phòng giáo dục đào tạo nam đàn
tr ờng thcs h ng thái nghĩa
sáng kiến kinh nghiệm
tên đề tài:
hớng dẫn học sinh học bài và làm bài tập ở nhà
giáo viên : trần thị thu thủy
n ăm học: 2008 - 2009
1
phần thứ nhất
mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
a) Cơ sở lý luận:
Toán học là môn khoa học tự nhiên gây nhiều hứng thú cho học sinh, nó là
môn học rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình học tập, nghiên cứu và cả
cuộc sống hàng ngày. Một nhà toán học và s phạm nổi tiếng đã nói: Toán học đ-
ợc xem là một khoa học chứng minh.
Nhng đó chỉ là một khía cạnh, toán học phải đợc trình bày dới hình thức hoàn
chỉnh. Muốn vậy ngời học phải nắm vững các kiến thức toán học từ thấp đến cao,
phải học toán thờng xuyên liên tục, biết quan sát , dự đoán phối hợp và sáng tạo,
phải tự lực tiếp thu kiến thức qua hoạt động đích thực của bản thân.
Ngày nay học sinh luôn đợc tiếp cận với nhiều kiến thức khoa học tiên tiến ,với
nhiều môn học mới lại đầy hấp dẫn nhằm hoàn thiện và bắt kịp công cuộc đổi
mới , phát triển toàn diện của đất nớc. Trong các môn học ở trờng phổ thông, toán
học đợc xem là môn học cơ bản, là nền tảng để các em phát huy năng lực của bản
thân trong việc tiếp thu và học tập các môn khoa học khác. Tuy nhiên để học sinh
học tập tốt môn toán thì giáo viên phải cung cấp đầy đủ lợng kiến thức cần thiết,
cần đổi mới các phơng pháp dạy học, làm cho các em trở nên yêu thích toán học
hơn, vì có yêu thích mới dành nhiều thời gian để học toán. Từ đó các em tự ý thức
trong học tập và phân bổ thời gian hợp lý đảm bảo yêu cầu học tập của thời đại
mới.
b) Cơ sở thực tiễn:
Muốn đạt kết quả cao trong học tập môn toán, ngoài sự tập trung chú ý trong
nghe giảng, tích cực phát biểu ý kiến, hoc sinh còn cần phải chăm chỉ học bài và
làm bài ở nhà.
Ông cha ta có câu văn ôn , võ luyện hay Bác Hồ đã dạy học phải đi đôi
với hành . Nếu ta chỉ học tập trên lớp mà không ôn bài, không vận dụng kiến
thức đã học để giải bài tập cũng nh liên hệ với thực tiễn cuộc sống thì trớc hết là
t duy kém phát triển ảnh hởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách con ngời . Vì
rằng nh ĐêCác và Leibnitz đã nói Giải toán là một nghệ thuật thực hành giống
nh bơi lội , trợt tuyết hay chơi đàn. Có thể học đựơc nghệ thuật đó, chỉ cần bắt ch-
ớc theo những mẫu mực đúng đắn và thờng xuyên thực hành. Không có chìa khoá
nào thần kì để mở mọi cửa ngõ, không có hòn đá thần kì để biến mọi kim loại
thành vàng.
Do đó vấn đề học bài và làm bài tập ở nhà trở thành vô cùng quan trọng đối
với tất cả học sinh. Hiện nay, do thay đổi chơng trình và phơng pháp giảng dạy
nên vấn đề học bài và làm bài tập ở nhà cần phải đặt lên vị trí hàng đầu. Vấn đề
2
này trở thành một chuyên mục mà nhiều thầy cô giáo phải quan tâm. Nhng học
bài và làm bài tập ở nhà nh thế nào cho đạt đợc kết quả cao trong học tập lại là
một việc làm không đơn giản. Bởi vì nó là một vấn đề trọng tâm mang tính chất
tổng hợp lại phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan cũng nh chủ quan. Không thể áp
dụng máy móc cho tất cả các bài học, bài tập hay các đối tợng mà phải linh hoạt,
uyển chuyển theo nội dung kiến thức cần truyền thụ, theo trọng tâm yêu cầu của
từng bài giảng để phù hợp với cách học nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
2. Mục đích nghiên cứu:
Chỉ ra những hoạt động cụ thể học sinh cần phải làm gì.
Chỉ ra những phơng pháp học bài và làm bài tập ở nhà.
Nâng cao chất lợng học tập.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ khái quát: Nêu những phơng pháp học bài và làm bài ở nhà theo nội
dung chơng trình mới.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Tìm hiểu thực trạng học sinh.
- Những phơng pháp đã thực hiện
- Những chuyển biến sau khi áp dụng
- Bài học kinh nghiệm
4. Đối t ợng nghiên cứu :
Học sinh lớp 6A
4
, 6A
5
trờng THCS Hng Thái Nghĩa, Nam đàn, Nghệ An.
5. Ph ơng pháp nghiên cứu :
- Tìm hiểu tình hình học tập của học sinh.
- Phơng pháp đọc sách và tài liệu
- Phơng pháp nghiên cứu sản phẩm
- Phơng pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phơng pháp thực nghiệm
- Phơng pháp đàm thoại nghiên cứu vấn đề
6. Cơ sở nghiên cứu:
Khối lớp 6 Trờng THCS Hng Thái Nghĩa
Phần thứ hai
Nội dung
1.Thực trạng nảy sinh kinh nghiệm:
a)Đặc điểm tình hình lớp:
-Khối lớp 6 có số lợng học sinh không đồng đều về nhận thức gây khó khăn cho
giáo viên trong việc lựa chọn phơng pháp phù hợp. Nhiều học sinh có hoàn cảnh
3
khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần do đó việc đầu t về thời gian và sách vở cho
học tập bị hạn chế nhiều và ảnh hởng không nhỏ đến sự nhận thức và phát triển
của các em.
-Sau khi nhận lớp và dạy một thời gian tôi đã tiến hành điều tra cơ bản thì thấy:
+ Lớp 6A
4
: Số em lời học bài, lời làm bài tập chiếm khoảng 75%; số học sinh
nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào bài tập có khoảng 25%, số học sinh biết
phối hợp các kiến thức,kỹ năng để học toán chiếm khoảng 25%.
+ Lớp 6A
5
: Số em lời học và lời làm bài tập chiếm khoảng 85% ; số em nắm
chắc kiến thức và biết vận dụng chiếm khoảng 15%, số các em biết phối hợp các
kiến thức kỹ năng để học toán chiếm khoảng 24%
b)Thực trạng học sinh:
Đa số học sinh hay thỏa mãn trong học tập, các em cho rằng các kiến thức đợc
trình bày trong sách giáo khoa là kết tinh của các nhà toán học đó là những kiến
thức đầy đủ nhất và chỉ cần học thuộc lòng nó để vận dụng vào làm các bài tập là
xong. Chính vì vậy học sinh tiếp thu một cách thụ động, không cần suy nghĩ maỳ
mò để tự mình khám phá ra kiến thức mới nh một khái niệm, một định lý hay một
tính chất nào đó...và những kiến thức đó không ăn sâu vào trí óc của học sinh, làm
cho học sinh quen khi vận dụng vào làm các bài tập .Cụ thể qua điều tra ban đầu :
Lớp TS Giỏi Khá T b Yếu Kém
HS TS % TS % TS % TS % TS %
6A
4
30 0 0 3 10 15 50 12 40 0 0
6A
5
32 0 0 3 9,4 13 40 15 47 1 3,6
62 0 0 6 9,8 28 45 27 43,6 1 1,6
c)Nguyên nhân:
- Các em cha có ý thức tự giác trong học tập , cha có kế hoạch về thời gian
hợp lý khi tự học ở nhà.
- Còn ham chơi ,học còn mang tính chất để lấy điểm , cha nắm vững hiểu sâu
kiến thức toán học,không tự ôn luyện một cách thờng xuyên có hệ thống.
- Trong lớp cha thật tập trung chú ý vào bài giảng của thầy cô cha chịu đào
sâu suy nghĩ để phát triển ra các kiến thức mới.
- Cha biết sử dụng đúng sách giáo khoa , sách nâng cao vừa sức, còn hiện tợng
dấu dốt không chịu học hỏi bạn bè.
Để khắc phục những tình trạng trên nhằm nâng cao chất lợng cho học sinh và làm
cho học sinh yêu thích môn toán hơn. Tôi đã tiến hành các biện pháp giáo dục dới
đây:
I) Tự học, tự rèn luyện và tự giác trong học tập
Ai cũng biết rằng ăn để mà sống , mà tồn tại và không ai có thể ăn thay đợc.
Muốn tồn tại ,muốn sống và phát triển thì bản thân con ngời trớc hết phải tự ăn
4
có thực mới vực đợc đạo . Và rằng ai cũng hiểu muốn có trí thức thì mỗi con
ngời đều phải tự học , tự rèn luyện không ai có thể học thay đợc cho mình, mà
phải tự lao động để kiếm sống. Trong cuộc đời , bố mẹ, thầy cô giáo không thể
nắm tay dẫn dắt,che chở cho các em mãi đợc. Do đó vai trò tự học tự rèn luyện
giải bài tập là yếu tố cơ bản nhấtquyết định thắng lợi. Mỗi thành công là 99% mồ
hôi và nớc mắt, chỉ còn lại 1% là bẩm sinh.
Hớng dẫn học sinh học bài và làm bài tập ở nhà trớc hết cần phải xác định cho các
em ý thức học tập tụ giác. Cụ thể học tập vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ; vừa là
học vừa cũng là chơi vì chơi để mà học , học để mà chơi. Không câu nệ, gò bó các
em, bắt các em phải học nhiều bằng cách ra nhiều câu hỏi và bài tập. Chỉ nên ra
những câu hỏi trọng tâm, bài tậo đơn giản dễ hiểu, dễ nhớ đáp ứng với yêu cầu nội
dung bài giảng là đủ. Nh vậy tự học ở nhà , rèn luyện cho các em thói quen độc
lập suy nghĩ, khong lùi bớc trớc những câu hỏi khó , bài tập khó.
II) Tinh thần vợt khó hăng say hứng thú trong học va làm bài:
Trớc hết phải đề cao tinh thần ý chí vợt khó khăn, say sa yêu thích môn . Học
toán quả thật không phải chuyện dễ. Bởi vì toán học đòi hỏi t duy lập lụan logic
chính xác, chặt chẽ. Kết quả lại phải đúng với thực tế, yêu cầu cờng độ học tập
cũng nh thời gian nhiều hơn so với các môn khác. Nếu không có tinh thần vợt khó
thì không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Một khái niệm, một định nghĩa, công thức, định lí, .ch a hiểu hay một bài toán
cha giải đợc có thể làm cho em chán nản , thiếu tự tin rồi đi đến nản chívà không
muốn học môn toán. Hễ có giờ toán là các em lo sợ . Các thầy cô giáo phải hiểu
tâm líhọc toán của học sinh để khắc phục nhợc điểm sợ học môn toán . Mặt
khác kiến thức toán học thực sự có mối liên hệ móc xích, hữu cơ xuyên suốt trong
chơng trình toán học ở tất cả các lớp . Không hiểu kiến thức cơ bản ở lớp dới thì
khó có thể lĩnh hội các kiến thức ở lớp cao hơn. Thông thờng các em cha thực sự
thành thạo kĩ năng thực hiện các phép tính nên ảnh hởng tới tiếp thu bài mới, đó
là cha nói đến việc giải các bài tập. Từ đó đâm ra ngại khó, lời học , lời suy nghĩ,
và sẽ không hứng thú học toán. Nhng ở đời cũng không thiếu những ví dụ về
những cái lúc đầu thì sợ, dần dần bớt sợ, đi đến làm quen,cuối cùng là thích là say
mê. Khi đã bắt đầu yêu thíchtoán rồi thì sẽ tự giác học tập, say sa học tập,nhng
cuối cùng học tập đạt kết quả cao, thì phải thờng xuyên rèn luyện phơng pháp học
tập. Tất cả mọi công việc , không có lòng đam mê, hăng say và chịu khó thì
không thể thành công. Công việc học toán cũng vậy. Do đó phải biết khơi dậy
tinh thần sáng tạo, ý chí nghị lực phi thờng của lớp trẻ , khích lệ các em hăng say
trong môn học bằng cách ra bài tập và đặt câu hỏi từ dễ đến khó, khuyến khích
cho điểm để các em phấn khởi. Cố gắng liên hệ các câu hỏi , bài tập thực tế, rút ra
cái hay cái đẹp của toán học (có thể có) trong bài học để tạo nguồn cảm hứng, say
sa học tập môn toán.
5