Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Dạy học môn Tiếng Việt lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.9 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PhÇn hai D¹Y HäC m«n TIÕNG VIÖT LíP 5 I. – Néi dung d¹y häc vµ chuÈn kiÕn thøc, kÜ n¨ng m«n TiÕng ViÖt líp 5 1. Néi dung d¹y häc theo SGK TiÕng ViÖt 5 Chương trình Giáo dục phổ thông, cấp Tiểu học (ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ–BGDĐT ngày 5 – 5 – 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã quy định rõ nội dung và kế hoạch dạy học môn Tiếng Việt lớp 5 (8 tiết/tuần x 35 tuần = 280 tiết). Căn cứ nội dung chương trình được Bộ GD&ĐT ban hành, SGK Tiếng Việt 5 (tập một, tập hai) cụ thể hoá các kiến thức (tiếng Việt, tập làm văn, văn học), kĩ năng (đọc, nghe, nói, viết) dạy cho HS theo các bài học thuộc 5 phân môn : Tập đọc (2 tiết), Chính tả (1 tiết), Luyện từ và câu (2 tiết), Kể chuyện (1 tiết), Tập làm văn (2 tiết). Cụ thể như sau : a) Tập đọc Thông qua hệ thống văn bản đa dạng phong phú thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa học đã tuyển chọn và đưa vào SGK Tiếng Việt 5 (tập một, tập hai), trong đó có 40 bài văn xuôi, 2 vở kịch (trích), 18 bài thơ, phân môn Tập đọc ở lớp 5 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm với tốc độ nhanh hơn, đồng thời nâng cao thêm một bước về kĩ năng đọc diễn cảm (thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài). Qua phần hướng dẫn sư phạm cuối mỗi bài tập đọc (gồm các nội dung giải nghĩa từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu bài), phân môn Tập đọc còn giúp HS nâng cao kĩ năng đọc – hiểu văn bản : Nhận biết được đề tài, cấu trúc của bài ; Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để nắm ý ; Phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản văn chương. 15. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Cùng với các phân môn Kể chuyện, Tập làm văn, phân môn Tập đọc còn xây dựng cho HS thói quen tìm đọc sách ở thư viện, dùng sách công cụ (từ điển, sổ tay từ ngữ, ngữ pháp) và ghi chép những thông tin cần thiết khi đọc. Nội dung các bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt 5 được mở rộng và phong phú hơn so với các bài tập đọc ở lớp dưới. Các bài đọc mở rộng vốn hiểu biết về thiên nhiên, về cuộc sống của con người, bồi dưỡng tình cảm và nhân cách của HS,... Từ đó hình thành thái độ ứng xử có văn hoá và phù hợp với chuẩn mực đạo đức của dân tộc. Do vậy, các văn bản đọc có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm và trau dồi nhân cách cho HS. Hệ thống chủ điểm của các bài tập đọc vừa mang tính khái quát vừa có tính hình tượng, hướng vào những phẩm chất của con người, ngoài ra còn đề cập đến vấn đề trẻ em và quyền trẻ em, bảo vệ môi trường, giáo dục dân số, giới tính, ca ngợi tình đoàn kết giữa các dân tộc : Việt Nam – Tổ quốc em, Cánh chim hoà bình, Con người với thiên nhiên, Giữ lấy màu xanh, Vì hạnh phúc con người, Người công dân, Vì cuộc sống thanh bình, Nhớ nguồn, Nam và nữ, Những chủ nhân tương lai. Qua các bài tập đọc, HS còn được cung cấp thêm về vốn từ ngữ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật,…), từ đó nâng cao trình độ văn hoá nói chung và trình độ tiếng Việt nói riêng. b) Chính tả Cũng như ở lớp 4, ở lớp 5, mỗi tuần chỉ có một tiết chính tả, tổng cộng cả năm học có 31 tiết chính tả. Các bài chính tả trong SGK Tiếng Việt 5 có nhiệm vụ dạy cho HS kĩ năng viết đúng chính tả, kết hợp cung cấp kiến thức về cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam và nước ngoài, thông qua 2 loại bài : b.1. Chính tả đoạn, bài – Nội dung bài viết chính tả có thể được trích nguyên văn từ bài tập đọc trước đó hoặc nội dung tóm tắt của bài tập đọc, bổ sung thêm 13 đoạn văn, bài văn, bài thơ, mẩu chuyện, mẩu tin, điều luật,... có nội dung cùng chủ điểm. Đó là các bài : Lương Ngọc Quyến, Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ, Dòng kinh quê hương, Luật bảo vệ môi trường, Người mẹ của 51 đứa con, Nhà yêu nước Nguyễn Trung Trực, Cánh cam lạc mẹ, Hà Nội, Núi non hùng vĩ, Ai là thuỷ tổ loài người ?, Lịch sử ngày quốc tế lao động, Cô gái của tương lai, Trong lời mẹ hát. Văn bản nhớ – viết là một đoạn văn, đoạn thơ HS đã học thuộc lòng trong SGK Tiếng Việt 5 16. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> – Hình thức chính tả đoạn bài được sử dụng là : nghe  viết (23 bài chiếm 74%) và nhớ  viết (8 bài chiếm 26%). Độ dài các văn bản viết dao động khoảng 90  110 chữ. b.2. Chính tả âm, vần – Nội dung luyện viết chính tả gồm các chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ viết sai do cả 3 nguyên nhân (do âm, vần, thanh khó phát âm, cấu tạo phức tạp ; do HS không nắm vững quy tắc ghi âm hoặc do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương, theo 3 vùng phương ngữ chủ yếu : Bắc – Trung – Nam). Cụ thể : ôn tập quy tắc viết c/k, g/gh, ng/ngh ; phân biệt âm đầu l/n, s/x, tr/ch, r/d/gi, v/d ; phân biệt âm cuối n/ng, t/c ; phân biệt các vần ao/au, iêm/im, iep/ip ; dấu thanh (thanh hỏi/thanh ngã) ; ôn tập các quy tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và tên người, tên địa lí nước ngoài ; luyện viết hoa tên riêng tổ chức, danh hiệu, giải thưởng, huân chương,... Các bài tập chính tả được GV lựa chọn trong SGK, hoặc tự soạn bài tập khác cho thích hợp. – Hình thức bài tập chính tả âm, vần rất phong phú và đa dạng, mang tính tình huống và thể hiện rõ quan điểm giao tiếp trong dạy học. VD : Phân biệt cách viết các từ dễ lẫn trong câu, đoạn văn ; Tìm tiếng có nghĩa điền vào ô trống trong bảng cho phù hợp ; Đặt câu để phân biệt các từ có hình thức chính tả dễ lẫn ; Giải câu đố để phân biệt từ ngữ có âm, vần, thanh dễ lẫn ; Tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa… ; Tìm các từ láy có tiếng chứa âm hoặc thanh cho sẵn ; Tìm tiếng thích hợp với mỗi ô trống để hoàn thiện câu chuyện hoặc đoạn văn cho trước,... c) Luyện từ và câu Phân môn Luyện từ và câu lớp 5 gồm có 62 tiết (32 tiết kì I, 30 tiết kì II). Nội dung dạy học nhằm cung cấp cho HS một số kiến thức về tiếng Việt (ngữ âm và chữ viết ; từ vựng ; ngữ pháp...). Cụ thể : c.1. Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ ngữ Phần mở rộng vốn từ cho HS phù hợp với các chủ điểm, cụ thể là : – Học kì I có 9 tiết, gồm các bài : Tổ quốc, Nhân dân (chủ điểm Việt Nam – Tổ quốc em, tuần 2, 3) ; Hoà bình – Hữu nghị – Hợp tác (chủ điểm : Cánh chim hoà bình, tuần 5, 6) ; Thiên nhiên (chủ điểm : Con người với thiên nhiên, tuần 8, 9) ; Bảo vệ môi trường (chủ điểm : Giữ lấy màu xanh, tuần 12, 13) ; Hạnh phúc (chủ điểm : Vì hạnh phúc con người, tuần 15). 17. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> – Học kì II có 9 tiết, gồm các bài : Công dân (chủ điểm : Người công dân, tuần 20) ; Trật tự – An ninh (chủ điểm : Vì cuộc sống thanh bình, tuần 23, 24) ; Nam và nữ (chủ điểm : Nam và nữ, tuần 30, 31) ; Trẻ em, quyền và bổn phận (chủ điểm : Những chủ nhân tương lai, tuần 33, 34). c.2. Nghĩa của từ Cung cấp một số kiến thức sơ giản về các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và cách thức sử dụng các lớp từ này. Cụ thể là : Từ đồng nghĩa, Luyện tập về từ trái nghĩa (tuần 4 : 2 tiết) ; Từ đồng âm, Dùng từ đồng âm để chơi chữ (tuần 5 : 1 tiết, tuần 6 : 1 tiết) ; Từ nhiều nghĩa, Luyện tập về từ nhiều nghĩa (tuần 7 : 2 tiết, tuần 8 : 1 tiết). c.3. Từ loại Có 5 tiết, cung cấp một số kiến thức sơ giản về hai từ loại có tính chất từ công cụ trong hoạt động giao tiếp của người Việt và luyện tập sử dụng hai loại từ này. Cụ thể là : đại từ và đại từ xưng hô (tuần 9 : 1 tiết, tuần 11 : 1 tiết) ; Quan hệ từ, Luyện tập về quan hệ (tuần 11 : 1 tiết, tuần 12 : 1 tiết, tuần 13 : 1 tiết). c.4. Câu Phần này cung cấp kiến thức sơ giản về câu ghép : Khái niệm câu ghép (tuần 19 : 1 tiết) ; Cách nối các vế câu ghép (tuần 19: 1 tiết) ; Nối các vế của câu ghép bằng quan hệ từ (tuần 20 : 1 tiết, tuần 21 : 1 tiết, tuần 22 : 2 tiết, tuần 23 : 1 tiết) ; Nối các vế câu ghép bằng cặp từ hô ứng (tuần 24 : 1 tiết). c.5. Ngữ pháp văn bản Phần này cung cấp các kiến thức sơ giản về 3 phương thức liên kết câu cơ bản : Liên kết các câu trong bài bằng cách lặp từ ngữ (tuần 25 : 1 tiết) ; Liên kết các câu trong bài bằng cách thay thế từ ngữ (tuần 25 : 1 tiết), Luyện tập thay thế từ ngữ để liên kết câu (tuần 26 : 1 tiết) ; Liên kết các câu trong bài bằng từ ngữ nối (tuần 27 : 1 tiết). c.6. Ôn tập Phân môn Luyện từ và câu lớp 5 có phần hệ thống hoá tất cả các nội dung về từ và câu mà HS được học ở cấp Tiểu học. Cụ thể là : Ôn tập về từ loại (1 tiết : tuần 14) ; Ôn tập về từ và cấu tạo từ (2 tiết – tuần 15 : 1 tiết, tuần 16 : 2 tiết) ; Ôn tập về câu (1 tiết : tuần 17) ; Ôn tập về dấu câu (8 tiết – tuần 29 : 2 tiết, tuần 30 : 1 tiết, tuần 31 : 1 tiết, tuần 32 : 2 tiết, tuần 33 : 1 tiết, tuần 34 : 1 tiết). 18. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> d) Kể chuyện Phân môn Kể chuyện ở lớp 5 tiếp tục củng cố và phát triển các kĩ năng kể chuyện đã được hình thành từ các lớp dưới đồng thời mở rộng yêu cầu với ba kiểu bài tập : d.1. Nghe  kể lại câu chuyện vừa nghe thầy (cô) kể trên lớp Kiểu bài này được thực hiện ở tuần thứ nhất trong một chủ điểm 3 tuần học. Bên cạnh mục đích chung là rèn kĩ năng nói cho HS, kiểu bài này còn có mục đích rèn kĩ năng nghe (kết hợp ghi nhớ và cảm nhận nội dung, ý nghĩa câu chuyện). Để rèn kĩ năng nghe, câu chuyện được in ở SGV, trong SGK chỉ trình bày tranh minh hoạ, có thể kèm theo lời gợi ý nội dung tranh. Văn bản truyện lớp 5 khoảng trên dưới 500 chữ, dài khoảng 1 trang. 10 câu chuyện kể gắn với 10 chủ điểm trong SGK, đó là các truyện : Lý Tự Trọng, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai, Cây cỏ nước Nam, Người đi săn và con nai, Pa-xtơ và em bé, Chiếc đồng hồ, Ông Nguyễn Khoa Đăng, Vì muôn dân, Lớp trưởng lớp tôi, Nhà vô địch. d.2. Kể chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ Kể chuyện Đây là kiểu bài tập kể chuyện thường có ở tuần thứ hai trong một chủ điểm học tập lớp 5. Nội dung gồm những câu chuyện do HS tự sưu tầm trong sách báo hoặc nghe người khác kể lại trong đời sống hằng ngày. Sau khi lựa chọn được câu chuyện đã đọc (hoặc đã nghe kể) phù hợp với đề bài trong SGK, HS đọc kĩ, nhớ lại câu chuyện để kể trước lớp cho thầy (cô) và các bạn nghe, sau đó luyện tập trao đổi về nội dung, ý nghĩa của câu chuyện đã kể. Do vậy, bên cạnh mục đích chung là rèn kĩ năng nói cho HS, kiểu bài tập này còn có mục đích kích thích HS ham đọc sách và hứng thú nghe kể chuyện. SGK Tiếng Việt 5 có 11 bài tập Kể chuyện đã nghe, đã đọc với các đề bài : – Kể về các anh hùng, danh nhân của nước ta. – Kể về một câu chuyện ca ngợi hoà bình, chống chiến tranh. – Kể một câu chuyện nói về quan hệ của con người với thiên nhiên. – Kể một câu chuyện có nội dung bảo vệ môi trường. – Kể một câu chuyện nói về những người đã góp sức mình chống lại đói nghèo, lạc hậu, vì hạnh phúc của nhân dân. 19. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> – Kể lại những người biết sống đẹp, biết mang lại niềm vui, hạnh phúc cho những người xung quanh. – Kể về những tấm gương sống, làm việc theo pháp luật, theo nếp sống văn minh. – Kể về những người đã góp sức mình bảo vệ trật tự, an ninh. – Kể về truyền thống hiếu học, truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam. – Kể về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài. – Kể về gia đình, nhà trường và xã hội chăm sóc, giáo dục trẻ em hoặc trẻ em thực hiện bổn phận của mình với gia đình, nhà trường và xã hội. d.3. Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia Đây là kiểu bài tập kể chuyện ở tuần thứ ba trong một chủ điểm học tập. Bài tập này yêu cầu HS kể những câu chuyện về người thật, việc thật có trong cuộc sống xung quanh mà các em đã biết. Mỗi em phải tự nhớ lại những câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia, rồi dựa vào cách thức xây dựng câu chuyện đã học trong giờ Tập làm văn để sắp xếp lại các chi tiết và kể lại câu chuyện. Do vậy, bên cạnh mục đích chung là rèn luyện kĩ năng nói, kiểu bài tập này còn rèn cho HS thói quen quan sát, ghi nhớ, sắp xếp các ý để kể lại diễn biến câu chuyện cho rõ ràng, mạch lạc và hợp lí. Nội dung các bài tập kể chuyện luôn tạo điều kiện cho HS mở rộng vốn hiểu biết về đời sống, tích cực hoá vốn từ ngữ, phát triển tư duy, góp phần hình thành nhân cách con người mới. Những câu chuyện hấp dẫn, cảm động được GV kể trên lớp hoặc do HS tìm chọn trong sách báo,... vừa giúp các em nhận ra những phẩm chất đáng quý mà con người cần rèn luyện vừa có tác động mạnh mẽ đến tâm hồn, tình cảm của các em ; giúp các em rút ra được những bài học bổ ích trong cuộc sống. Được nghe và tập kể lại những câu chuyện có tính giáo dục, tính thẩm mĩ và tính sư phạm, HS không chỉ được bồi dưỡng về nhận thức, tình cảm mà còn được làm giàu về vốn từ, phát triển tư duy lô gíc và tư duy hình tượng. Từ đó, nhân cách của mỗi HS cũng được trau dồi và phát triển theo định hướng tốt đẹp.. 20. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Nội dung các bài tập Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia gắn với 10 chủ điểm học tập. SGK Tiếng Việt 5 có 10 tiết Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia gắn với các đề bài : – Kể một việc làm tốt góp phần xây dựng quê hương đất nước. – Kể một câu chuyện em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể hiện tình hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước, hoặc nói về một nước mà em biết qua truyền hình và phim ảnh. – Kể về một lần em được đi thăm cảnh đẹp ở địa phương hoặc những nơi khác. – Kể về việc làm tốt của em hoặc của những người xung quanh để bảo vệ môi trường. – Kể một buổi xum họp đầm ấm trong gia đình. – Kể một câu chuyện thể hiện ý thức bảo vệ các công trình công cộng, di tích lịch sử – văn hoá, ý thức chấp hành Luật giao thông hoặc một việc làm thể hiện lòng biết ơn các thương binh, liệt sĩ. – Kể một việc làm tốt góp phần bảo vệ trật tự, an toàn nơi làng xóm, phố phường. – Kể một câu chuyện nói lên truyền thống "Tôn sư trọng đạo" của người Việt Nam ta hoặc một kỉ niệm về thầy giáo, cô giáo. – Kể về việc làm tốt của bạn em. – Kể một câu chuyện về gia đình, nhà trường, xã hội chăm sóc thiếu nhi hoặc kể một lần em cùng các bạn tham gia công tác xã hội. e) Tập làm văn Căn cứ chương trình môn học, SGK Tiếng Việt 5 dạy cho HS những nội dung kiến thức và kĩ năng Tập làm văn cụ thể như sau : e.1. Kiến thức – Thông qua các bài tập thực hành, trang bị kiến thức làm văn cho HS lớp 5, giúp HS hoàn thiện những hiểu biết ban đầu về văn miêu tả (tả cảnh, tả người), có một số hiểu biết về mục đích giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp để vận dụng. 21. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> trong tạo lập các loại văn bản khác như làm báo cáo, thống kê, làm đơn, làm biên bản, thuyết trình, tranh luận, lập chương trình hoạt động, tập viết đối thoại (chuyển câu chuyện thành kịch). Ngoài việc cung cấp một số kiến thức, nội dung dạy Tập làm văn lớp 5 còn có các bài ôn tập, củng cố, hệ thống hoá các kiến thức đã học về văn kể chuyện, văn miêu tả, chuẩn bị cho HS những điều kiện cần thiết để học tập các lớp trên. e.2. Các kĩ năng làm văn Nội dung các kĩ năng làm văn trau dồi cho HS lớp 5 được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản, cụ thể như sau :.  Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp : + Nhận diện đặc điểm văn bản. + Phân tích đề bài, xác định yêu cầu. – Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp. + Xác định dàn ý bài văn đã cho. + Quan sát đối tượng, tìm và sắp xếp dàn ý trong bài văn miêu tả. – Kĩ năng thực hiện hoá các hoạt động giao tiếp. + Xây dựng đoạn văn (chọn từ, tạo câu, viết đoạn). + Liên kết các đoạn thành bài văn. – Kĩ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp. + Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt. + Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt. Ngoài ra, phân môn Tập làm văn còn mở rộng thêm vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ và hình thành nhân cách cho HS. Quán triệt quan điểm tích hợp, nội dung các bài Tập làm văn lớp 5 thường gắn với các chủ điểm đang học ở phân môn Tập đọc. Quá trình hướng dẫn HS thực hiện các kĩ năng phân tích đề, quan sát, tìm ý, nói  viết đoạn hoặc bài là những cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo chủ điểm đang học. 22. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Việc phân tích đề, quan sát đối tượng, lập dàn ý, chia đoạn bài văn miêu tả,… góp phần không nhỏ trong việc phát triển năng lực phân tích, tổng hợp của HS. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện và phát triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân hoá,… đáp ứng yêu cầu của chương trình môn Tiếng Việt đề ra. 2. ChuÈn kiÕn thøc, kÜ n¨ng m«n TiÕng ViÖt líp 5 vµ yªu cÇu d¹y häc theo ChuÈn a) Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt lớp 5 Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt lớp 5 đã được quy định rõ trong văn bản Chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (đã dẫn ở trên). Để chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học theo SGK Tiếng Việt 5, trong tài liệu Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5, tập hai (NXB Giáo dục, 2007), Bộ GD&ĐT đã xác định những yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt lớp 5 như sau : a.1. Kiến thức – Nhận biết được cấu tạo của vần (âm đệm, âm chính, âm cuối) ; Biết quy tắc ghi dấu thanh trên âm chính ; Biết cách viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và nước ngoài. – Biết thêm các từ ngữ (gồm các thành ngữ, tục ngữ, một số từ Hán Việt thông dụng) về tự nhiên, xã hội, lao động sản xuất, bảo vệ Tổ quốc,... ; Hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa ; Bước đầu nhận biết và có khả năng lựa chọn từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa khi nói và viết. – Nhận biết và có khả năng sử dụng các đại từ, quan hệ từ phổ biến ; nhận biết và có khả năng tạo lập câu ghép trong khi nói và viết ; Biết dùng dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu phẩy, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang. – Nhận biết và bước đầu cảm nhận được cái hay của câu văn có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá trong các bài học ; biết dùng các biện pháp nhân hoá, so sánh để nói và viết các câu văn hay. – Bước đầu biết nhận diện và sử dụng một số biện pháp liên kết câu trong nói và viết ; biết cách làm bài văn tả người, tả cảnh. – Bước đầu hiểu thế nào là nhân vật, lời thoại trong kịch. 23. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> a.2. Kĩ năng.  Kĩ năng đọc : + Đọc đúng và lưu loát các văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi, kịch), hành chính, khoa học, kịch, báo chí,... có độ dài khoảng 250 – 300 chữ với tốc độ 100 – 120 tiếng/phút ; biết đọc thầm bằng mắt với tốc độ nhanh hơn lớp 4 ; biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, đoạn trích kịch ngắn ; thuộc đoạn văn, đoạn thơ có độ dài khoảng 150 chữ. + Nhận biết dàn ý và đại ý của văn bản ; nhận biết ý của từng đoạn ; phát hiện các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết có ý nghĩa trong bài thơ, bài văn, đoạn trích kịch được học ; biết nhận xét về nhân vật trong văn bản tự sự ; biết phát biểu ý kiến cá nhân về cái đẹp của văn bản đã học. + Biết tra từ điển và một số sách công cụ ; nhận biết nội dung, ý nghĩa của các kí hiệu, số liệu, biểu đồ trong văn bản..  Kĩ năng viết : + Viết được bài chính tả nghe – viết, nhớ – viết có độ dài khoảng 100 chữ trong 15 phút, không mắc quá 5 lỗi ; viết đúng một số từ ngữ cần phân biệt phụ âm đầu, vần, thanh điệu dễ lẫn do ảnh hưởng cách phát âm địa phương ; biết tự phát hiện và sửa lỗi chính tả, lập sổ tay chính tả. + Biết tìm ý cho đoạn văn và viết đoạn văn kể chuyện, miêu tả, biết dùng các biện pháp liên kết câu trong đoạn, bài ; lập dàn ý cho bài văn tả cảnh, tả người ; biết viết bài văn kể chuyện hoặc tả cảnh có độ dài khoảng 200 chữ. + Biết viết một số văn bản thông thường : đơn, biên bản, báo cáo ngắn, chương trình hoạt động..  Kĩ năng nghe : + Kể lại hoàn chỉnh câu chuyện được nghe. + Nghe – viết bài chính tả có độ dài 90 chữ, trong đó có từ chứa âm, vần khó hoặc âm, vần dễ sai do ảnh hưởng cách phát âm địa phương, tên riêng Việt Nam, tên riêng nước ngoài ; ghi chép một số thông tin, nhận xét về nhân vật, sự kiện,... của bài tập nghe – ghi. 24. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> – Kĩ năng nói : + Biết dùng lời nói phù hợp với quy tắc giao tiếp khi trình bày ý kiến. + Biết kể một câu chuyện đã nghe, đã đọc, chuyển đổi ngôi khi kể, thuật lại một sự việc đã biết, đã tham gia. + Biết giải thích để làm rõ vấn đề khi trao đổi ý kiến với bạn bè, thầy cô. + Biết trình bày về lịch sử, văn hoá, các nhân vật tiêu biểu của địa phương. b) Dạy học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng Để tạo điều kiện thuận lợi cho GV dạy học môn Tiếng Việt lớp 5 theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định, Bộ GD&ĐT đã ban hành tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học – Lớp 5 (môn Tiếng Việt). Dựa theo tài liệu này, GV soạn giáo án, tổ chức dạy học trên lớp và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của HS lớp 4 như sau : b.1. Soạn giáo án lên lớp Căn cứ Yêu cầu cần đạt (Chuẩn kiến thức, kĩ năng) xác định cho từng bài dạy (ghi trong tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn... Lớp 5), dựa vào SGK, SGV Tiếng Việt 5, GV soạn giáo án một cách ngắn gọn nhưng thể hiện rõ các phần cơ bản : – Phần 1 : Nêu mục đích, yêu cầu của bài học (gắn với yêu cầu cần đạt đã ghi trong tài liệu hướng dẫn). Chú ý : cần đọc kĩ hướng dẫn ở tuần 1 để ghi đầy đủ yêu cầu cần đạt ở các tuần sau, đối với các tiết dạy của một số loại bài học có yêu cầu giống nhau. – Phần 2 : Nêu những yêu cầu cần chuẩn bị về thiết bị, đồ dùng dạy và học của GV và HS ; dự kiến hình thức tổ chức hoạt động học tập đảm bảo phù hợp với từng nhóm đối tượng HS. – Phần 3 : Xác định nội dung, phương pháp giảng dạy đối với GV, yêu cầu cần học đối với từng đối tượng HS, kể cả HS cá biệt (nếu có). Để soạn tốt phần này, GV thường phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh dạy học, phải nắm được khả năng học tập của từng HS trong lớp và Yêu cầu cần đạt ghi trong tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt lớp 5 để xác định nội dung cụ thể của bài học trong SGK (không. 25. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> đưa thêm nội dung vượt quá Yêu cầu cần đạt), xác định cách (biện pháp) hướng dẫn cho từng nhóm đối tượng HS, “dễ hoá” bằng cách gợi mở, dẫn dắt, làm mẫu,... đối với HS yếu ; “mở rộng”, “phát triển” (trong phạm vi của Chuẩn) đối với HS khá, giỏi. Việc xác định nội dung dạy học của GV cũng còn phải đảm bảo tính hệ thống và đáp ứng yêu cầu : dạy nội dung bài học mới dựa trên kiến thức, kĩ năng của HS đạt được ở bài học trước và đảm bảo vừa đủ để tiếp thu bài học tiếp sau, từng bước đạt được yêu cầu cơ bản nêu trong Chương trình môn học. b.2. Tổ chức hoạt động dạy học trên lớp Căn cứ Yêu cầu cần đạt và Ghi chú (nếu có) trong tài liệu hướng dẫn, GV tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp một cách linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng HS (khá, giỏi, trung bình, yếu) nhằm đảm bảo yêu cầu phát triển năng lực cá nhân và đạt được hiệu quả thiết thực sau mỗi tiết dạy. Việc xác định rõ mức độ yêu cầu cần đạt như trên giúp GV dạy học phù hợp trình độ HS, tạo điều kiện đạt Chuẩn môn học ở lớp dạy cụ thể cho mọi đối tượng ở các vùng miền khác nhau trên toàn quốc. II – Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học môn Tiếng ViÖt líp 5 ph¸t huy tÝnh tÝch cùc häc tËp cña häc sinh 1. D¹y kiÕn thøc tiÕng ViÖt vµ v¨n häc nh»m t¹o c¬ së cho viÖc h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn c¸c kÜ n¨ng a) Dạy kiến thức tiếng Việt Ở lớp 5, chương trình môn Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS một số kiến thức sơ giản về tiếng Việt để phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói ở mức cao hơn, với những yêu cầu cơ bản, tối thiểu : hiểu đúng nội dung và bước đầu biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ ngắn ; biết cách viết một số kiểu văn bản ; biết nghe – nói về một số đề tài quen thuộc. – Mở rộng vốn từ theo chủ điểm : Để mở rộng vốn từ cho HS, SGK thường yêu cầu HS tìm từ ngữ theo các nghĩa cho trước hoặc chứa các tiếng cho trước. Dạng bài Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ trong SGK Tiếng Việt 5 được tổ chức theo một hệ thống bài tập thực hành luyện tập đa dạng, sinh động.. 26. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Cách dạy bài tập về Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ thường tiến hành theo các bước : Cho HS nhắc lại một số kiến thức có liên quan (nếu cần) ; sau đó, tổ chức HS làm bài tập theo hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, hoặc thực hành cá nhân. Những thao tác được GV hướng dẫn HS thực hiện để làm dạng bài tập này thường là : Hướng dẫn HS tìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập. / Chữa mẫu cho HS một phần hoặc một bài để hướng dẫn cách làm. / Hướng dẫn HS làm vào vở (hoặc bảng con, bảng nhóm, vở nháp,...). / Hướng dẫn HS nêu kết quả, chữa bài tập và tự kiểm tra kết quả luyện tập. Với các đối tượng HS học yếu hoặc còn hạn chế về tiếng Việt, GV cần vận dụng các biện pháp dạy học một cách linh hoạt nhằm “dễ hoá” yêu cầu của bài tập, dẫn dắt các em từng bước đạt yêu cầu chung. Dưới đây là một vài gợi ý cụ thể : (1) GV giúp HS hiểu rõ tên chủ điểm trước khi mở rộng vốn từ. Từ đó, HS có cơ sở để tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. (2) Nếu trình độ HS trong lớp còn hạn chế về tiếng Việt, GV có thể chỉ yêu cầu các em tìm được một vài từ thông dụng theo gợi ý trong SGK (tuỳ thuộc khả năng và vốn sống của HS), hoặc GV chủ động dẫn dắt, gợi ý, giải nghĩa từ ngữ bằng nhiều hình thức khác nhau để bổ sung vốn tiếng Việt và giúp các em dễ thực hiện yêu cầu của bài tập (không nên tổ chức HS tự làm bài hoặc trao đổi nhóm vì các em chưa thành thạo về tiếng Việt). (3) Xác định yêu cầu cần đạt sao cho thiết thực (đảm bảo tính "vừa sức” đối với HS), lựa chọn nội dung và cách dạy phù hợp, tạo điều kiện cho tất cả HS đều được tham gia thực hành theo năng lực của mình (dù còn hạn chế về kết quả), từng bước vươn lên đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng đã quy định. – Cung cấp kiến thức mới và thực hành luyện tập : Bước đầu hiểu và vận dụng được kiến thức về nghĩa của từ (các hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, chuyển nghĩa, đồng âm) vào việc hiểu văn bản văn học và thực hành nói, viết ; biết vận dụng các kiến thức đã học về các biện pháp tu từ so sánh và nhân hoá vào việc hiểu văn bản văn học và thực hành nói, viết.. 27. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> + Phần Nhận xét là phần cung cấp ngữ liệu và nêu câu hỏi (bài tập) gợi ý cho HS phân tích nhằm rút ra kiến thức lí thuyết. Theo quan điểm tích hợp, ngữ liệu ở phần này thường được rút ra từ những bài tập đọc đã học, do vậy nội dung khá quen thuộc với HS. + Ghi nhớ là phần chốt lại những điểm chính yếu về kiến thức được rút ra từ việc phân tích ngữ liệu (ở mục I). HS cần nắm vững những kiến thức này để thực hành luyện tập và ứng dụng trong giao tiếp tiếng Việt. + Luyện tập là phần bài tập nhằm củng cố và vận dụng kiến thức đã học, gồm một số kiểu bài tập về nhận biết (VD : nhận biết các bộ phận cấu tạo của tiếng, nhận biết các kiểu cấu tạo từ, nhận biết từ loại,...) ; bài tập về vận dụng (VD : đặt câu với từ đã cho, tìm từ có cùng kiểu cấu tạo, giải các câu đố chữ liên quan đến cấu tạo tiếng,...). Cách dạy bài tập về Cung cấp kiến thức mới và thực hành luyện tập, GV thường tổ chức cho HS làm các bài tập ở phần Nhận xét (mục I) theo các hình thức phát huy tính tích cực của HS, như : trao đổi theo nhóm (tổ, bàn, hoặc theo cặp) ; trao đổi chung cả lớp ; tự làm cá nhân, qua đó tự rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ về kiến thức. Qua phân tích và nhận xét các ngữ liệu, HS tự rút ra những kiến thức cần nắm vững – Ghi nhớ (mục II). Sau đó, HS thực hành luyện tập theo các bài tập ở mục Luyện tập để nắm chắc và bước đầu vận dụng được kiến thức đã học. Tuy nhiên, với những đối tượng HS học yếu hoặc còn hạn chế về tiếng Việt, GV cần lưu ý một số điểm sau : (1) Khi hướng dẫn mục I (Nhận xét), GV cần chủ động dẫn dắt, gợi ý cho HS trao đổi chung ở lớp để từ đó rút ra những điểm cần ghi nhớ về kiến thức một cách nhanh gọn (tránh phân tích ngữ liệu quá kĩ, mất nhiều thời gian). (2) Trong quá trình thực hành Luyện tập (mục III), GV có thể nhắc lại một số kiến thức liên quan để HS dễ thực hiện bài tập ; tổ chức HS làm bài theo hình thức trao đổi nhóm (trên cơ sở vận dụng kiến thức đã học), kết hợp tự học và giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ được giao. GV cũng cần chú ý hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu của bài tập, làm thử trên lớp một phần hoặc một bài cụ thể trước khi yêu cầu HS làm vào bảng nhóm hoặc vở ghi bài, vở nháp,... Sau đó, GV tổ chức đánh giá kết quả làm bài của HS để củng cố, uốn nắn kịp thời. 28. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> (3) Đối với một số tiết học có nhiều bài tập (không đủ thời gian thực hiện kĩ trong một tiết) hoặc bài tập có yêu cầu cao so với trình độ HS (đối tượng học yếu, còn hạn chế về tiếng Việt), GV có thể giảm nhẹ hoặc gợi ý cụ thể (“dễ hoá”) để HS có khả năng thực hiện được yêu cầu cơ bản, chấp nhận được ở mức độ tối thiểu. b) Dạy kiến thức văn học, tập làm văn b.1. Dạy kiến thức văn học Theo Chương trình môn Tiếng Việt (lớp 5), kiến thức văn học không có bài học riêng, chỉ cung cấp cho HS “Một số bài văn, đoạn văn, bài thơ, màn kịch về thiên nhiên, đất nước, con người và một số vấn đề xã hội có tính thời sự. Sơ giản về cốt truyện và nhân vật ; lời người kể chuyện, lời nhân vật.” (Chương trình GDPT cấp Tiểu học, Bộ GD&ĐT, 2006). Qua hệ thống văn bản đa dạng, phong phú,... các bài tập đọc có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm, trau dồi nhân cách cho HS và bồi dưỡng cho HS ngôn ngữ văn học, những hình tượng giàu chất thẩm mĩ, nhân văn. b.2. Dạy kiến thức tập làm văn Kiến thức tập làm văn quy định trong Chương trình môn Tiếng Việt (lớp 5) được cung cấp chủ yếu qua các bài học thuộc phân môn Tập làm văn. Có các dạng bài như sau : – Dạy bài hình thành kiến thức, GV hướng dẫn HS theo ba phần của bài học (tương tự loại bài cung cấp kiến thức ở phân môn Luyện từ và câu) : (I) Nhận xét : Dựa theo câu hỏi, bài tập gợi ý trong SGK, thông qua khảo sát văn bản, GV giúp HS nhận diện, xác định những kiến thức cần ghi nhớ (nêu ở mục II, SGK). (II) Ghi nhớ : Yêu cầu HS đọc kĩ nội dung cần ghi nhớ (tóm tắt ở mục II, SGK), nắm vững kiến thức để vận dụng trong thực hành luyện tập (qua các bài tập ở mục III). (III) Luyện tập : GV hướng dẫn HS thực hiện từng bài tập trong SGK theo trình tự các thao tác cơ bản : Đọc và nhận hiểu yêu cầu của bài tập ; thực hành luyện tập theo từng yêu cầu của bài tập (có thể làm thử một phần bài tập theo. 29. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> sự hướng dẫn của GV, sau đó trao đổi nhóm, cặp... để hoàn thành yêu cầu) ; trình bày kết quả trước lớp để GV nhận xét, đánh giá nhằm củng cố kiến thức đã học. Ở tiểu học, yêu cầu dạy kiến thức tập làm văn chỉ được đặt ra ở các lớp 4, 5, nhằm phục vụ cho việc rèn luyện các kĩ năng cơ bản trong quá trình sản sinh văn bản. Do vậy, các kiến thức này mới dừng ở mức độ sơ giản và mang tính thực hành là chủ yếu. 2. Dạy học các kĩ năng đọc, nghe, nói, viết theo quan điểm tích hợp a) Dạy kĩ năng đọc Việc dạy học kĩ năng đọc cho HS lớp 5 được thực hiện trước hết và chủ yếu ở phân môn Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 5. Mức độ cần đạt về kĩ năng đọc (Chuẩn kiến thức, kĩ năng) của HS lớp 5 vào cuối năm học được xác định như sau : – Đọc thông : + Đọc đúng các văn bản nghệ thuật, hành chính, khoa học, báo chí,... có độ dài khoảng 250 – 300 chữ với tốc độ 100 – 120 chữ / phút. + Đọc thầm bằng mắt với tốc độ nhanh hơn lớp 4. + Biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, trích đoạn kịch ngắn (biết điều chỉnh giọng đọc về cao độ, trường độ, nhấn giọng ở các từ ngữ quan trọng để thể hiện cảm xúc trong bài. – Đọc – hiểu : + Nhận biết dàn ý của bài đọc ; hiểu nội dung chính của từng đoạn trong bài, nội dung của cả bài. + Biết phát hiện một số từ ngữ, hình ảnh, chi tiết có ý nghĩa trong bài văn, bài thơ, trích đoạn kịch được học ; biết nhận xét về nhân vật trong các văn bản tự sự. Biết phát biểu ý kiến cá nhân về cái đẹp của văn bản đã học. + Biết tóm tắt văn bản tự sự đã học. – Ứng dụng kĩ năng đọc : + Biết tra từ điển và một số sách công cụ. 30. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> + Nhận biết nội dung, ý nghĩa của các kí hiệu, số liệu, biểu đồ trong văn bản. + Thuộc khoảng 7 bài thơ, đoạn văn xuôi dễ nhớ có độ dài khoảng 150 chữ. Để giúp HS đạt “Chuẩn kiến thức, kĩ năng” một cách chắc chắn, GV vừa phải quan tâm hướng dẫn HS thực hành tích cực trong giờ Tập đọc vừa phải có ý thức kết hợp “dạy đọc” qua các bài học ở phân môn khác, môn học khác, theo quan điểm tích hợp. Việc dạy kĩ năng đọc cho HS cần chú trọng cả hai hình thức : đọc thành tiếng, đọc thầm ; vận dụng linh hoạt các biện pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của HS qua các hoạt động luyện đọc và tìm hiểu bài. a.1. Đọc thành tiếng Luyện đọc thành tiếng là cơ hội để GV trực tiếp dạy kĩ năng đọc cho từng HS. Tuy nhiên, việc dạy học chỉ đạt hiệu quả tốt và phù hợp với từng đối tượng HS khi GV “biết nghe HS đọc” để từ đó lựa chọn nội dung và biện pháp dạy học thích hợp. VD : – Đối với HS đọc kém do trình độ chưa đạt “Chuẩn” ở lớp dưới, GV cần kiên trì giúp đỡ và phụ đạo thêm (không “bỏ qua” nhưng cũng không “nôn nóng” đòi hỏi ráo riết phải đọc đúng ngay tại lớp). – Đối với HS đọc chưa chính xác do cấu tạo bộ máy phát âm còn khiếm khuyết, GV cần luyện tập riêng bằng phương pháp “đặc biệt” và giúp đỡ thêm ngoài giờ học. – Đối với HS đọc chưa đạt yêu cầu do thiếu ý thức (chưa tập trung cao vào việc đọc) hoặc ảnh hưởng thói quen (ê a, liến thoắng,...), GV cần chỉ rõ hạn chế và tìm cách giúp HS khắc phục. Nghe một HS đọc, GV còn cần biết cách gợi ý để HS tự nhận biết và sửa lỗi (phát âm chưa chính xác, đọc thừa, thiếu tiếng, đọc sai từ ngữ do ngắt hơi chưa đúng,...), hoặc “định hướng” cho HS khác nhận xét rõ chỗ “được”, chỗ “chưa được” của bạn để HS vừa đọc biết rút kinh nghiệm và đọc tốt hơn (VD : Bạn đã đọc đúng và rành mạch chưa ? Ở câu thứ hai của đoạn văn, bạn đã biết nhấn giọng từ ngữ nào ? Theo em, bạn đã đọc đoạn văn với giọng vui hay buồn?... Bạn phát âm còn sai/lẫn từ nào ? Nghe bạn đọc, em thấy chỗ nào ngắt nghỉ hơi chưa đúng ?...) ; tránh đưa ra những câu hỏi yêu cầu HS nêu nhận xét chung chung, không “dạy” được điều gì về cách đọc (VD : Em nhận xét bạn đọc thế nào ? / Bạn đọc tốt ạ !...). 31. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Ở lớp 5, căn cứ theo “Chuẩn kiến thức, kĩ năng”, yêu cầu hướng dẫn HS luyện đọc thành tiếng hướng tới mục đích luyện đọc hay (hoặc diễn cảm) là chủ yếu. Tuy nhiên, trước khi luyện đọc hay, HS cần đạt được các yêu cầu đọc đúng và hiểu nội dung bài đọc. Đây cũng là cơ sở khoa học của quy trình dạy học cơ bản đối với tiết Tập đọc lớp 5 : Luyện đọc – Tìm hiểu bài – Đọc diễn cảm (văn bản văn học) hoặc Luyện đọc lại (văn bản khác). * Luyện đọc đúng Muốn hướng dẫn HS đọc đúng, GV cần nghe HS đọc để nhận xét, gợi ý về cách phát âm, về ngắt nghỉ hơi hay tốc độ đọc sao cho thích hợp đối với từng giai đoạn trong năm học (theo Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng... Lớp 5). Chính vì vậy, hoạt động luyện đọc từng đoạn nối tiếp trong bước đầu tiếp xúc với văn bản và củng cố kĩ năng đọc trơn đã được dạy ở các lớp dưới cần được GV tổ chức tốt trong giờ Tập đọc lớp 5. Để triển khai hoạt động này có hiệu quả, GV lưu ý hai việc cơ bản sau : – Chia đoạn đọc Việc chia văn bản thành các đoạn đọc (đơn vị lớn hơn câu – cao hơn yêu cầu đọc nối tiếp ở các lớp 2, 3) nhằm tạo điều kiện cho nhiều HS tham gia vào hoạt động thực hành, tự bộc lộ năng lực đọc của cá nhân (không đồng nhất với cách chia đoạn theo bố cục của văn bản). GV có thể tham khảo trong SGV hoặc căn cứ vào trình độ đọc của HS trong lớp để chia văn bản thành các đoạn đọc, sao cho mỗi đoạn không quá dài hoặc quá chênh lệch nhau về số chữ ; cách ngắt đoạn cũng không nên quá “chi li”, gây khó khăn cho trẻ khi theo dõi và đọc nối tiếp. Trước khi tiến hành luyện đọc, GV cần yêu cầu HS nhận biết rõ các đoạn đọc để thực hiện đúng (có thể đánh dấu bằng bút chì, nếu cần). – Hướng dẫn luyện đọc + Dựa vào số đoạn đọc đã chia trong văn bản, GV cần chỉ định trước số HS tham gia đọc nối tiếp ở mỗi vòng đọc (tuỳ theo cách tổ chức của GV, HS có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn sàng đọc tiếp, không bị ngắt quãng). + Để củng cố kĩ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới đối với nhiều HS trong lớp, GV nên hướng dẫn HS luyện đọc nối tiếp qua 3 vòng với dụng ý sư phạm chủ yếu như sau : 32. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> * Vòng 1 : Qua những HS đọc nối tiếp, GV nghe và phát hiện những hạn chế về cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu (nếu có), từ đó có biện pháp giúp đỡ đối với cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để HS đạt yêu cầu đọc đúng và rành mạch. * Vòng 2 : HS đọc nối tiếp, kết hợp nắm nghĩa từ được chú giải trong SGK (việc tìm hiểu nghĩa từ có thể xen kẽ trong quá trình đọc nối tiếp từng đoạn hoặc sau khi đọc hết bài). Lưu ý : ở vòng 2, nếu còn HS đọc sai, GV vẫn cần tiếp tục hướng dẫn hoặc nhắc nhở. * Vòng 3 : HS đọc nối tiếp để GV kiểm định, đánh giá sự tiến bộ và tiếp tục nhắc nhở về hạn chế mà HS cần khắc phục (nếu có). Tinh thần cơ bản của việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp là thực hành, qua thực hành mà HS được GV chỉ dẫn, uốn nắn hay động viên, khích lệ để đạt vững chắc kĩ năng đã học ở các lớp dưới, chuẩn bị cho việc tiếp nhận và luyện tập về kĩ năng đọc diễn cảm. * Luyện đọc hay (luyện đọc diễn cảm) Để hướng dẫn HS đọc hay (đọc diễn cảm), GV cần tổ chức HS tìm hiểu bài đọc, sau đó căn cứ vào nội dung, phong cách văn bản để dẫn dắt, gợi mở HS tìm ra cách đọc và tập thể hiện bằng giọng đọc có biểu cảm. Cụ thể : – Đối với văn bản nghệ thuật : GV dạy kĩ năng đọc diễn cảm sau khi HS đã đạt những yêu cầu tối thiểu về trình độ đọc (đọc đúng, rõ ràng, rành mạch,…), đã tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc. Nói chung, muốn đọc diễn cảm một văn bản, người đọc phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả ; thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Ở tiểu học, khi dạy HS đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc, GV thường hướng dẫn các em luyện tập để từng bước đạt được những yêu cầu nói trên, theo các mức độ từ thấp đến cao như sau : + Biết nhấn mạnh các từ ngữ quan trọng trong câu (từ ngữ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ “chìa khoá” làm nổi bật ý chính,…). + Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ,…) phù hợp với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến). 33. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> + Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả và lời nhân vật. + Biết đọc phân biệt lời của các nhân vật sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và tính cách của từng nhân vật (người già, trẻ em ; người tốt, kẻ xấu ; …). + Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản hay thái độ, cảm xúc của tác giả (vui, buồn, trang nghiêm, giận dữ,…). Đối với lớp 5, để dạy cho HS từng bước hình thành kĩ năng đọc diễn cảm, GV thường thông qua biện pháp đọc mẫu (có tính định hướng), giúp HS thực hành luyện tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài qua giọng đọc. Bên cạnh những điểm chung dễ thống nhất về cách đọc, mỗi cá nhân còn có thể có những nét cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn cảm bộc lộ những khía cạnh sáng tạo đáng được tôn trọng (GV không nên áp đặt cho HS một cách đọc theo khuôn mẫu). Do vậy, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của HS trong quá trình tập đọc diễn cảm, cách tốt nhất là GV tổ chức cho HS luyện tập “tự bộc lộ” (trên cơ sở đọc mẫu của GV và kết quả của việc tìm hiểu bài), qua đó mà chỉ dẫn, điều chỉnh về cách đọc cho HS ; tránh thiên về tìm hiểu, phân tích quá chi tiết về cách đọc (VD : xác định chỗ ngắt hơi, cao giọng, thấp giọng,…) rồi sau đó mới tập đọc thể hiện theo cách giống nhau. Xuất phát từ trình độ HS, GV có thể hướng dẫn luyện đọc diễn cảm như sau : * Sau khi tìm hiểu bài, GV yêu cầu HS đọc thật tốt một đoạn (nhằm “thăm dò” khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của HS). * Qua kết quả đọc của HS, GV dẫn dắt, gợi ý để HS phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tự tìm ra cách đọc sao cho hợp lí (VD : Đoạn văn vừa rồi được đọc với giọng vui hay buồn? Để nêu bật đặc điểm của nhân vật, bạn đã chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói của nhân vật cần đọc với thái độ như thế nào?...). * GV đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc “tạo tình huống” để HS nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc (VD : Nghe và phát hiện cách đọc của cô (thầy) đã ngừng nghỉ (ngắt nhịp) ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ nào ?...) * Tạo điều kiện cho từng HS được thực hành luyện đọc diễn cảm (theo cặp, theo nhóm) để tự rút kinh nghiệm ; tổ chức cho HS thi đọc diễn cảm trước lớp để được học tập lẫn nhau và được GV động viên hay uốn nắn... 34. Lop1.net.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×