.
- Vận dụng quan điểm của V.I.Lenin về nền kinh tế quá độ lên CNXH là nền
kinh tế nhiều thành phần vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch HCM đã chỉ
ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước 1954 ở VN bao gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Đây là thành phần kinh tế của chế
độ xã hội phong kiến.
- Kinh tế quốc doanh: gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà nước, là của
chung nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội... Đây là thành phần kinh tế ra đời trong
chế độ dân chủ mới, có vai trị đáp ứng u cầu to lớn và quan trọng của toàn xã hội,
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẻ tiến đến CNXH).
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và tiểu thủ cơng nghiệp (có thể tiến dần vào hợp
tác xã, tức là nửa CNXH).
- Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Giai
cấp tư sản nước ta mới ra đời, cịn non yếu do bị tư bản nước ngồi chèn ép.
- Kinh tế tư bản quốc gia: Đây là thành phần kinh tế do Nhà nước và nhà tư bản
cùng góp vốn với nhau để kinh doanh do Nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là
tư bản chủ nghĩa. Tư bản của Nhà nước là xã hội chủ nghĩa.
Sau năm 1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng và đi lên CNXH, Chủ tịch HCM
đã chỉ ra những hình thức sở hữu chính trong nền kinh tế VN ở miền Bắc bao gồm:
sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của HTX tức là sở hữu tập thể của
nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc
sở hữu của nhà tư bản. Tương ứng với các hình thức sở hữu đó là nền kinh tế nhiều
thành phần, bao gồm năm loại kinh tế khác nhau:
Một là, Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung nhân dân).
Hai là, Kinh tế hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội).
19


Ba là, Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ cơng (có thể tiến dần vào hợp tác

xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
Bốn là, Kinh tế tư bản tư nhân.
Năm là, Kinh tế tư bản của nhà nước (như Nhà nước góp vốn với tư bản tư nhân
để kinh doanh).
Trong năm loại kinh tế trên, loại thứ nhất là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn
cả. Cho nên kinh tế ta sẻ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo hướng CNTB.
2. Liên hệ với Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở quán triệt tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM và tổng
kết thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.
- Đại hội VI: Kinh tế XHCN gồm: Khu vực quốc doanh; và Khu vực tập thể
cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
+ Các thành phần KT khác: KT tiểu sản xuất hàng hóa;
+ KT tư bản tư nhân;
+ KT Tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức;
+ KT tự nhiên, tự cấp, tự túc trong bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đại hội VII: Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự do kinh doanh được
pháp luật bảo đảm, từ ba loại hình sở hữu cơ bản, sẻ hình thành nhiều thành phần
kinh tế vơi những hình thức kinh doanh đa dạng:
+ KT quốc doanh
+ KT tập thể;
+ KT cá thể;
+ KT tư bản tư nhân
+ KT gia đình
- Đại hội VIII: Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả:
+ KT nhà nước
+ KT hợp tác mà nồng cốt là các hợp tác xã
+ KT tư bản nhà nước
+ KT cá thể, tiểu chủ
+ KT tư bản tư nhân
20



- Đại hội IX: Những thành phần kinh tế ở nước ta giai đoạn này bao gồm:
+ KT nhà nước
+ KT tập thể
+ KT cá thể tiểu chủ
+ KT tư bản tư nhân
+ KT tư bản nhà nước
+ KT có vốn đầu tư nước ngoài
- Đại hội X, Đảng xác định còn 5 thành phần kinh tế:
+ KT nhà nước
+ KT tập thể
+ KT tư nhân
+ KT tư bản nhà nước
+ KT có vốn đầu tư nước ngồi.
- Đại hội XI chỉ rõ 4 thành phần kinh tế:
+ KT nhà nước
+ KT tập thể
+ KT Tư nhân
+ KT có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đại hội XII: nhấn mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN VN có
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Như vậy, kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM về các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào
hoàn cảnh VN trên cơ sở phân tích đặc điểm của từng bước quá độ. Từ đó, qua từng
kỳ Đại hội đều có những đổi mới khơng những nhất qn thực hiện chính sách kinh
tế nhiều thành phần, mà cịn xác định rõ cơ cấu các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho

hoạch định và thực thi đúng đắn các chính sách đối với các thành phần kinh tế.

21


Câu 8: Phân tích những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của GCCN? Nêu thực trạng, giải pháp xây dựng và phát triển
GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
1. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN:
a) Khái niệm về GCCN:
Giai cấp công nhân hiện đại là sản phẩm và là chủ thể của quá trình cơng
nghiệp hóa hiện đại, đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày
càng cao và là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ trong xã hội hiện đại;
là giai cấp có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
b) Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN:
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định một cách
khách quan do địa vị kinh tế, chính trị, xã hội của họ và bản thân chính những mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản quy định. Điều này được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định.
- Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách
mạng nhất trong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại. Họ đại
diện cho lực lượng sản xuất cách mạng có trình độ xã hội hóa cao và đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến hiện đại. Trong quá trình sản xuất vật chất trong lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ công nghiệp hiện đại, họ là lực lượng tạo ra phần lớn của
cải cho xã hội, lao động thặng dư của họ là nguồn gốc chủ yếu đem lại sự giàu có và
thúc đẩy xã hội phát triển.
- Trong chủ nghĩa tư bản, do giai cấp tư sản ln tìm mọi cách nhằm duy trì, bảo vệ
chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu - thứ sở hữu cho phép nhà tư bản bóc lột
được giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Do bị bóc lột giá trị thặng dư trong q

trình làm thuê cho nhà tư bản, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi
ích cơ bản của giai cấp tư sản. Vì vậy, giai cấp cơng nhân là giai cấp có vai trị đi đầu trong
cải tạo các quan hệ xã hội, có nhu cầu phải đấu tranh nhằm xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của
giai cấp tư sản và mọi giai cấp bóc lột khác, tiến tới xây dựng một xã hội mới mà ở đó giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động được giải phóng, được phát triển tồn diện, một xã hội
nhân văn, tiến bộ và phát triển bền vững.
Thứ hai, do đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định.
- Khi xã hội phát triển ngày càng hiện đại, do yêu cầu khách quan của sản xuất
công nghiệp và dịch vụ công nghiệp hiện đại, giai cấp công nhân không ngừng được
22


bổ sung những tri thức mới. Việc đổi mới công nghệ trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp hiện đại luôn là một nhu cầu khách quan thường trực được đặt ra. Do vậy, với
tư cách là chủ thể trực tiếp nhất của q trình sản xuất cơng nghiệp hiện đại, trình độ
chun mơn kỹ thuật, trình độ học vấn và ý thức chính trị của giai cấp cơng nhân
cũng ngày càng được nâng cao. Xét dưới góc độ chính trị, cuộc đấu tranh vì dân sinh,
dân chủ đã cung cấp những tri thức chính trị - xã hội cần thiết để giai cấp công nhân
trở thành một giai cấp tiên tiến của xã hội. Đồng thời, cũng chính mơi trường sản xuất
công nghiệp hiện đại đã tôi luyện cho giai cấp cơng nhân tính tổ chức kỷ luật cao và
tác phong công nghiệp hiện đại. Đây là những phẩm chất cần thiết để giai cấp cơng
nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Giai cấp cơng nhân có hệ tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận tiền
phong là chủ nghĩa Mác-Lênin và có chính Đảng của mình là đảng cộng sản tổ chức,
lãnh đạo. Do đó, họ có khả năng tổ chức, lãnh đạo, đồn kết chính giai cấp của mình,
đồng thời đồn kết với các giai cấp, tầng lớp khác trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu
chung: Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Tinh thần triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được thể hiện nổi bật ở hai điểm:
+ Một là, phương thức đấu tranh: xóa bỏ tận gốc chế độ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất với tư cách là chế độ áp bức, bóc lột. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: Tất

cả những giai cấp trước kia sau khi chiếm được chính quyền, đều ra sức củng cố địa
vị mà họ đã nắm được bằng cách bắt toàn bộ xã hội phải tuân theo những điều kiện
bảo đảm cho phương thức chiếm hữu của chính chúng. Những người vơ sản chỉ có
thể giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách xóa bỏ phương thức chiếm
hữu hiện nay của chính mình, và do đấy, xóa bỏ tồn bộ phương thức chiếm hữu nói
chung đã tồn tại từ trước đến nay. Những người vơ sản chẳng có gì là của mình để
bảo vệ cả, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì, từ trước đến nay, vẫn bảo đảm và
bảo vệ chế độ tư hữu.
+ Hai là, ở mục tiêu cuối cùng: phải giải phóng đồng thời tồn bộ xã hội khỏi
mọi hình thức áp bức, bóc lột. C. Mác và Ph. Ăngghen viết: Tất cả những phong trào
lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu
số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối
đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội hiện đại, khơng thể
vùng dậy, vươn mình lên nếu khơng làm nổ tung tồn bộ cái thượng tầng kiến trúc
bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quang phương.
Tóm lại, giai cấp cơng nhân gắn liền với phương thức sản xuất công nghiệp
ngày càng hiện đại, mang tính xã hội hóa cao. Phương thức sản xuất quy định phương
thức tư tưởng. Vì vậy, giai cấp cơng nhân có được những đặc điểm của một giai cấp
23


cách mạng như: tính tổ chức, kỷ luật cao, tác phong cơng nghiệp; tinh thần triệt để
cách mạng, tình đồn kết quốc tế, tính dân tộc, … Những phẩm chất này khách quan
xác định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và thông qua
đội tiền phong của nó là đảng cộng sản có năng lực lãnh đạo các giai cấp khác trong
sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Thứ ba, bản thân các mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản khách quan
quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong chủ nghĩa tư bản đã có những mâu thuẫn cơ bản hình thành một cách
khách quan và được biểu hiện ra ở hai mặt chủ yếu.

Xét về mặt kinh tế, đó là những tiền đề vật chất của chủ nghĩa tư bản và sự
vận động của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu
thuẫn cơ bản đó là xung đột giữa tính chất xã hội ngày càng cao của lực lượng sản
xuất với tính chất tư nhân hóa của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính q trình
xã hội hóa khơng ngừng của lực lượng sản xuất là tiền đề quan trọng nhất đã thúc đẩy
sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
đồng thời nó đặt ra nhu cầu khách quan cần phải thay đổi tính chất tư nhân của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa - vốn là cái đang kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển
bằng cách tạo ra một quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ
xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Để giải quyết mâu thuẫn này tất yếu
phải thiết lập chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là yêu cầu khách
quan và đã được quá trình sản xuất hiện đại vạch ra.
Xã hội hiện đại với xu thế xã hội hóa, dân chủ hóa mạnh mẽ như hiện nay cũng
đang làm chín muồi những tiền đề khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Nhìn chung, khơng chỉ chủ nghĩa tư bản mà cả quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản đều cần đến những tiền đề vật chất từ lực lượng sản xuất
trình độ xã hội hóa cao. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy, tiền đề này có
thể xuất hiện từ trước hoặc dần được hồn thiện, phát triển trong q trình xây dựng
xã hội mới. Vì vậy, sự chuẩn bị đầy đủ những cơ sở vật chất trong cho quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử là không thể bỏ qua. C. Mác coi đó là tiền đề thực tiễn tuyệt đối
cần thiết cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Xét về mặt chính trị - xã hội: Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp cơng nhân với
giai cấp tư sản. Chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã khiến cho lợi ích cơ bản của giai
cấp này đối lập nhau. Mâu thuẫn đó là khơng thể điều hịa và là động lực chính của
cuộc đấu tranh giai cấp hiện đại. Vì tất cả những gì con người đấu tranh để giành lấy,
bao giờ cũng gắn liền với lợi ích của họ.
24


Giải quyết mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa hai giai cấp này theo hướng xóa bỏ

chế độ bóc lột giá trị thặng dư là tất yếu khách quan nhằm xóa bỏ cơ sở của chế độ bóc
lột người cuối cùng trong lịch sử. Muốn thực hiện được điều đó phải xóa bỏ chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu với mục tiêu giải phóng con
người lao động. Đối tượng xóa bỏ ở đây là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với
tư cách là nguồn gốc sinh ra những áp bức, bóc lột hiện đại. Với tư cách là điều kiện để
cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
sẽ tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, từ đó
tạo ra điều kiện vật chất để tiến tới xóa bỏ giai cấp và áp bức giai cấp.
Xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân cần được hiểu là một quá trình lịch sử tự nhiên
chứ khơng thể duy ý chí. Xét đến cùng, sự nghiệp này cũng chịu sự quy định của
trình độ lực lượng sản xuất. Nhưng muốn xóa bỏ nó thì phải xóa bỏ chế độ chính trị là cái đang được bảo vệ quan hệ sản xuất ấy. Lật đổ chế độ tư sản, nhà nước của giai
cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân là yếu tố bố tất yếu trong quá
trình cách mạng kinh tế.
Như vậy, cả hai mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết triệt để trong
khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản và tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai
cấp công nhân tiến hành dưới sự lãnh đạo và tổ chức của chính Đảng của giai cấp cơng
nhân. Đó là sự quy định khách quan cho Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Thơng qua việc phân tích tính chất khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, chúng ta thấy được tất yếu kinh tế - chính trị - xã hội của cách mạng xã hội
chủ nghĩa và ý nghĩa nhân đạo lớn lao của sứ mệnh này. Nó là một sự nghiệp của giải
phóng và phát triển được nảy sinh từ chính những nhân tố hiện thực của xã hội hiện đại
chứ không phải là mong muốn chủ quan như sự xuyên tạc của kẻ thù tư tưởng.
2. Thực trạng, giải pháp xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay:
GCCN (GCCN) Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, liên minh, đồn kết chặt chẽ
với nơng dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động trong sự nghiệp giành độc
lập dân tộc. Trong q trình đó, GCCN luôn thể hiện là giai cấp “dũng cảm nhất, cách
mạng nhất, ln gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân” như lời Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định.

Trong thời kỳ đổi mới, GCCN Việt Nam ngày càng phát triển lớn mạnh về số
lượng và chất lượng, đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trước
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới cần đẩy nhanh phát triển q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã và đang tác động mạnh đến giai cấp công nhân
Việt Nam trên nhiều phương diện: số lượng, chất lượng, cơ cấu, ý thức chính trị, kỷ
25


×