Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Xây dựng chế định pháp luật hôn nhân thực tế tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỌ TRƢỜNG

XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT HÔN
NHÂN THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỌ TRƢỜNG

XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT HÔN NHÂN
THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Lan

Hà Nội – 2021



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trịnh Thọ Trƣờng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nội dung chữ viết tắt

DLBK

Dân luật Bắc kỳ

DLTK

Dân luật Trung kỳ

DLYG

Dân luật Giản Yếu Nam kỳ


HĐTP

Hội đồng thẩm phán

HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

HVLL

Hồng Việt luật lệ

QTHL

Quốc triều hình luật

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

UBND

Ủy ban nhân dân

Công văn số 16


Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của
Tòa án nhân dân tối cáo Giải đáp một số vấn đề về
hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và
tố tụng.
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
của Chính phủ về đăng ký và quản lý Hộ tịch
Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết
hôn theo quy định của Nghị quyết số
35/2000/QH10
Nghị quyết số 35/2000/QH ngày 09/6/2000 của
Quốc hội hƣớng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000
Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
“hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn
nhân và gia đình năm 1986”
Thơng tƣ liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án
nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao
– Bộ tƣ pháp hƣớng dẫn thi hành một số quy định
của luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Nghị định
158/2005/NĐ-CP
Nghị định số
77/2001/NĐ-CP

Nghị quyết
35/2000/QH10

Nghị quyết số 01NQ/HĐTP
Thông tƣ liên tịch số
01/2016/TTLTTANDTCVKSNDTC-BTP


Thông tƣ liên tịch số
01/2001/TTLTTANDTCVKSNDTC-BTP
Thông tƣ 112-NCPL

Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hƣớng dẫn về
thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc
hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000
Thơng tƣ số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Tòa
án nhân dân tối cao hƣớng dẫn xử lý về dân sự
những việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu ................................................................. 4
4. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu đề tài ......................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 5
7. Cơ cấu của luận văn ...................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
VỀ HÔN NHÂN THỰC TẾ ............................................................................. 7
1.1. Khái niệm, mục đích và bản chất của hôn nhân thực tế ............................ 7

1.1.1. Khái niệm hôn nhân thực tế .................................................................... 7
1.1.2. Bản chất và mục đích của hôn nhân thực tế ......................................... 11
1.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng tới pháp luật điều chỉnh về hôn nhân thực tế ...... 15
1.3. Hệ quả của hôn nhân thực tế .................................................................... 20
1.4. Quan điểm lập pháp về hôn nhân của một số quốc gia trên thế giới ....... 23
1.4.1. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Australia .................................... 24
1.4.2. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Anh............................................. 27
1.4.3. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Mỹ .............................................. 30
1.4.4. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Pháp........................................... 32
1.4.5. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Thụy Điển .................................. 34
1.5. Thực trạng pháp luật về hôn nhân thực tế tại Việt Nam .......................... 37
1.5.1. Hôn nhân thực tế thời phong kiến ......................................................... 37
1.5.2. Hôn nhân thực tế thời Pháp thuộc ........................................................ 39
1.5.3. Hôn nhân thực tế ở miền nam Việt Nam từ 1954 đến 1975 .................. 42


1.5.4. Hôn nhân thực tế của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay ..................... 45
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HÔN NHÂN THỰC TẾ HIỆN NAY VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HÔN NHÂN THỰC TẾ
TẠI VIỆT NAM .............................................................................................. 58
2.1. Thực trạng hôn nhân thực tế tại Việt Nam............................................... 58
2.1.1. Thực trạng hôn nhân thực tế tại Việt Nam trước khi Luật HN&GĐ năm
2000 có hiệu lực .............................................................................................. 58
2.1.2. Thực trạng hôn nhân thực tế tại Việt Nam sau khi Luật HN&GĐ năm
2000 có hiệu lực .............................................................................................. 59
2.1.3. Xu hướng của hôn nhân thực tế ............................................................ 65
2.1.4. Một số vụ án cụ thể ............................................................................... 66
2.2. Giải pháp điều chỉnh hôn nhân thực tế tại Việt Nam............................... 71
2.2.1. Xây dựng khái niệm hôn nhân thực tế................................................... 71
2.2.2. Điều kiện thừa nhận hôn nhân thực tế .................................................. 72

2.2.3. Quy định quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hôn nhân thực tế ................. 75
2.2.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật. ........................................................... 78
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 84


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nói đến vấn đề gia đình ở nƣớc ta thì xuyên suốt theo chiều dài lịch sử,
đặc biệt việc kết hơn giữa nam và nữ để tạo lập gia đình đã tồn tại và hình
thành trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam từ thuở đầu dựng nƣớc. Vai trò
của gia đình Việt Nam thể hiện sức sống mãnh liệt theo lịch sử gắn liền với
4.000 năm dựng và giữ nƣớc. Chế độ pháp lý về việc kết hôn và công nhận
quan hệ giữa nam và nữ là quan hệ vợ chồng mang tính hợp pháp cũng đã và
đang thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau từ nền văn hóa nguyên thủy,
phong kiến, thuộc địa và cho đến hiện nay.
Nhắc tới nƣớc ta khi mới gây dựng đƣợc biết đến là một đất nƣớc với
nền văn minh lúa nƣớc, nhiều đồng bào dân tộc khác nhau từ đó hình thành
nên phong tục, tập qn, thói quen đặc trƣng riêng của mỗi vùng miền. Việc
kết hôn lấy vợ, lấy chồng theo tập tục ở một số đồng bào dân tộc thiểu số và
một số địa phƣơng khác chỉ cần sự đồng ý của ngƣời trƣởng bản, già làng
hoặc có sự đồng ý của cha mẹ hai bên thì đã có thể trở thành vợ chồng.
Những phong tục, tập quán về kết hôn đã ăn sâu vào tƣ tƣởng của những
ngƣời dân và chịu tác động mãnh mẽ đến đời sống hơn nhân và gia đình, làm
cho việc kết hơn mang tính tập qn mà coi nhẹ pháp luật.
Khi những văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) của
Nhà nƣớc đƣợc ban hành, việc tuân thủ pháp luật của ngƣời dân còn rất thấp.
Đối với việc kết hôn, rất nhiều trƣờng hợp nam nữ biết rõ các quy định của
pháp luật về kết hơn và có đủ điều kiện thuận lợi để đăng ký kết hôn nhƣng
họ đã không đăng ký kết hôn với ý thức coi thƣờng. Bởi vậy khi việc chung

sống giữa họ phát sinh nhƣ quan hệ vợ chồng nhƣng không đăng ký kết hơn
qua đó làm phát sinh hàng loạt những vấn đề khác nhau liên quan đến hôn
1


nhân về việc thiết lập tài sản, con cái, nuôi dƣỡng, thừa kế, bạo lực gia đình...
mà mối quan hệ này giữa nam và nữ lại không đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ. Điều
đó địi hỏi Nhà nƣớc ta cần phải xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh và
hoàn thiện chế định của tình trạng hơn nhân này.
Vì vậy việc nghiên cứu về vấn đề xây dựng chế định pháp luật hôn nhân
thực tế là vô cùng cần thiết hiện nay. Không chỉ khiến ngƣời dân hiểu đúng
khái niệm về hôn nhân thực tế, nhằm hạn chế, tháo gỡ những vấn đề bất cập
còn tồn tại trong việc định hƣớng hồn thiện pháp luật, mà cịn nhằm xây
dựng chế định hồn chỉnh về hơn nhân thực tế. Nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn của pháp luật hôn nhân thực tế, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho các đƣơng sự đặc biệt cho những ngƣời yếu thế hơn trong mối
quan hệ này là phụ nữ và trẻ em, hơn hết là tạo ra sự ổn định trong xã hội, từ
đó tác giả lựa chọn đề tài: “Xây dựng chế định pháp luật hôn nhân thực tế
tại Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề liên quan đến hôn nhân thực tế luôn đƣợc các nhà
khoa học, giảng viên, sinh viên Luật quan tâm, đặc biệt là các tổ chức, cơ
quan Nhà nƣớc và các nhà làm luật.
Trong khoa học pháp lý ở nƣớc ta, đã có những cơng trình và bài viết
khác nhau liên quan đến vấn đề này nhƣ:
(1) Đặng Thị Thơm (2014), Hưởng thừa kế theo quan hệ giữa con riêng
và bố dượng hay quan hệ hơn nhân thực tế, Tịa án nhân dân, Tòa án nhân
dân tối cao, Số 13/2014, tr. 25, 27;
(2) Đỗ Văn Đại, Lê Thị Mận (2011), Về khái niệm và hệ quả pháp lý
của hôn nhân thực tế, Khoa học pháp lý.Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ

Chí Minh,Số 1/2011, tr. 55 – 63;
2


(3) Nguyễn Đức Kiên (2001), Hôn nhân thực tế - nên thừa nhận giá trị pháp
lý từ thời điểm nào, Dân chủ và Pháp luật.Bộ Tƣ pháp, Số 1/2001, tr. 12 - 14;
(4) Nguyễn Phƣơng Lan (1995), Cần hiểu hôn nhân thực tế như thế
nào?, Tạp chí Luật học, Số 3/1995, tr. 31 – 33;
(5) Nguyễn Văn Cừ (2000), Vấn đề hôn nhân thực tế theo Luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số 5/2000, tr. 8 – 13;
(6) Nguyễn Xuân Diên (2002), Giải quyết tình trạng hôn nhân thực tế,
Nghiên cứu lập pháp.Viện Nghiên cứu lập pháp, 2002. - Số 8, tr. 72-74;
(7) Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2002), Giải quyết hôn nhân thực tế theo
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trƣờng;
Nhóm sách bình luận thƣờng không đi sâu vào vấn đề “hôn nhân thực
tế” mà chỉ tập trung vào khía cạnh chính của hơn nhân và gia đình là kết hơn,
ly hơn.
Ngồi ra, về khía cạnh đời sống xã hội vấn đề “hơn nhân thực tế” dù đã
nghiên cứu tồn diện nhƣng cịn thiếu tập trung, thƣờng mỗi một bài chỉ
nghiên cứu của một tổ chức, cá nhân cụ thể chỉ nghiên cứu về một nhóm đối
tƣợng nhất định nhƣ: cách hiểu về hơn nhân thực tế, hệ quả pháp lý của hôn
nhân thực tế, thời điểm thừa nhận hôn nhân thực tế, giải quyết tình trạng của
hơn nhân thực tế,…
Nhƣ vậy, có thể thấy dƣới góc độ là xã hội và pháp luật dù khơng nhiều
nhƣng cũng đã xuất hiện các cơng trình nghiên cứu về “hôn nhân thực tế”.
Tuy nhiên mỗi công trình nghiên cứu đã nhìn nhận và giải quyết vấn đề này ở
mỗi góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chƣa có cơng trình nào nghiên cứu
chun sâu và riêng biệt tới vấn đề xây dựng chế định pháp luật hôn nhân
thực tế. Nhận diện đƣợc vấn đề này, trên cơ sở kế thừa những thành tựu
nghiên cứu của các cơng trình cơng bố trƣớc đó, luận văn đề cập tới việc

nghiên cứu chủ yếu về khái niệm hôn nhân thực tế, đề cập tới vấn đề bất cập
3


cịn tồn tại của pháp luật điều chỉnh hơn nhân thực tế từ đó để xây dựng hồn
thiện chế định hôn nhân thực tế tạo ra sự ổn định trong xã hội.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về pháp luật hôn nhân
thực tế, các quy định của pháp luật về hôn nhân thực tế, vấn đề bất cập còn
tồn tại và thực trạng cũng nhƣ khả năng áp dụng quy định vào thực tiễn hiện
nay. Từ đó để xây dựng chế định hôn nhân thực tế đƣợc hoàn chỉnh và áp
dụng cho phù hợp hơn trong giai đoạn hiện tại. Tác giả nghiên cứu ở phạm vi
trong nƣớc để từ đó lựa chọn ra những quy định phù hợp để đƣa ra áp dụng tại
Việt Nam.
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là:
- Các vấn đề lý luận của hôn nhân thực tế
- Quy định của pháp luật về hôn nhân thực tế
- Thực trạng về hôn nhân thực tế
4. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt đƣợc mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải làm những nhiệm vụ sau:
- Phải xây dựng khái niệm, đặc điểm, bản chất của hơn nhân thực tế
- Phân tích đƣợc pháp luật điều chỉnh hôn nhân thực tế
- Xây dựng đƣợc các giải pháp hồn thiện pháp luật về hơn nhân thực tế
Từ đó, mục đích khi nghiên cứu đề tài đƣợc làm rõ nhƣ sau:
- Làm sáng tỏ đƣợc bản chất của hôn nhân thực tế
- Chỉ ra những vấn đề bất cập còn tồn tại của pháp luật điều chỉnh hôn
nhân thực tế
- Xây dựng đƣợc một hành lang pháp lý hồn chỉnh về hơn nhân thực tế
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia hôn nhân

4


thực tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, đƣờng lối của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về vấn đề hôn
nhân thực tế và việc áp dụng vấn đề này giải những vƣớng mắc còn tồn tại
trong thực tiễn đang cịn gặp phải chƣa giải quyết đƣợc. Ngồi ra cũng áp
dụng nhiều phƣơng pháp khác nhau nhƣ: phƣơng pháp phân tích, phƣơng
pháp diễn giải, phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp
lịch sử, phƣơng pháp điều tra xã hội học, phƣơng pháp thống kê, phƣơng
pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch... Trong q trình nghiên cứu có sự kết
hợp giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua đó đánh giá đƣợc bản chất của sự
vật, hiện tƣợng trong phạm vi đề tài nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt đƣợc của luận văn có ý nghĩa nhƣ sau:
- Xây dựng khái niệm sẽ giúp hiểu đúng về hôn nhân thực tế
- Xác định các vấn đề bất cập và định hƣớng cho việc hoàn thiện
pháp luật
- Xây dựng chế định hồn chỉnh về hơn nhân thực tế
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hôn nhân
thực tế
- Tạo ra sự ổn định trong xã hội.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích khơng chỉ với đội
ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có giá trị đối với các cơ quan thi hành và áp
dụng pháp luật để giải quyết những vấn đề có liên quan.

5



7. Cơ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 2 chƣơng, cụ thể:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về hôn
nhân thực tế
Chƣơng 2: Thực trạng hôn nhân thực tế hiện nay và giải pháp hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hôn nhân thực tế tại Việt Nam.

6


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH VỀ HƠN NHÂN THỰC TẾ
1.1. Khái niệm, mục đích và bản chất của hôn nhân thực tế
1.1.1. Khái niệm hôn nhân thực tế
Xét về nguyên tắc của việc kết hơn thì chỉ có những cuộc hơn nhân có
đăng ký kết hôn mới hợp pháp và mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp
lý giữa hai bên nam nữ trong quan hệ vợ chồng [16]. Tuy nhiên, trong thực
tiễn vẫn tồn tại những cuộc hôn nhân tuy không đăng ký kết hôn nhƣng vẫn
đƣợc nhà nƣớc thừa nhận. Trong những trƣờng hợp này, những cuộc hơn
nhân đó đƣợc coi là hôn nhân thực tế. Vậy cần hiểu thế nào về “hơn nhân
thực tế”? Chúng ta cần phải tìm hiểu thuật ngữ “hôn nhân thực tế” đƣợc
dùng từ khi nào để từ đó tìm câu trả lời cho câu hỏi ở trên [16].
Theo tiến trình lịch sử quay lại thời kỳ cổ luật cụ thể là thời kỳ phong
kiến, nhắc tới phải đề cập bộ luật tiêu biểu cho thời kỳ này là: Quốc triều hình
luật (hay cịn gọi là Bộ luật Hồng Đức). Các quy định của QTHL về công
nhận hôn nhân hợp pháp là khi đã thoả mãn về các điều kiện kết hơn thì chỉ
cần tn theo nghi thức kết hôn do pháp luật quy định, hai bên nam nữ sẽ

đƣợc công nhận là vợ chồng. Pháp luật ở thời kỳ này chỉ không công nhận
việc nam nữ “thành hơn với nhau một cách cẩu thả” (vì khơng đủ đồ sính lễ).
Thời kỳ này chỉ đề cao ý chí của cha mẹ họ hàng hai bên mà không quan tâm
đến vấn đề xác nhận việc kết hôn trƣớc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Từ
đó cũng là cơ sở để manh nha thuật ngữ “hôn nhân thực tế” sau này.
Đến thời kỳ Pháp thuộc, đất nƣớc ta bị chia thành ba kỳ gồm: Bắc kỳ,
Trung kỳ và Nam kỳ. Tƣơng ứng với ba bộ luật lần lƣợt là: Bộ Dân luật Bắc
kỳ năm 1931 (DLBK), Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936 (DLTK) và Tập Dân

7


luật Giản Yếu Nam kỳ năm 1883 (DLYG). Trong đó về điều kiện để hơn
nhân có giá trị pháp lý, bao gồm điều kiện nội dung và điều kiện hình thức thì
ba bộ luật này đã quy định tƣơng đối đầy đủ. Ngồi những điều kiện kết hơn
về mặt nội dung nhƣ tuổi kết hôn, sự đồng ý của cha mẹ…, thì mặt pháp lý
cũng quy định nghi thức kết hôn bao gồm: lễ ƣớc hôn và lễ kết hôn. Khi
nghiên cứu các văn bản pháp luật ở thời kỳ Pháp thuộc cho thấy các văn bản
này chỉ thừa nhận hơn nhân hợp pháp khi có sự ghi nhận của cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền bằng việc khi họ kết hơn đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
xác nhận là “chứng thư kết hôn”. Pháp luật thời kỳ này về mặt ngun tắc là
khơng cơng nhận tình trạng nam nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà
không có “chứng thư kết hơn”. Tuy nhiên trong thực tế, pháp luật vẫn ghi nhận
và đƣa ra cách giải quyết hậu quả pháp lý của trƣờng hợp nam nữ chung sống
với nhau nhƣ vợ chồng mà không đƣợc pháp luật công nhận cụ thể là những đứa
con của họ vẫn đƣợc pháp luật thừa nhận tính hợp pháp theo Điều 197 Bộ Dân
Luật Pháp nếu: “được chứng minh bằng việc hai người đã thực tế chung sống
với nhau như vợ chồng và tình trạng này phù hợp với giấy khai sinh”.
Tại quy định của Luật HN&GĐ năm 1959 về nguyên tắc thì Luật
HN&GĐ năm 1959 khơng thừa nhận “hơn nhân thực tế”. Nhƣng do điều

kiện hoàn cảnh xã hội, ý thức pháp luật và trình độ dân trí nên trong thực tế đã
xảy ra nhiều trƣờng hợp nam nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng nhƣng
không đăng ký kết hơn. Về vấn đề này đã đƣợc Tịa án nhân dân tối cao nêu
ra đƣờng lối giải quyết tại Thông tƣ 112-NCPL ngày 19/08/1972. Tại thông
tƣ này TANDTC đã đƣa ra có thể nhƣ là một khái niệm của “hơn nhân thực
tế” đƣợc xây dựng cụ thể là: “Chỉ nên coi là hôn nhân thực tế những cuộc
hôn nhân không đăng ký, thỏa mãn các điều kiện kết hôn khác, trong đó hai
bên có ý định thực sự lấy nhau đã thực tế coi nhau như vợ - chồng, chung
sống cơng khai, gánh vác chung cơng việc gia đình, được họ hàng, xã hội coi
8


là vợ chồng[16]. Cụm từ “hôn nhân thực tế” đây là lần đầu tiên đƣợc Thông
tƣ 112-NCPL sử dụng để chỉ những quan hệ nam nữ lấy nhau nhƣng không
đăng ký kết hôn.
Tại Luật HN&GĐ năm 1986 pháp luật chỉ ghi nhận giá trị pháp lý đối
với việc kết hôn thì phải đăng ký kết hơn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
đối với mọi nghi thức kết hơn khác thì đều khơng có giá trị pháp lý. Nhƣng
đối với những nghi thức kết hơn khác ngồi cơ quan Nhà nƣớc có thẩm thì
cũng khơng đƣợc coi là trái luật và bất hợp pháp. Nghị quyết số 01NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
có hƣớng dẫn áp dụng giải quyết một số trƣờng hợp kết hôn nhƣng không
đăng ký. Thuật ngữ “hôn nhân thực tế” cũng đã không đƣợc sử dụng nữa, tuy
nhiên khi Tòa áp dụng quy định giải quyết vụ án hôn nhân đối với các trƣờng
hợp nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng nhƣng không đăng ký kết hôn để công
nhận hoặc không công nhận là vợ chồng trên thực tế thì lại đang thừa nhận
thuật ngữ “hơn nhân thực tế”. Việc giải quyết đối với các trƣờng hợp hai bên
kết hơn nhƣng khơng đăng ký, có vi phạm về điều kiện kết hôn nhƣng không
coi là kết hôn trái luật nếu một trong hai bên ly hơn Tịa án sẽ không hủy kết
hôn mà xử nhƣ việc xin ly hôn. Trên thực tế cũng không phải trƣờng hợp nào
vi phạm về hình thức kết hơn đều đƣợc coi là “hôn nhân thực tế”. Chỉ đƣợc

coi là “hôn nhân thực tế” với những trƣờng hợp hôn nhân không đăng ký kết
hôn, đáp ứng đƣợc các điều kiện kết hôn khác mà thỏa mãn các dấu hiệu về
chủ quan và khách quan nhƣ theo hƣớng dẫn tại Thông tƣ số 112-NCPL.
Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời không thừa nhận thuật ngữ “hơn nhân
thực tế”. Mà đã thay vào đó tại Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000
và Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03/01/2001 đã có sự hƣớng dẫn thay đổi hồn tồn so với các văn bản trƣớc
đó. Tại Nghị quyết 35/2000/QH10 đã không sử dụng cụm từ “hôn nhân thực
9


tế” để chỉ tình trạng nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng có đủ điều kiện kết
hơn nhƣng khơng đăng ký kết hơn thay vào đó là cụm từ “Nam và nữ chung
sống như vợ chồng”. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ coi
“hôn nhân” khi đã kết hơn rồi và có đăng ký kết hơn. Cịn đối với những
quan hệ nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì
khơng đƣợc coi là hôn nhân. Nhƣng về bản chất cụm từ “nam và nữ chung
sống như vợ chồng” cũng đang đƣợc nhiều ngƣời hiểu là “hôn nhân thực tế”.
Theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Thơng tƣ liên tịch số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì việc nam nữ chung sống nhƣ
vợ chồng chỉ đƣợc coi là có giá trị pháp lý nếu thỏa mãn các yếu tố sau:
- Họ có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000
và thuộc một trong các trƣờng hợp sau:
+ Có tổ chức lễ cƣới khi về chung sống với nhau;
+ Việc họ về chung sống với nhau đƣợc gia đình của một bên hoặc cả
hai bên chấp nhận;
+ Việc họ về chung sống đƣợc ngƣời khác hoặc tổ chức chứng kiến;
+ Họ thực sự có chung sống với nhau chăm sóc giúp đỡ và cùng nhau
xây dựng gia đình.
- Thời điểm chung sống với nhau xảy ra trƣớc ngày Luật HN&GĐ năm

2000 có hiệu lực cụ thể là trƣớc ngày 01/01/2001. Bao gồm hai trƣờng hợp
nhƣ sau:
+ Quan hệ vợ chồng đƣợc xác lập trƣớc ngày 03/01/1987 mà chƣa đăng
ký kết hơn thì đƣợc khuyến khích đăng ký kết hơn.
+ Nam và nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến
trƣớc ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn đến ngày 01/01/2003.
Nếu sau ngày 01/01/2003 không đăng ký kết hơn thì pháp luật khơng cơng
10


nhận họ là vợ chồng. Những trƣờng hợp bắt đầu chung sống từ ngày
01/01/2001 mà không đăng ký kết hôn thì khơng đƣợc cơng nhận là vợ chồng.
- Thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng không phải từ ngày họ đăng ký kết
hơn mà đƣợc tính từ thời điểm bắt đầu chung sống với nhau nhƣ vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 2014 tiếp tục kế thừa quan điểm của pháp luật
HN&GĐ năm 2000 không sử dụng cụm từ “hôn nhân thực tế” mà thay vào
đó sử dụng cụm từ “nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng” để nói về
tình trạng nam, nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng có đủ điều kiện kết hơn
nhƣng khơng đăng ký kết hôn. Vẫn tiếp tục sử dụng Thông tƣ liên tịch số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP để đƣa ra hƣớng giải quyết vấn
đề pháp lý phát sinh đối với việc nam, nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng
nhƣng không đăng ký kết hôn và điều kiện để đƣợc cơng nhận tình trạng này
có giá trị pháp lý nếu thỏa mãn các yếu tố nhƣ đã đề cập tại Thông tƣ này ở
trên. Đến ngày 06/01/2016 Nhà nƣớc ban hành Thông tƣ liên tịch số
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có hiệu lực ngày 01/03/2016 đƣa
ra hƣớng dẫn giải quyết đối với trƣờng hợp nam, nữ chung sống với nhau nhƣ
vợ chồng mà khơng có đăng ký kết hơn, khơng phân biệt vào việc có vi phạm
điều kiện kết hơn hay khơng nếu có u cầu hủy việc kết hơn trái pháp luật
hoặc u cầu ly hơn thì đƣợc giải quyết theo Điều 14, Điều 15 và Điều 16 của

Luật HN&GĐ năm 2014.
Tóm lại, xun suốt q trình phân tích có thể đƣa ra khái niệm của
“hơn nhân thực tế” nhƣ sau: Hôn nhân thực tế là việc nam, nữ tổ chức cuộc
sống chung, coi nhau là vợ chồng không vi phạm các hành vi cấm nhưng
không đăng ký kết hơn.
1.1.2. Bản chất và mục đích của hơn nhân thực tế
Xét về bản chất của “hôn nhân thực tế”, theo từ điển Tiếng Việt của Viện
Ngơn ngữ học thì “bản chất là thực chất cơ bản bên trong sự vật”[31]. Từ đó
11


có thể hiểu rằng khi nói đến bản chất của “hơn nhân thực tế” tức là đang nói
đến sự thật bên trong, nội dung chủ yếu và cơ bản nhất của quan hệ “hôn
nhân thực tế”.
Sự thật bên trong của “hơn nhân thực tế” do ngay tên gọi của nó thể hiện
chỉ mối quan hệ giữa vợ chồng mà quan hệ này khơng đƣợc xác lập theo điều
kiện, trình tự, thủ tục pháp lý mà luật định nhƣng mà nó đã và đang vẫn tồn
tại trên thực tế. Nội dung chủ yếu và cơ bản nhất của quan hệ “hôn nhân thực
tế” chính là các quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhân thân và tài sản phát
sinh giữa hai ngƣời đã và đang chung sống với nhau nhƣ vợ chồng nhƣng
khơng đƣợc pháp luật cơng nhận. Qua đó để đƣợc nhà nƣớc cơng nhận quan
hệ này thì “hơn nhân thực tế” phải làm rõ cái bản chất thực sự bên trong
chính mình, thỏa mãn về chủ thể tham gia, mặt chủ quan, mặt khách quan, sự
tuân thủ pháp luật và mục đích của quan hệ này.
Về chủ thể là các bên nam, nữ tham gia vào quan hệ này. Trên thực tế
khơng chỉ đơn thuần nói tới mối quan hệ giữa nam – nữ mà cần đề cập tới có
các trƣờng hợp khác chung sống với nhau giữa nam – nam; nữ - nữ; ngƣời
chuyển giới nhƣng chƣa tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính, mặc dù cả
phƣơng diện sinh học và pháp luật đều mang một giới tính nhƣng lại chung
sống với ngƣời cùng giới tính với mình. Ngồi ra đối với ngƣời chuyển giới

trong trƣờng hợp họ phẫu thuật chuyển đổi giới tính nhƣng các giấy tờ pháp
lý của họ vẫn là thông tin trƣớc khi họ chuyển đổi. Khi đó việc chung sống
giữa họ sẽ đƣợc thực hiện với một ngƣời khác giới tính hiện có của mình. Cần
phải làm rõ thêm những trƣờng hợp nhƣ vậy để mở rộng phạm vi chủ thể cần
có của quan hệ này, khơng bị gị bó vào mối quan hệ đơn thuần theo tƣ tƣởng
và quan niệm vốn có từ trƣớc tới nay là quan hệ giữa nam và nữ.
Về mặt chủ quan, ý chí của các bên tham gia họ phải thực sự có ý định lấy
nhau, mong muốn chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng, và đã coi
12


nhau là vợ chồng trong thời gian chung sống. Việc xác định về ý chí là yếu tố
cực kỳ quan trọng để xác định tính chất mối quan hệ nam nữ ở trong này, họ có
thực sự lấy nhau hay khơng và có coi nhau là vợ chồng hay khơng. Điều này rất
quan trọng trong việc giải quyết các vụ án liên quan đến tình trạng này.
Về mặt khách quan, hành vi của các bên trong quan hệ này hai bên nam,
nữ thể hiện việc chung sống một cách công khai, cùng nhau gánh vác cơng
việc của gia đình từ đó để đƣợc họ hàng và xã hội xung quanh coi là vợ
chồng. Trong thực tế cho thấy hai bên nam, nữ chung sống công khai, cùng
nhau gánh vác công việc chung gia đình thì mới đƣợc xã hội xung quanh coi
là hai vợ chồng. Việc công nhận của mọi ngƣời xung quanh đó đã thể hiện
việc thừa nhận trƣớc một sự thực khách quan là quan hệ giữa hai bên nam, nữ
là quan hệ vợ chồng thực sự, họ đã tự nguyện, tự giác thực hiện trách nhiệm,
những việc cần làm khi chung sống để xây dựng gia đình. Sự thừa nhận đó
khơng tùy thuộc vào ý chí chủ quan của mọi ngƣời và họ hàng xung quanh,
không phụ thuộc vào sự đồng tình, tán thành hay phản đối quan hệ đó của họ,
cũng khơng phụ thuộc vào thái độ tình cảm giữa hai bên nam nữ mà chỉ phụ
thuộc vào sự tồn tại thực tế khách quan, ai cũng phải công nhận quan hệ giữa
hai bên nam, nữ là quan hệ vợ chồng. Dấu hiệu trên là cơ sở để phân biệt
quan hệ “hôn nhân thực tế” với những quan hệ “nam nữ chung sống tạm

bợ”. Quan hệ này xã hội không bao giờ ghi nhận là quan hệ vợ chồng, mặc dù
nam, nữ chung sống công khai. Tuy sống chung với nhau một cách công khai,
nhƣng họ khơng có ý thức xây dựng gia đình, và cũng khơng có ý thức gánh
vác những nghĩa vụ chung [12].
Về việc tuân thủ pháp luật, giữa hai bên nam, nữ khi tham gia vào quan
hệ này họ phải đảm bảo các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Cụ
thể họ phải thực sự tự nguyện, không vi phạm các hành vi cấm kết hôn, độ
tuổi phải đủ theo quy định của pháp luật đối với nam từ 20 tuổi trở lên và nữ

13


là từ 18 tuổi trở lên. Họ nhận thức đƣợc về việc chung sống với nhau thì cần
phải đăng ký kết hơn nhƣng do hồn cảnh trở ngại khách quan khiến họ
khơng đăng ký kết hơn đƣợc nhƣ hồn cảnh chiến tranh, vùng miền núi, hải
đảo xa xôi, hoạt động của cơ quan hành chính tại cơ sở cịn bị hạn chế. Nếu
hai bên nam, nữ chung sống với nhau mà không đảm bảo đáp ứng đƣợc
những điều kiện này thì họ sẽ khơng đƣợc pháp luật bảo vệ và công nhận mối
quan hệ này.
Đối với việc nam, nữ chung sống nhƣ vợ chồng nhƣng không đăng ký đã
và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Nhƣ việc sau một thời gian nam,
nữ chung sống với nhau các bên đã có con chung, tài sản chung thì giữa hai
bên phát sinh mâu thuẫn và có yêu cơ quan có thẩm quyền giải quyết cho họ
ly hơn; hoặc sau một thời gian hai bên đều chết; hoặc có trƣờng hợp khác là
một bên chết và một bên đăng ký kết hôn với ngƣời khác…. Vậy với các
trƣờng hợp trên Tịa án có giải quyết có giải quyết vấn đề ly hôn theo yêu cầu
của họ hay không? Liên quan đến việc thừa kế tài sản, hay việc kết hôn với
ngƣời có bị trái luật và hàng loạt câu hỏi mang tính chất pháp lý sẽ phát sinh
khi xảy ra vấn đề này cần phải đƣợc giải quyết. Nắm đƣợc vấn đề cốt yếu cần
phải trả lời thì cần phải xác định giữa hai ngƣời nam, nữ chung sống với nhau

có tồn tại quan hệ vợ chồng.
Xét về nguyên tắc của pháp luật quy định thì việc nam nữ chỉ phát sinh
quan hệ vợ chồng khi mà họ đăng ký kết hơn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền, mọi nghi thức kết hơn khác đều khơng có giá trị pháp lý. Đối chiếu với
các trƣờng hợp phân tích ở trên thì quan hệ nam nữ chung sống với nhau
nhƣng không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quan hệ vợ chồng.
Nhƣng nếu không công nhận giữa hai ngƣời đã tồn tại quan hệ vợ chồng thì
sẽ khơng thể giải quyết ly hôn cho họ, không công nhận việc thừa kế nếu một
bên cịn tồn tại, khơng coi việc kết hôn của một trong hai bên là trái pháp
luật…. thì điều này sẽ ảnh hƣởng rất nhiều đến các lợi ích về nhân thân và tài
14


sản của các bên.
Do vậy, để giải quyết vấn đề này Nhà nƣớc ta đã công nhận việc nam nữ
chung sống nhƣ vợ chồng, có đủ điều kiện kết hơn nhƣng không đăng ký kết
hôn là “hôn nhân thực tế”. Mục đích “hơn nhân thực tế” ra đời để khẳng
định hai bên nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng, có đủ điều kiện nhƣng không
đăng ký kết hôn là vợ chồng hợp pháp, giữa họ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng theo quy định của Luật HN&GĐ.
1.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng tới pháp luật điều chỉnh về hôn nhân thực
tế
 Phong tục tập quán
Việt Nam là một quốc gia với nhiều dân tộc và nhiều nền văn hóa, ngơn
ngữ khác nhau. Đây là điểm đặc biệt tạo nên sự đa dạng về và phong phú về
bản sắc văn hóa của nƣớc ta. Phong tục tập quán của các dân tộc tạo nên
nhiều ảnh hƣởng khác nhau đối với tình trạng “hơn nhân thực tế” nói riêng
và hơn nhân gia đình nói chung.
Dƣới sự ảnh hƣởng của chế độ HN&GĐ phong kiến, của phong tục, tập
qn về “giá thú” (cịn đƣợc gọi là kết hơn) đã tồn tại lâu đời trong xã hội ta

từ nhiều thế kỷ, thƣờng quy định trên quan niệm: Giá thú là việc trọng đại
trong cuộc đời của mỗi cá nhân. Khi lập giá thú ngoài việc tuân thủ pháp luật,
việc giá thú còn phải tiến hành theo đúng nghi lễ mà tập quán đã định. Cho
đến tận ngày nay, các nghi lễ trong giá thú vẫn còn tồn tại (ăn hỏi, cƣới xin…)
đều có nguồn gốc từ hệ thống pháp luật và phong tục , tập quán của xã hội
phong kiến. Cụ thể nhƣ Luật nhà Lê có quy định về nghi lễ giá thú:
+ Lễ nghi hôn (nay gọi là lễ vấn danh);
+ Lễ nạp chƣng (nay gọi là lễ hành sính);
+ Lễ thân nghinh (nay gọi là lễ nghinh hôn);
Bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ (1883) áp dụng ở Nam Kỳ, tại thiên thứ V
15


nói về “sự cử hành hơn lễ và bằng chứng giá thú”, nhà làm luật tuyên bố: “Để
cho giá thú có giá trị, cần phải cử hành hơn lễ theo tục lệ”
Theo tập quán cho đến ngày nay, trong việc lập giá thú, thiết lập mối
quan hệ HN&GĐ, mọi ngƣời thƣờng tiến hành theo ba lễ chính:
+ Lễ dạm;
+ Lễ vấn danh hay lễ ăn hỏi;
+ Lễ cƣới hay nghinh hôn.
Với ảnh hƣởng và quan niệm nhƣ vậy coi hôn nhân là việc quan trọng
của cả đời ngƣời, không những là việc riêng tƣ của nam hay nữ mà đây cịn là
việc chung của đại gia đình, dịng họ, dịng tộc. Việc tuân theo những lễ nghi
đó bắt buộc, là đạo hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ và cả dịng tộc từ đó có
nhận thức rất coi trọng “lễ” mà xem nhẹ “luật” dẫn đến nhiều việc kết hôn
chỉ “cưới” theo phong tục tập quán mà không đăng ký kết hơn tại cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền. Từ đây tạo thành rào cản pháp lý khó có thể phá vỡ.
Cho dù pháp luật có văn minh, tân tiến và tốt đẹp thế nào cũng vẫn khó có thể
đi vào cuộc sống.
 Ý thức pháp luật

Nhận thức của ngƣời dân ngày càng đƣợc nâng cao. Ngày nay việc học
luật và tìm hiểu luật khơng chỉ dành cho những ngƣời học luật nữa mà những
ngƣời dân bình thƣờng cũng đã bắt đầu tìm hiểu pháp luật để bảo vệ quyền và
lợi ích cho bản thân và gia đình mình. Việc hiểu biết pháp luật giúp giảm
thiểu nhiều trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật, khiến tỷ lệ ngƣời dân đi đăng
ký kết hôn tăng cao hơn. Đồng thời đối với tình trạng “hơn nhân thực tế”
đƣợc hạn chế. Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối với những trƣờng
hợp chung sống với nhau trái luật không những xử lý vi phạm hành chính mà
cịn có thể cấu thành tội hình sự.
Tuy nhiên, trái ngƣợc với việc hiểu biết thì ý thức pháp luật của một bộ
16


phận quần chúng nhân dân còn bị hạn chế. Nghĩa là họ biết là một chuyện,
nhƣng họ lại không thực hiện lại là chuyện khác. Và đây chính là ảnh hƣởng
tiêu cực mà ý thức pháp luật của ngƣời tham gia chung sống gây ra. Họ có thể
hiểu hoặc khơng hiểu quy định của pháp luật, khơng có ý thức chấp hành
pháp luật mà vẫn tiến hành các hành vi chung sống nhƣ vợ chồng. Nếu việc
chung sống này không thuộc nhóm các trƣờng hợp trái pháp luật thì vẫn đƣợc
quyền tiến hành. Tuy nhiên, việc chung sống nhƣ vợ chồng ngày càng phổ
biến và đang gây ra ảnh hƣởng xấu tới khơng chỉ ngƣời tham gia quan hệ mà
cịn tới cả quan điểm của cả một lớp ngƣời dân. Họ khơng cịn nhận thấy tầm
quan trọng sự chứng nhận hơn nhân của nhà nƣớc, khơng cịn thấy vai trị của
nhà nƣớc nữa. Và đây là ảnh hƣởng nguy hiểm, khơng chỉ làm gia tăng tình
trạng chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà làm mất lòng tin của ngƣời dân
vào pháp luật.
Việc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký kết hôn chƣa đƣợc tiến
hành thật sự chặt chẽ nhƣ ở một số vùng đồng bào dân tộc, miền núi, vùng hải
đảo xa xôi, vùng công giáo…Những ngƣời dân ở đây chƣa thấy hết đƣợc sự
giá trị của “giấy chứng nhận đăng ký kết hôn” và ý nghĩa của thủ tục đăng ký

kết hôn đã dẫn đến ý thức coi thƣờng thủ tục này. Thực tế có khơng ít trƣờng
hợp do thiếu hiểu biết pháp luật mà dẫn đến không nhận thức đƣợc đầy đủ giá
trị pháp lý của việc đăng ký kết hôn nên nam nữ cho rằng việc họ trở thành vợ
chồng chỉ cần đƣợc gia đình, họ hàng, làng bản cơng nhận là đủ. Vì vậy họ
chỉ cần tổ chức lễ cƣới linh đình mà khơng cần đăng ký kết hơn. Có nhiều
trƣờng hợp nam nữ cho rằng giấy tờ đăng ký kết hôn chỉ mang tính hình thức
và khơng có giá trị gì ràng buộc họ với nhau. Trƣờng hợp khác là do nghi lễ
tôn giáo, các giáo dân cho rằng việc nam nữ lấy vợ lấy chồng là theo ý Chúa,
do Chúa sắp đặt nên phải thực hiện trƣớc Chúa. Khi việc kết hơn đƣợc Chúa
chứng kiến và chấp thuận thì đƣơng nhiên là quan hệ vợ chồng đƣợc xác lập
17


mà khơng cần đăng ký kết hơn. Đó cũng là nguyên nhân của nhiều việc nam
nữ chung sống nhƣng vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
 Lịch sử và kinh tế - xã hội
Đất nƣớc ta trải qua chiến tranh lâu dài, nhiều đơi nam nữ thuận tình chỉ
đƣợc gia đình tổ chức lễ cƣới vội vã theo phong tục mà không thể thực hiện
đƣợc thủ tục đăng ký kết hơn tại Ủy ban hành chính (nay là Ủy ban nhân dân)
và sau ngày “cưới” vợ chồng chia cách, ngƣời chồng phải lên đƣờng nhập
ngũ; hoặc trong vùng định tạm chiếm, nhiều trƣờng hợp hai bên nam nữ đƣợc
tổ chức Cách mạng cho “phép” cƣới thành vợ chồng mà không thể đăng ký
kết hôn. Sau ngày thống nhất đất nƣớc, nhiều trƣờng hợp vợ chồng sum họp,
chung sống với nhau nhƣng cũng khơng đăng ký kết hơn; có trƣờng hợp sau
năm 1954, theo hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nƣớc ta vẫn cịn bị chia cắt làm hai
miền chế độ chính trị khác biệt; một số cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra
miền Bắc. Trong thời gian tập kết dù đã có vợ, chồng ở miền Nam nhƣng họ
lại lấy vợ, chồng ở miền Bắc. Khi đất nƣớc thống nhất (30/04/1975), thực tế
cuộc sống đã tồn tại ở tình trạng “một chồng hai vợ” hoặc “một vợ hai
chồng”. Quyền lợi chính đáng của các đƣơng sự cần đƣợc pháp luật bảo vệ

[27].
Đã nhiều năm trôi qua đất nƣớc đƣợc thống nhất, hịa bình đƣợc lập lại.
Sự tăng trƣởng và phát triển kinh tế xã hội của nƣớc ta ngày càng đƣợc nâng
cao. Do đó sự du nhập của của các luồng văn hóa nƣớc ngồi làm cho ngƣời
dân trở nên có cái nhìn thống và mở hơn đối với hôn nhân. Nhiều quan điểm
đƣợc thay đổi nhƣ: không nhất thiết phải sinh con trai, phụ nữ có thể độc thân
và có con, chung sống với nhau nhƣ vợ chồng trƣớc khi kết hôn…Đây đều là
những suy nghĩ của nền văn hóa phƣơng Tây nhƣng vẫn chƣa thực sự với xã
hội của Việt Nam ta. Nếu nhƣ “hôn nhân thực tế” hƣớng tới xây dựng một
gia đình hạnh phúc thực sự, ngƣời vợ, ngƣời chồng tôn trọng và yêu thƣơng
18


×