Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

NHỮNG QUAN NIỆM VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.62 KB, 18 trang )

1

NHỮNG QUAN NIỆM VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI
VỚI CON NGƯỜI VIỆT NAM

Con người là chủ thể sáng tạo của mọi sáng tạo, của phát triển và
tiến bộ. Vì vậy hơn bao giờ hết, việc nghiên cứu con người và đạo làm
người có ý nghĩa lớn lao trong sự phát triển của xã hội. Vấn đề con
người và đạo làm người trong mọi xã hội, thời đại là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi lĩnh vực có cách tiếp cận riêng mặc
dù đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại trong việc “chinh phục” “khám
phá” con người và bàn về đạo làm người, nhưng cịn q ít so với thế
giới phức tạp, diệu kỳ tiềm ẩn ở mỗi người, thế giới lồi người. Vì vậy,
triết học về con người và những vấn đề về đạo làm người luôn là vấn đề
khơng có kết thúc. Triết học về con người gắn với những quan niệm về
đạo làm người cả phương Đơng và phương Tây cũng có nhiều học
thuyết, tư tưởng khác nhau tập chung vào hai phái chính: triết học duy
tâm, triết học duy vật. Song đều hướng vào giải quyết mối quan hệ giữa
tư duy và tồn tại. Trong bài viết người viết khơng tham vọng trình bày
nhiều những quan niệm, tư tưởng triết học về con người và đạo làm
người trong các các trường phái triết học đã đề cập, mà chỉ tập chung
trình bày và luận giải một số vấn đề về con người và đạo làm người
trong triết học Nho Giáo và ảnh hưởng của nó đối với con người Việt
Nam hiện nay.

1


2


1. Triết học Nho giáo và những nội dung cơ bản về đạo làm
người trong triết học Nho giáo (Nho gia)
1. Hoàn cảnh ra đời triết học Nho giáo

Nho giáo thật ra đã manh nha từ hàng ngàn năm tr. CN, đây là tư
tưởng của một bộ phận quý tộc chủ nô không chuyển kịp sang chế độ
quân chủ phong kiến. Nó phản ánh tình cảm, tâm tư nguyện vọng của
một lớp người muốn duy trì chế độ quý tộc chủ nơ, nhưng chỉ đến khi có
vai trị của Khổng Tử nó mới trở thành một hệ thống. Như vậy, Nho giáo
được xem như xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN do Khổng Tử (551
- 479 tr. CN) nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Quốc thời Xuân thu sáng lập.
Khổng Tử tên thật Khâu, tự Trọng Ni người quận Xương Bình, nước Lỗ
nay thuộc tỉnh Sơn Đơng phía Bắc Trung Quốc.
Nho giáo là một tơn giáo, song nó khơng được xếp vào loại tơn giáo
lớn trên thế giới mà chỉ là tôn giáo trong khu vực. Nội dung tư tưởng
Nho giáo mang nhiều tư tưởng triết học về xã hội, được đúc kết trong 3
học thuyết về Nhân – Lễ – Chính danh. Trong đó Nhân là hạt nhân của
học thuyết chính trị, muốn hiểu nhân phảI gắn liền với lễ. Nhân là hạt
nhân của Lễ – Lễ là hình thức của nhân, khơi phục Lễ là mục đích cịn
nhân là thủ đoạn của khơi phục Lễ, muốn có được Nhân phải cần đến
Chính danh. Chính danh là con đường để đạt đến Nhân, mục đích tối cao
của Khổng Tử là khôi phục đường lối Nhân trị, Lễ trị. Dùng Nhân trị, Lễ

2


3

trị để chấm dứt chiến tranh, Khôi phục lại nhà Chu, giảI quyết được mâu
thuẫn của xã hội lúc bấy giờ.

Đến thời chiến quốc, Nho giáo được Mạnh Tử và Tuân tử hoàn
thiện và phát triển theo hai hướng khác nhau, trong đó dịng Nho khổng Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và
một số nước lân cận trong đó có Việt Nam.

Trung hoa cổ đại là một trong những cái nôi của nền văn hố văn
minh nhân loại, có phần hơn cả La mã cổ đại. Đây là một quốc gia rộng
lớn có hai miền khác nhau. Miền Bắc có lưu vực sơng Hồng Hà, xa
biển, khí hậu lạnh, đất đai khơ, cây cỏ thưa thớt, sản vật hiếm hoi. Miền
Nam có lưu vực sơng Dương Tử khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi, sản
vật phong phú.
Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III. tr
thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên ở Trung Quốc đã hình thành xã
hội có giai cấp đó là các thời đại: Hạ - Ân Thương. Đến thời nhà Chu (từ
thế kỷ XI đến năm 221 trước công nguyên) xã hội Trung Quốc bước vào
một thời kỳ có nhiều biến động mạnh mẽ toàn diện và kéo dài cho đến
cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ
Xuân Thu - Chiến quốc. (Thời Xuân Thu từ thế kỷ thứ VIII đến năm
481 trước công nguyên. Thời chiến quốc từ năm 481 đến năm 221 trước
công nguyên). Ở thời kỳ này công cụ lao động bằng sắt xuất hiện đã đem
lại sự phát triển mạnh mẽ cho nền sản xuất nông nghiệp và thủ công
nghiệp, đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Do
3


4

phát triển sức sản xuất xã hội, đất đai do người dân vỡ hoang trở thành
ruộng tư ngày càng tăng, bọn quý tộc có quyền thế chiếm đoạt ruộng đất
ngày càng nhiều. Chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành, sang
thời chiến quốc kinh tế tiếp tục phát triển mạnh do có chế độ mua bán

ruộng đất tự do. Bọn quý tộc và thương nhân chiếm được nhiều ruộng
đất của nông dân trở thành những địa chủ lớn, chúng chuyển sang hình
thức th mướn nhân cơng và cho phát canh thu tô. Đến đây quan hệ sản
xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong đời
sống xã hội.
Về chính trị xã hội đây là thời kỳ phong kiến hoá xã hội Trung
Quốc, do kinh tế phát triển đặc biệt là sự xuất hiện của tầng lớp địa chủ
ngày càng giàu có lấn áp tầng lớp quý tộc thị tộc cũ đã làm cho quyền
lực của nhà Chu ngày càng suy giảm. Suốt thời xuân thu mệnh lệnh của
Thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự, lễ nghi cương
thường bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi, “vương đạo suy vi, bá đạo trị vì”,
các nước chư hầu đánh nhau liên miên, chiến tranh liên tục và tàn khốc,
đời sống nhân dân càng thêm khốn cùng, trật tự xã hội bị đảo lộn, đời
sống nhân dân li tán. Trong lòng xã hội Trung Quốc thời kỳ này chứa
đựng hàng loạt những mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết nhằm giải thế
chế độ nô lệ thị tộc tiến lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử đó
địi hỏi các nhà tư tưởng của xã hội Trung hoa đương thời phải tìm cách
lý giải một câu hỏi lớn của thời đại là làm thế nào để xã hội từ loạn
thành trị và kết quả là hàng loạt hệ thống các quan điểm về chính trị xã
hội, đạo đức, triết học, giáo dục...đã xuất hiện, như Nho gia, Đạo gia,
4


5

Pháp gia, Mặc gia. Vì vậy, thời kỳ này cịn gọi là thời kỳ “Bách gia
tranh minh”, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền tư tưởng triết
học, chính trị đạo đức xã hội Trung Quốc cổ Trung đại.

Kinh điển của Nho giáo gồm tứ thư (trung dung, đại học, luận ngữ

và Mạnh tử), ngũ kinh (lễ, thi, thư, nhạc và xuân thu).
Nho giáo tập trung bàn về xã hội, về chính trị, đạo đức đó là những tư
tưởng cốt lõi của Nho giáo.
Nho gia quan niệm trời là cái bất biến, cùng mục đích với con người,
con người có thể hiểu được trời đất. Nho gia chủ trương xây dựng, tổ chức
đời
sống xã hội theo đạo trời (nền thiên trị).

Tư tưởng “thiên trị” hiện ở chỗ: lấy trời làm cứu cánh cho việc trị
nước (vua thay trời hành đạo), trị nước theo luật của tự nhiên “thiên
tạo”, còn các luật do con người đặt ra là “nhân tạo” đều cố sức tránh, nếu
bất đắc dĩ phải lập ra, thì chỉ cốt dùng tạm thời.
Nho gia cho rằng một xã hội thịnh trị khi xã hội đó có chủ nghĩa, có
tơn tin trật tự trên dưới, có đường lối tổ chức, dân chúng được giáo hoá,
thuận trời đất, lòng người...ngược lại, xã hội sẽ loạn khi lòng người xa

5


6

rời đạo lý, khinh thị cương thường, vua không ra vua, tơi khơng ra tơi,
xã hội khơng cịn tơn ti trật tự.
Để đổi loạn thành trị, Nho gia chủ trương thuyết “chính danh”.
Khổng tử giải thích: “chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng”
“chính danh” thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người
ấy, trên dưới vua tôi, cha con vợ chồng trật tự phân minh, và muốn trị
nước trước tiên phải sửa cho “chính danh”, vì nếu “danh khơng chính
thì ngơn khơng thuận, ngơn khơng thuận thì việc khơng thành, việc
khơng thành thì lễ nhạc khơng hưng thịnh, lễ nhạc khơng hưng thịnh

thì hình phạt khơng đúng, hình phạt khơng đúng thì dân khơng biết đặt
tay làm, đặt chân đứng vào đâu”.
Để thực hiện chính danh, Nho giáo chủ trương “tu thân” theo ngũ
luân, ngũ thường.
Ngũ luân là năm mối quan hệ quân - thần, phụ - tử, phu - phụ,
huynh - đệ, bằng - hữu. Trong năm mối quan hệ đó có ba mối quan hệ
rường cột (quân - thần, phụ - tử, phu - phụ) gọi là tam cương. Nguyên
tắc tu thân theo ngũ luân đòi hỏi: Quân nhân - thần trung, phụ tử - tử
hiếu, phu nghĩa - phụ thính, huynh lương - đệ đễ và bằng hữu phải thành
tín.
Ngũ thường là năm phẩm chất của con người (nhân, lễ, nghĩa, trí,
tín) trong tu thân cần rèn luyện. Trong việc trị nước tu thân khổng tử đặc
biệt quan tâm đến “nhân” và “lễ”.
“Nhân” là đức tính tồn thiện, là cái gốc đạo đức của con người.
Chữ “nhân” theo Nho gia bao hàm một nội dung hết sức rộng lớn, nhân
6


7

là thương yêu người, tôn trọng người hiền, nhân là lịng người, tính
người, là quan hệ giữa người với người, điều gì mà mình khơng muốn
thì đừng đem áp dụng cho ngươi khác,...
“Lễ” là những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự
xã hội và cả thể chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tang, tử, tế lễ, triều
sinh, luật lệ, hình pháp...
“Lễ” quan hệ chặt chẽ với “nhân”, “nhân” là chất là nội dung, “lễ”
là hình thức biểu hiện của “nhân”. Vì thế Khổng tử khuyên con người ta:
“chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ và chớ
làm điều trái lễ”.

Theo Nho gia, người muốn đạt đức nhân còn phải là người có “trí”
và “dũng”, có thể có người “trí” mà khơng “nhân” nhưng khơng thể là
“nhân” mà thiếu “trí”. Nhưng vì tin theo “thiên mệnh” nên trong quan
niệm về “trí” một mặt khổng tử tin rằng con người sinh ra tự nhiên biết
được đạo lý là con người cao thượng. Mặt khác ơng lại quan niệm trí
khơng phải là ngẫu nhiên mà có, nó chỉ được hình thành khi người ta trải
qua quá trình học tập, tu dưỡng, vì thế ơng chủ trương “hữu giáo vơ
loại” nhưng ơng lại quan niệm đối với dân, việc gì cần làm thì cứ sai
khiến người ta làm, khơng nên giảng giải vì dân khơng có khả năng hiểu
được nghĩa lý sâu xa. Rõ ràng, đằng sau quan điểm hợp lý của khổng tử,
lại ẩn dấu sự phân biệt thứ bậc đẳng cấp xã hội mà ơng hầu như khơng
thể thốt ra khỏi thiên kiến và sự ràng buộc đó.
Để xây dựng một xã hội yên bình, Nho gia đặt ra yêu cầu rất cao đối
với việc tu thân của các bậc đế vương, hiền thần. Quan niệm của Nho gia
7


8

đế vương là người quán tam tài, nối kết trời - đất - người. Ảnh hưởng
của đế vương sẽ qua các trung gian hiền thần mà thấu đến bách tính,
bách tính hấp thụ được ảnh hưởng ấy sẽ được giáo hố, sẽ được hồn
cải.
Như vậy, quan niệm về ln lý, đạo đức, chính trị xã hội của khổng
tử có nội dung hết sức phong phú, thống nhất với nhau và luôn thâm
nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó ln cố gắng giải đáp
những vấn đề đặt ra của lịch sử. Song do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và
lợi ích giai cấp, học thuyết của ông luôn chứa đựng được những mâu
thuẫn, giằng co, đan xen giữa yếu tố duy vật, vô thần và những yếu tố
duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những quan điểm bảo thủ nó

phản ánh tâm trạng của ông trước biến chuyển của thời cuộc.
Sau khi khổng tử mất, học thuyết của ông tiếp tục được các thế hệ
sau lưu giữ và phát triển, trở thành một trường phái triết học lớn ở Trung
Quốc. Học thuyết của ông được các giai cấp thống trị cải biến và dùng
làm tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Trung Quốc và
ngày nay Nho giáo vẫn còn những ảnh hưởng to lớn ở Trung Quốc và
các nước lân cận.
Nho giáo được truyền bá vào nước ta từ đầu Công nguyên. Đến khi
giành được độc lập dân tộc (từ thế kỷ thứ X trở đi), các triều đại phong
kiến Việt Nam thấy Nho học là học thuyết có lợi cho sự thống trị của
mình, do đó đã truyền bá và đề cao. Bắt đầu từ nhà Lý đã mở trường dạy
Nho và tổ chức các kỳ thi Nho giáo. Nhà Lê dưới thời Lê Thánh Tông đã
đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn. Từ đấy Nho giáo là một học thuyết triết
8


9

học, chính trị đạo đức xã hội giữ vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần
ở Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp và phong kiến ở
Việt Nam đã huỷ bỏ chế độ học tập và thi cử theo Nho học. Tuy vậy,
Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng lâu dài đến xã hội và con người Việt Nam
hiện nay và về sau.
Nho giáo là hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến thống trị phương
đông. Nó nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến, chứng minh
cho cái gọi là sự hợp lý của sự thống trị phong kiến và duy trì chế độ
phong kiến. Bản thân nó mang nhiều yếu tố tiêu cực mà việc xây dựng
xã hội và con người ngày nay phải tìm cách loại bỏ. Tuy vậy, là một học
thuyết tồn tại hàng nghìn năm, nó có những điều đáp ứng được những
yêu cầu của xã hội, của con người sống trong xã hội mà ngày nay có thể

cải tạo và phát huy. Nghĩa là nó có những giá trị phổ biến mang tính tồn
nhân loại mà với quan điểm khách quan, khoa học chúng ta không thể
không thừa nhận.
Một là, Nho gia đòi hỏi con người trong cuộc sống phải giải quyết
các mối quan hệ theo bản tính người của mình
Trong tiến trình lịch sử hàng triệu năm thời nguyên thuỷ và hàng
vạn năm thời cổ đại, đã xuất hiện nhiều vấn đề ngay từ thủa ban đầu của
loài người vốn đã mang tính tồn nhân loại. Trong đó, trước hết và quan
trọng nhất là việc con người phát hiện ra chính mình, suy tư về bản chất
của mình, tự nhận thức về giá trị của mình mà người Trung hoa cổ gọi
bằng chữ “Nhân” tương ứng với khái niệm “người” hay “con người” của
dân tộc Việt Nam.
9


10

Nho giáo sơ kỳ cho rằng con người phải tự phân biệt với thế giới
động vật, con người càng tiến hố thì khoảng cách giữa con người với
động vật càng xa, khoảng cách giữa con người và thế giới động vật là
thước đo sự tiến hoá và giá trị tiến hố của con người. Trong phạm vi gia
đình tơn pháp, khoảng cách tiến hoá giữa người với động vật được xác
định bằng thái độ con người đối xử với nhau khác thái độ con người đối
với động vật. Chẳng hạn đánh giá việc hiếu thảo của con cái đối với cha
mẹ khơng chỉ ở chỗ ni cha mẹ, bởi vì con người cịn có thể ni được
những lồi động vật khác nhau. Việc ni cha mẹ phải có một giá trị
người, giá trị nhân văn mà kinh điển Nho giáo gọi là “kính” để phân biệt
với việc ni thú vật, con người phân biệt và phải ngày càng phân biệt
với thú vật ở chỗ biết nhớ, biết suy nghĩ, tức là có ý thức về quá khứ
(người sinh thành ra mình) và tương lai (rồi bản thân mình cũng sẽ trở

thành cha mẹ) từ sự vật đơn giản nhất đến hiện tượng phức tạp nhất.
Chỉ có con người mới có ý thức về dịng dõi, về bố mẹ, ơng bà, tổ
tiên, cũng như về con cái cháu chắt của mình. Đó là tính lịch sử hay đặc
trưng này gắn bó với một đặc tính nhân văn khác là ý thức về gia đình ở
con người. Dù ở gần hay xa, cha mẹ vẫn theo dõi đường đi, nước bước
của con cái và con cái vẫn quan tâm tới cha mẹ. Sợi dây huyết thống
được duy trì trong khơng gian và thời gian, cái mà thế giới động vật
khơng thể có được. Đó cũng chính là tính người, một đặc trưng nhân văn
mà Nho giáo rất coi trọng.
Hơn thế nữa, từ tính người ấy sẽ dẫn thẳng tới tình người, tới quan
hệ nhân loại, bắt đầu từ gia đình. Thiếu điểm xuất phát này, con người sẽ
10


11

khơng trở thành người được. Gia đình cũng chính là hình thái căn bản
nhất để tạo thành mọi hình thái xã hội. Tình yêu gia đình là mầm mống
duy nhất phát triển thành tình yêu quê hương và các đức tính nhân ái xã
hội khác, Nho giáo địi hỏi ở gia đình một tổ chức ngăn nắp, phải được
xây dựng trên mọi quan hệ huyết thống, lòng hiếu thảo, sự hiểu biết tin
cậy lẫn nhau của các thành viên tạo nên sự nương tựa vững chắc để cộng
sinh. Nho giáo đòi hỏi “cha ra cha, con ra con”, con phải kính trọng cha
mẹ, cha mẹ phải có tình thương, “làm cha ra cha” là lúc sống có chí
hướng đúng cho con cái trông vào, lúc chết để lại hành vi tốt cho con
cháu bắt chước.
Con người trong Nho giáo là con người có và phải có ý thức về gia
đình, về cộng đồng, về quốc gia, về sự tiến hoá văn minh do các thế hệ
kế tiếp nhau tạo nên, đó chính là ý niệm lịch sử của con người và chỉ có
con người mới có. Động vật cao cấp gần nhất với con người đã biết kiếm

và cầm một cơng cụ như cái gậy thậm chí biết chắp nối mấy khúc thành
một cái que dài để chọc quả trên cây cao làm thức ăn sinh sống. Nhưng
làm song là bỏ khơng hề đối hồi gì về cơng cụ, về việc đã làm (q
khứ) và hồn tồn khơng có ý thức gì lưu truyền lại cho thế hệ sau
(tương lai). Chỉ có con người mới có ý niệm về quá khứ, về tương lai và
do đó cũng chỉ có con người mới có ý thức về trách nhiệm đối với thế hệ
sau của mình. Ý niệm đó phải hình thành với thời gian hàng triệu năm
nhưng ý thức đó thì khơng phải đã có mặt đầy đủ trong tất cả các học
thuyết tư tưởng hình thành ở các trung tâm văn minh đầu tiên của loài
người.
11


12

Ý nghĩa và giá trị nhân văn nói trên thực sự có ý nghĩa phổ biến
tồn nhân loại. Tuy hàng ngàn năm bị bó chặt trong hệ quy chiếu của
thời nô lệ hoặc thời quân chủ phong kiến, nhưng ý nghĩa tồn nhân loại
ấy khơng thể mai một. Nhờ đó mà hàng mấy ngàn năm trôi qua, với bao
biến loại, chiến tranh và chết chóc, đói khát và ốm đau, tật nguyền,
nhưng vượt lên trên tất cả những thứ đó, con người vẫn tiếp tục tồn tại
sao cho thế hệ sau kế thừa và rồi “khôn” hơn thế hệ trước.
Ảnh hưởng của yếu tố tồn nhân loại nói trên trong Nho giáo cực kỳ
sâu xa và mạnh mẽ trong tâm thức người Việt Nam và tạo thành một nếp
văn hoá cho đến hiện nay, vô luận kỷ cương trật tự xã hội và gia đình có
khủng hoảng trầm trọng đến đâu chăng nữa, nhưng bất cứ một sự hỗn
hào, bạc đãi của bất cứ ai, ở thứ bậc xã hội nào đối với cha mẹ và ông bà
đều bị phản đối và coi khinh.
Hai là, Nho giáo yêu cầu phải biết trọng sự sống và giá trị sự sống
của con người.

Trong ba việc mà khổng tử thận trọng hơn hết thì có hai việc trực
tiếp liên quan tới sự sống của con người là chiến tranh và bệnh tật. Hơn
thế nữa ngay cả việc dùng gỗ đẽo thành hình người để dùng vào việc
tuẫn táng (thay cho người sống) cũng bị khổng tử kịch liệt phản đối bằng
một lời hết sức nặng nề đối với tâm thức Nho giáo, là “phường vơ hậu”
(kẻ khơng có người nối dõi). Người sáng lập ra Nho giáo sơ kỳ không
chấp nhận bất kỳ hành vi nào coi thường giá trị sinh mạng của con
người, coi thường sự sống của con người.

12


13

Trước khi sự sống và giá trị sự sống của từng con người được xác
định như một quyền sống gắn liền với quyền con người và được ghi
nhận ở hai văn bản tuyên ngôn ra đời trong cách mạng tư sản hoa kỳ
(1776) và cách mạng tư sản Pháp (1789) thì ta khơng thể khơng thừa
nhận rằng u cầu coi trọng sinh mệnh, coi trọng sự sống của con
người trong Nho giáo sơ kỳ thực sự mang tính chất nhân văn và có
một giá trị phổ biến tồn nhân loại, chạy suốt trong lịch sử tư tưởng
nhân loại từ cổ đại đến hiện đại. Vấn đề đáng chú ý là Nho giáo yêu
cầu phải tôn trọng sự sống của con người nhưng cũng đồng thời đòi
hỏi rằng: đã sinh ra là người mà muốn sống cho ra người (“thành
nhân”) thì ít nhất không thể sống lười biếng. Yêu cầu này của Nho
giáo sơ kỳ thời Khổng Tử rất cao, không phải chỉ với những bậc đế
vương, quân tử mà ngay cả đối với người thường thì người sáng lập
Nho giáo cũng đề ra một chuẩn mực của giá trị làm người là không
sống cẩu thả cầu may mà luôn dụng tâm làm một việc gì đó.
Nho giáo cũng đặt ra yêu cầu cho con người là sống không tách

rời xã hội, tách rời đồng loại. Con người sống phải mang tính xã hội,
tách khỏi xã hội, khỏi cộng đồng thì có nghĩa là tự phủ nhận ý nghĩa
và giá trị làm người của mình, do đó con người trước hết là con
người của bổn phận, của nghĩa vụ, vừa không thể sống cẩu thả cầu
may, vừa không thể sống lấy một mình được. Dù đó là quan niệm
chưa ra khỏi hệ quy chiếu của thời đại khổng tử trong đó con người
cá nhân - nhân cách chưa xuất hiện nhưng rõ ràng quan niệm đó của
Nho giáo sơ kỳ thực sự có tính nhân văn nhân loại suốt hàng chục thế kỷ
13


14

qua do quan niệm mang tính nhân văn đó mà Nho giáo đã đóng được vai
trị chủ thể tư tưởng trong việc tạo ra được những con người góp phần
xây dựng xã hội, thúc đẩy lịch sử vốn chậm chạp và ì ạch của phương
đơng, xây dựng nên được Nhà nước qn chủ tập quyền phong
kiến...Chính vì vậy, mà đã có khơng ít người trong họ đã tự vượt bản
thân mình, vượt cả ra khỏi khn khổ Nho giáo, tới mức tìm lẽ phải xã
hội ở ngồi Nho giáo.
Ý nghĩa tồn nhân loại của quan niệm trên thực có giá trị rất lớn ở
thời đại chúng ta nếu chúng ta biết khai thác hợp lý trong việc xây dựng
con người Việt Nam mới góp phần tạo ra được mục tiêu và động lực
phát triển xã hội.
Ba là, Nho giáo chấp nhận khát vọng hạnh phúc của con người và
cố hết sức tìm cách đáp ứng khát vọng hạnh phúc của con người.
Dù rằng đây chỉ là con người trong hệ quy chiếu cổ đại (nơ lệ hoặc phong
kiến) nhưng nó có ảnh hưởng sâu đậm trong ý thức và tâm thức con người Việt
Nam tới tận ngày nay. Khát vọng về hạnh phúc của con người theo khổng tử gắn
liền với khát vọng hoàn thiện nhân cách và hoàn thiện nghĩa vụ làm người. Khát

vọng hạnh phúc của con người gắn liền với đời sống hiện thực của họ, thông qua
các quan hệ của họ với cộng đồng “lý”, “hương”, “gia”, “bang”, “thành”, “
quốc”...Để đạt được hạnh phúc ấy cần phải có ba điều kiện...được hưởng sự
đơng đúc trù mật, sự giàu có và được giáo dục lẽ phải ở đời.
Với Mạnh tử, khát vọng hạnh phúc của con người thiên về yêu cầu
đáp ứng điều kiện sống của con người (với tư cách thành viên của một
“ấp”, một “bang”, một “thành”...) sao cho con người đạt được khát vọng
14


15

“nuôi người sống được no ấm, chôn cất người chết được đủ lễ, lịng dạ
chẳng có gì phải sầu ốn”.
Nhưng để đạt được điều đó phải có “Hằng sản” của cải bền vững
như ruộng vườn nhà cửa...hơn thế nữa, Mạnh tử cho rằng, cái “Hằng
sản” ấy là điều kiện để con người giữ được nhân tính tốt đẹp mà Mạnh
tử gọi là “Hằng tâm”. Thậm chí Mạnh tử cho rằng nếu điều kiện “Hằng
sản” khơng cịn được bảo tồn thì cũng không thể trách cứ sự thiếu vắng
“Hằng tâm” nơi con người. Ơng khẳng định: Nếu khơng có “Hằng sản”
thì người dân chỉ lo vật lộn với cái chết mà cịn sợ chẳng kham nổi,
huống chi lại cịn vui gì mà giữ gìn lễ với nghĩa. Dù trong Nho giáo sơ
kỳ khát vọng hạnh phúc của con người bị chế ước nặng nề trong lễ giáo
tôn pháp đến thế nào đi nữa nhưng ở thời đại chúng ta, chúng ta khơng
thể phủ nhận tính nhân văn tồn nhân loại của nó về khát vọng hạnh
phúc.
Quan niệm về hạnh phúc nói trên của Mạnh tử đã ảnh hưởng tới con
người Việt Nam hết sức sâu đậm không phải chỉ ở dưới chế độ phong
kiến mà cả trong xã hội ta ngày nay, nhất là trong đời sống nông thôn
của người nông dân Việt Nam. Khát vọng ấy được chế định thành những

quy phạm tâm lý và chuyển thành những hình ảnh rất quen thuộc với
tâm thức người nông dân: luỹ tre, giếng nước, sân đình, bàn thờ tổ tiên,
nén nhang ngày giỗ, ngày tết cho đến bát canh cho người già, tấm áo
mới cho con trẻ, thượng gia hạ điền, ruộng liền ao cá...tất cả những cái
đó chính là những đường nét tạo thành bức tranh văn hoá thể hiện khát

15


16

vọng hạnh phúc, vừa cổ truyền, vừa cổ điển của người nông dân Việt
Nam.
Đối với người nông dân hiện nay ảnh hưởng trên còn sâu nặng
trong cách quan niệm cũng như trong tâm thức. Sự thật là nhận thức về
hạnh phúc, về khát vọng hạnh phúc của đa số người Việt Nam từ sau
cách mạng Tháng 8/1945 đến nay vẫn chưa vượt xa được hai khái niệm
“Hằng sản” và “Hằng tâm” mà Mạnh tử đề xuất và luận chứng là bao
nhiêu.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay dưới tác động của cơ chế thị
trường cả ở những mặt tích cực và hạn chế của nó, vừa tạo ra khát vọng
mới về hạnh phúc, tạo ra cả điều kiện vật chất và tinh thần về một cuộc
sống hạnh phúc mới mà mục tiêu chúng ta hướng tới là xây dựng một xã
hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời nó
cũng là cái cơ sở để một bộ phận con người Việt Nam hiện đại quay về
với khát vọng hạnh phúc cổ truyền Nho giáo hàng ngàn năm qua, trong
đó hàm chứa một số giá trị tồn nhân loại. Một điều thực tế mà chúng ta
phải thừa nhận là trong xã hội ta hiện nay có một bộ phận dân cư có tâm
trạng chán trường khơng cịn đủ niềm tin vào hiện tại, vì vậy mà người
ta có xu hướng quay về với khát vọng hạnh phúc cổ truyền. Người ta

khơng quay về với nó sao được khi mà vật lộn mãi với cuộc sống mưu
sinh mà cái nghèo, cái đói vẫn dai dẳng, trong khi đó họ khơng hiểu vì
sao mà một số người giàu nhanh như vậy, khi mà đạo đức, lối sống có
mặt xuống cấp nghiêm trọng, khi tình người phai nhạt, khi tệ nạn xã hội
phát triển, thuần phong mỹ tục đảo lộn, môi trường ô nhiễm...
16


17

Con người trên hành tinh này, dù là phương đông hay phương tây, sinh
ra rồi chết đi nhưng khát vọng về hạnh phúc thì sống mãi với con người.
Khơng có khát vọng về hạnh phúc dù ở mức thấp nhất theo kiểu cổ điển và cổ
truyền thì làm sao có được ý niệm về tương lai và niềm tin vào tương lai
được.
Tuy nhiên, do là hệ tương tưởng của giai cấp phong kiến thống trị
phương đông, là lý luận nhằm duy trì, bảo vệ chế độ phong kiến, Nho
giáo đã không thừa nhận bất cứ một tư duy và hành động cách mạng nào
của con người. Nho giáo thực sự là trở lực kìm nén sự phát triển của xã
hội và con người Việt Nam. Về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Lý luận của khổng tử là một thứ khoa học về kinh nghiệm
đạo đức và về sự trang nhã. Về căn bản chủ nghĩa khổng tử chỉ là sự
bình n trong xã hội khơng bao giờ thay đổi” 1. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu kế thừa những giá trị hợp lý của Nho giáo phải hết sức khoa
học và phải phát triển nó sao cho phù hợp với công cuộc đổi mới ở nước
ta hiện nay.
Trong quá trình xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại những ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo trong tập thể quân nhân và trong từng quân nhân dù là tự giác
hay khơng thì đó vẫn là một thực tế.

Những tư tưởng, tác phong quan liêu gia trưởng, xa rời thực tế, đặc
quyền, đặc lợi...Vốn bắt nguồn từ Nho giáo thì chúng ta phải phê phán
gạt bỏ. Nhưng khơng phải mọi cái của Nho giáo đều đã lỗi thời, đều
1 Hồ Chí Minh, Văn hố nghệ thuật cũng là mặt trận, Nxb Văn học, H. 1981, tr. 477

17


18

khơng cịn giá trị mà chúng ta cần kế thừa và phát huy cho phù hợp với
quá trình xây dựng phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật
cho quân nhân và tập thể quân nhân. Những tư tưởng yêu người (qua
chữ nhân), ý thức trách nhiệm đối với xã hội, với người khác (ngũ luân),
tinh thần gương mẫu trước người khác và qua công việc (qua việc tu
thân), ý chí thực hiện lý tưởng (chí ở đạo)...là những yếu tố tích cực có
thể kế thừa và phát huy trong giáo dục xây dựng phẩm chất chính trị tinh
thần, xây dựng ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng trong rèn luyện kỷ
luật xây dựng chính quy cho quân nhân và tập thể quân nhân.

18



×