Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những người đồng giới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO DUY HOÀNG TÙNG

ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI KẾT HỢP
DÂN SỰ GIỮA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG GIỚI Ở
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO DUY HOÀNG TÙNG

ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI KẾT HỢP
DÂN SỰ GIỮA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG GIỚI Ở
VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ CÔNG GIAO

Hà Nội – 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

ĐÀO DUY HOÀNG TÙNG


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI KẾT
HỢP DÂN SỰ GIỮA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG GIỚI........................................ 7
1.1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật .................................................................... 7
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của điều chỉnh pháp luật ...................................... 7
1.1.2. Một số đặc điểm của điều chỉnh pháp luật................................................ 10
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới.
................................................................................................................ 13
1.2.1. Khái niệm kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ........................... 13
1.2.2. Đặc điểm của kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ...................... 16
1.2.3. Nội dung kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ............................. 19
1.3. Đặc điểm, nội dung điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những
ngƣời đồng giới. .................................................................................................. 21
1.3.1. Đặc điểm của điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những
ngƣời đồng giới. .................................................................................................. 21
1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời

đồng giới. .......................................................................................................... 24
1.4. Những yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế
điều chỉnh pháp luật đối với kết hôn dân sự giữa những ngƣời đồng giới. ........ 27
1.5. Pháp luật về kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới tại một số quốc
gia trên thế giới.................................................................................................... 31
Chƣơng 2:
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI KẾT HỢP DÂN SỰ GIỮA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG GIỚI Ở VIỆT
NAM ................................................................................................................... 37
2.1. Quá trình điều chỉnh pháp luât đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời
đồng giới ở Việt Nam .......................................................................................... 37


2.1.1. Giai đoạn trƣớc năm 1986......................................................................... 37
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1986 cho đến nay ......................................................... 39
2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời
đồng giới ở Việt Nam. ......................................................................................... 48
2.2.1. Hiến pháp năm 2013 ................................................................................. 48
2.2.2. Bộ luật dân sự 2015................................................................................... 52
2.2.3. Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 ........................................................ 53
2.3. Xu hƣớng điều chỉnh pháp luật về kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng
giới tại một số quốc gia trên thế giới. ................................................................. 57
2.3.1. Một số quốc gia công nhận và bảo vệ quyền của ngƣời đồng tính trong
pháp luật

.......................................................................................................... 57

2.3.2. Một số quốc gia không công nhận quyền của ngƣời đồng tính trong pháp
luật


.......................................................................................................... 65

Chƣơng 3:
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI KẾT HỢP DÂN SỰ GIỮA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG GIỚI Ở
VIỆT NAM.......................................................................................................... 69
3.1. Những yêu cầu để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp
dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam. ............................................... 69
3.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự
giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam. ........................................................... 72
3.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự
giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam ............................................................ 78


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

DOMA : Defense of Marriage Act (Đạo luật bảo vệ hôn nhân)
HNCG: Hôn nhân cùng giới
LGBT: lesbian, gay, bisexual, and transgender (đồng tính nữ, đồng tính nam,
lƣỡng tính, chuyển giới)


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Đối với nhiều ngƣời, thông thƣờng kết hợp dân sự chỉ đƣợc thể hiện qua
hai khái niệm: hôn nhân và không phải hôn nhân. Theo quan niệm phổ biến
trên thế giới hiện nay, Hôn nhân là hình thức kết đơi có đăng ký với nhà nƣớc,

đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn với đầy đủ các quyền, nghĩa vụ và
sự công nhận pháp lý giữa những ngƣời khác giới cũng nhƣ đồng giới. Tuy
nhiên, trên thực tế ở Việt Nam, hiện hôn nhân đồng giới (hay hôn nhân cùng
giới) chƣa đƣợc pháp luật công nhận dù không cấm.
Năm 2013, lần đầu tiên một cuộc điều tra quốc gia nhằm trƣng cầu ý
kiến ngƣời dân về hôn nhân cùng giới (HNCG) đƣợc triển khai trên địa bàn 68
xã/phƣờng thuộc 8 tỉnh thành phố. Đƣợc thực hiện bởi Viện Xã hội học, Viện
Chiến lƣợc và Chính sách Y tế và Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi
trƣờng, cuộc điều tra phản ánh tổng quát quan điểm xã hội về việc luật hóa hôn
nhân cùng giới, quyền của cặp đôi cùng giới và tác động xã hội có thể có nếu
hình thái hơn nhân này đƣợc pháp luật công nhận. Kết quả khảo sát cho thấy
ngƣời dân khá quan tâm đến vấn đề HNCG. Một số kết luận đƣợc đƣa ra từ
cuộc khảo sát nhƣ sau[13]:
Thứ nhất, cộng đồng ngƣời đồng tính tồn tại trên thực tế và khá gắn bó
với cộng đồng xã hội khi có tới 30,4% ngƣời đƣợc hỏi có quen biết ngƣời đồng
tính. Bên cạnh đó, 27,4% ngời dân biết về hiện tƣợng “hai ngƣời đồng giới
sống chung nhƣ vợ chồng” trực tiếp từ chính ngƣời đồng tính, chứng tỏ đây là
một hiện tƣợng xã hội cần đƣợc quan tâm và giải quyết về mặt pháp lý[13].
Thứ hai, ngày càng có nhiều ngƣời dân biết về đồng tính, về hiện tƣợng
hai ngƣời đồng giới sống chung nhƣ vợ chồng, và đặc biệt là có một lƣợng khá
lớn ngƣời dân đã biết ai đó là ngƣời đồng tính. Đặc biệt, tỉ lệ ngƣời dân biết về
hiện tƣợng này trong những năm gần đây tăng lên đáng kể nhờ truyền thông,
thảo luận xã hội cũng nhƣ sự công khai sống thật của ngƣời đồng tính[13].

1


Thứ ba, truyền thông, phim ảnh và Internet vẫn là nguồn thơng tin chính
thức về ngƣời đồng tính và quan hệ cùng giới trong xã hội Việt Nam (66,2%
ngƣời dân biết qua kênh này). Tuy nhiên có sự khác nhau theo vùng miền khi

đa số ngƣời miền Bắc và miền Trung biết qua phƣơng tiện truyền thơng, cịn
ngƣời miền Nam biết trực tiếp từ ngƣời đồng tính. Điều này có thể phản ánh xu
thế ngƣời ngƣời đồng tính sống cơng khai nhiều hơn ở miền Nam, khi có tới
42,2% ngƣời miền Nam quen ai đó là ngƣời đồng tính, cịn ở miền Bắc và
Trung có tỉ lệ tƣơng ứng là 13,7% và 17,2%[13].
Thứ tƣ, về việc công nhận quyền sống chung nhƣ vợ chồng của những
ngƣời đồng giới tính, số ngƣời ủng hộ và không ủng hộ khá tƣơng đƣơng nhau,
tƣơng ứng là 41,2% và 46,7%. Số cịn lại khơng quan tâm hoặc không cho ý
kiến[13].
Thứ năm, trong những trƣờng hợp có quen biết ngƣời đồng tính, xác suất
ủng hộ hợp pháp hóa hơn nhân cùng giới lớn gấp đơi so với trƣờng hợp không
quen biết. Điều này cho thấy việc xuất hiện cơng khai, sống thật của ngƣời
đồng tính có tác động đến thái độ ủng hộ của xã hội[13].
Thứ sáu, có đến 56% ngƣời dân ủng hộ cặp đôi cùng giới cùng nhận con
nuôi và nuôi con; 51% ủng hộ quyền sở hữu tài sản chung và 47% ủng hộ
quyền thừa kế. Điều này thể hiện xu thế đa số ngƣời dân Việt Nam ủng hộ việc
luật pháp bảo vệ quyền con ngƣời[13].
Nhƣ vậy, có thể thấy ở Việt Nam, tuy pháp luật chƣa thừa nhận hôn nhân
giữa những ngƣời đồng giới tính nhƣng ngƣời dân vẫn rất quan tâm đến những
vấn đề đó. Pháp luật Việt Nam khơng cấm nhƣng cũng chƣa có những quy định
đặc biệt điều chỉnh mối quan hệ giữa những ngƣời đồng giới sống chung (quan
hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản), mặc dù pháp luật một số nƣớc đã đề cập
từ lâu.
Bối cảnh trên cho thấy vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ giữa
những ngƣời đồng giới có tính chất cấp thiết ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy tác

2


giả lựa chọn đề tài: “Điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những

người đồng giới ở Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sĩ.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Ngƣời đồng tính, song tính và chuyển giới là một nhóm ngƣời có xu
hƣớng tính dục và bản dạng giới thiểu số trong xã hội. Sự tồn tại của họ mang
tính tự nhiên, do bẩm sinh, họ không bị bệnh nên không cần và không thể điều
trị [17]. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, họ chƣa đƣợc pháp luật thừa nhận
nên thƣờng bị xếp vào một trong hai nhóm ngƣời: nam hoặc nữ có xu hƣớng
tính dục dị tính [9]. Việc phân loại này vơ hình trung dẫn đến tình trạng một số
quyền và lợi ích chính đáng của họ khơng đƣợc nhà nƣớc bảo đảm nhƣ quyền
kết hôn, quyền nuôi con nuôi, quyền bảo vệ nhân phẩm, danh dự…[26]
Một vài năm trở lại đây, vấn đề kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng
giới đã trở thành một vấn đề thời sự đƣợc xã hội và một số cơ quan nhà nƣớc
quan tâm. Trong tình hình đó, đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề
này đƣợc thực hiện và công bố, tiêu biểu nhƣ sau:
-

Quyền ni con ni của ngƣời đồng tính, song tính và chuyển

giới tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị - Báo cáo viết cho UNDP Việt
Nam của Văn Phòng Luật sƣ NHQuang và Cộng sự, năm 2015.
-

Những hình thức chung sống giữa ngƣời đồng giới trên thế giới –

ICS, năm 2012.
-


Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về quyền của ngƣời đồng

tính – Trƣơng Hồng Quang – Viện khoa học pháp lý - Bộ tƣ pháp (Năm 2012).
-

“Cơ sở lý luận về quyền của ngƣời đồng tính” Trƣơng Hồng

Quang, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (Văn phòng Quốc hội), số 24, tháng
12/2012, tr.22-28, 36.
-

“Quan điểm xã hội về đồng tính và hơn nhân đồng giới” - TS.

Nguyễn Thị Thu Nam, Báo cáo đƣợc trình bày tại Hội thảo do Viện iSEE tổ
chức ngày 13/12/2012.

3


-

Ngƣời đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam - Nxb Khoa

học xã hội, Phạm Quỳnh Phƣơng, năm 2013.
-

“Một số góc nhìn về quyền kết hơn giữa những ngƣời cùng giới

tính”, Trƣơng Hồng Quang, năm 2012.
-


“Báo cáo số 9734/PL về kết quả khảo sát của đồn cơng tác liên

ngành về dự án Bộ luật dân sự và Dự án luật hơn nhân và gia đình”, Văn phịng
chính phủ, ngày 28/11/2012
-

“Nhận thức về ngƣời đồng tính và quyền của ngƣời đồng tính”

Trƣơng Hồng Quang, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật (Viện Nhà nƣớc và Pháp
luật), số tháng 3/2012, tr.25-34, 44.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và phân tích vấn đề kết hợp
dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam với mức độ và giác độ khác
nhau. Có cơng trình phân tích, bình luận vấn đề từ khía cạnh pháp lý, trong khi
có cơng trình nghiên cứu thực trạng về kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng
giới. Bên cạnh đó, có những cơng trình tập trung đánh giá thực trạng áp dụng
điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở một
số quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, hiện vẫn chƣa có cơng trình nào cung cấp những phân tích
tồn diện, chun sâu về cơ chế điều chỉnh pháp luật về kết hợp dân sự giữa
những ngƣời đồng giới ở Việt Nam.
3.

Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là góp phần củng cố cơ sở khoa học,
từ đó hồn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về kết hợp dân sự giữa những
ngƣời đồng giới ở Việt Nam.
Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài là:

- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cơ chế điều chỉnh pháp
luật đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới;

4


- Đánh giá khái quát hiệu quả điều chỉnh của các quy định này đối với
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kết hợp dân sự giữa những ngƣời
đồng giới ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam;
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là sự điểu chỉnh của nhà nƣớc đối với
việc kết hợp dân sự thông qua những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của ngƣời đồng giới ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ chế điều chỉnh pháp
luật đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới. Những nội dung khác
về ngƣời đồng giới cũng có thể đƣợc đề cập và phân tích song chỉ để làm tiền đề
cho việc làm rõ cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những
ngƣời đồng giới.
Về mặt không gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu cơ chế điều chỉnh pháp
luật đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam. Việc đề cập
đến vấn đề này ở một số quốc gia khác chỉ mang tính khái quát, để tham chiếu
với Việt Nam.
Về mặt thời gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật có

liên quan ở Việt Nam mà hiện đang có hiệu lực áp dụng (“cơ chế điều chỉnh
pháp luật hiện hành đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới). Việc
đề cập đến các văn bản pháp luật về vấn đề này đƣợc ban hành trong thời gian
trƣớc đây chỉ mang tính khái quát, để tham chiếu với khung pháp luật hiện
hành.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

5


Luận văn áp dụng quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác và
lý thuyết về quyền tự nhiên nhƣ là phƣơng pháp luận cho việc phân tích vấn đề
nghiên cứu .
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học
xã hội nhƣ tổng hợp, phân tích, so sánh... để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu
đặt ra.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần củng cố cơ sở khoa học về cơ chế điều chỉnh pháp luật
đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự
giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời là tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật về dân sự và pháp luật
về quyền con ngƣời ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của
Việt Nam.

7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều chỉnh pháp luật đối với kết hợp
dân sự giữa những ngƣời đồng giới;
Chương 2: Quá trình phát triển và thực trạng điểu chỉnh pháp luật đối với
kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở Việt Nam;
Chương 3: Những yêu cầu, quan điểm, giải pháp hoàn thiện cơ chế điều
chỉnh pháp luật đối với kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới ở Việt
Nam.

6


Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI
VỚI KẾT HỢP DÂN SỰ GIỮA NHỮNG NGƢỜI ĐỒNG GIỚI
1.1.Khái niệm điều chỉnh pháp luật
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của điều chỉnh pháp luật
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nƣớc, pháp
luật ra đời là công cụ hữu hiệu đƣợc sử dụng nhằm mục đích điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội giữa con ngƣời với nhau. Bên cạnh đạo đức và chuẩn mực
xã hội, pháp luật cũng đƣợc thừa nhận và sử dụng trên phạm vi rộng rãi, tuy
nhiên, sự điều chỉnh của pháp luật có tính nghiêm minh và hiệu quả cao hơn rất
nhiều so với các công cụ điều chỉnh xã hội khác của Nhà nƣớc
Về phạm vi tác động, giữa đạo đức và pháp luật ln có mối quan hệ
giao thoa, tƣơng hỗ lẫn nhau. Pháp luật nâng cao tính ràng buộc của các quy tắc

đạo đức, cịn đạo đức mở rộng, khái quát các chuẩn mực cho hành vi pháp luật.
Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngồi các biện pháp tích cực
khác, khơng thể thiếu vai trị của pháp luật và ý thức pháp luật. Pháp luật càng
chặt chẽ, càng đầy đủ và đƣợc thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng đƣợc đề
cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng đƣợc mở rộng và ảnh
hƣởng một cách tồn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con
ngƣời với con ngƣời, giữa con ngƣời với xã hội.
Trƣớc đây, trong một thời kỳ dài của lịch sử nƣớc ta, Nho giáo đƣợc phổ
biến rộng rãi tới quần chúng nhân dân, theo đó nhà nƣớc lấy các tƣ tƣởng về
đạo đức trong Nho giáo để răn dạy con ngƣời. Với chủ trƣơng "đức trị", Nho
giáo đã "đạo đức hố chính trị” và đề cao, thậm chí đến mức tuyệt đối việc
quản lý xã hội bằng cách nêu gƣơng những tấm gƣơng tốt, cảm hoá điều ác,
làm cho dân chúng an tâm và qua đó, hy vọng tất cả mọi ngƣời có thể cùng
nhau tạo nên sự ổn định của xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động to lớn,
tích cực đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế nhất
định. Một số tƣ tƣởng trong đạo đức và văn hóa Nho giáo mang tính tiêu cực
7


và bảo thủ, áp đặt cho tất cả các trƣờng hợp cũng nhƣ tất cả mọi ngƣời, tạo nên
sự cào bằng về tƣ tƣởng và tƣ duy của con ngƣời. Điều này dẫn tới sự kìm hãm
khả năng phát triển con ngƣời và khiến con ngƣời phải chịu những ràng buộc
về tƣ tƣởng khi nó khơng cịn phù hợp.
Đối lập với chủ trƣơng "đức trị" là tƣ tƣởng "pháp trị". Theo tƣ tƣởng
này, nhà cầm quyền ban hành và sử dụng những quy tắc pháp luật, những điều
luật cụ thể trong các bộ luật đƣợc áp dụng để bắt buộc ngƣời dân phải tn thủ,
kèm theo đó là các hình phạt vơ cùng nghiêm khắc. Chủ trƣơng "pháp trị" có
điểm tích cực là đi kèm với thƣởng phạt phân minh, đƣa xã hội đi vào cuộc
sống có quy củ, vận hành theo khn khổ của phép tắc, song có hạn chế là tạo
nên một chế độ nhà nƣớc phong kiến hà khắc và tàn bạo.

Tóm lại, việc quản lý xã hội bằng cả tƣ tƣởng "đức trị" và "pháp trị" thời
phong kiến ngồi những mặt tích cực cũng đều có tính chất tiêu cực. Thực tế,
những tƣ tƣởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà các thế lực thống trị
sử dụng để củng cố địa vị, quyền lực của mình và cai trị đất nƣớc chứ chƣa
hƣớng tới mục tiêu vì quyền và lợi ích hợp pháp của con ngƣời, các quyền cơ
bản mà mỗi con ngƣời sinh ra đều phải có.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, sẽ đến thời kỳ Nhà nƣớc khơng
cịn là bộ máy thống trị của giai cấp mà chỉ giữ vai trị là ngƣời đại diện cho
tồn thể nhân dân, các chủ thể trong xã hội đều đƣợc đối xử công bằng và bình
đẳng với nhau. Đến giai đoạn này, hoạt động quản lý xã hội của Nhà nƣớc và
hệ thống pháp luật tự thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức.
Trên phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn, pháp luật ln có vai trị
bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con ngƣời,
đồng thời, tạo điều kiện cho con ngƣời phát huy những năng lực thực tiễn của
mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế
các quyền thiêng liêng của con ngƣời, sự tôn trọng các giá trị nhân văn trong xã
hội. Một hệ thống pháp luật khi đƣợc xây dựng một cách hồn chỉnh sẽ thể hiện
đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông ngƣời dân, phù hợp với xu thế vận
8


động của lịch sử, qua đó đảm bảo đƣợc tối đa quyền và lợi ích chính đáng của
mỗi ngƣời dân, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Thực tế lịch sử loài ngƣời cho thấy rằng pháp luật đã đóng vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội, bảo vệ quyền cá
nhân con ngƣời. Pháp luật đã trở thành phƣơng tiện không thể thiếu đƣợc cho
sự tồn tại bình thƣờng của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng, đặc biệt
là đối với quyền con ngƣời. Pháp luật là một trong những biện pháp và công cụ
để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen, đồng thời
đƣa những thói quen ấy vào đời sống thực tiễn để đảm bảo cho sự cân bằng các

quyền và lợi ích của cá nhân với lợi ích chung, thức đo chung của xã hội.
Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trị của pháp luật càng quan
trọng bấy nhiêu, khi đó quyền con ngƣời càng cần nhận đƣợc sự bảo đảm từ
pháp luật bấy nhiêu. Vì vậy, khơng thể bng lỏng pháp luật nếu việc này chƣa
đƣợc chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội và hƣớng tới mục tiêu vì con
ngƣời.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng và q trình tồn cầu hóa hiện
nay, u cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền văn hóa
và đạo đức của xã hội để tạo nên cơ sở vững chắc và lâu dài cho việc bảo đảm
các quyền con ngƣời. Nền kinh tế - văn hóa – xã hội của Việt Nam đang vận
hành theo cơ chế thị trƣờng và tồn cầu hố mà trong đó các nƣớc hợp tác và
học hỏi lẫn nhau cả về kinh tế cũng nhƣ văn hóa, do đó địi hỏi khơng chỉ riêng
Việt Nam mà mỗi quốc gia trong hoạt động quản lý, điểu chỉnh văn hóa của
mình phải tính tốn chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả quản lý.
Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn thì quan hệ
giữa con ngƣời với con ngƣời khơng thể chỉ là những mối quan hệ đơn thuần
thƣờng thấy. Nó xuất hiện và tồn tại nhiều mối quan hệ mà pháp luật phải tôn
trọng và khi những quan hệ này khơng làm xâm hại đến chủ thể khác thì nó cần
đƣợc xã hội thừa nhận và pháp luật đảm bảo.

9


Nhƣ đã phân tích, trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trị đặc biệt
quan trọng. Nó là phƣơng tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận
hành bình thƣờng của các hành vi trong xã hội nói chung và của các quan hệ
dân sự nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nƣớc hữu
hiệu, mà cịn tạo mơi trƣờng thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm
lành mạnh hoá đời sống xã hội lấy con ngƣời và những quyền con ngƣời cơ bản
làm trọng tâm để góp phần bồi đắp nên những giá trị mới cho nhân loại và cho

lịch sử phát triển của quốc gia, dân tộc, hoặc xa hơn là sự phát triển của loài
ngƣời.
Trong công cuộc đổi mới đất nƣớc ở Việt Nam hiện nay, việc tăng cƣờng
vai trò của pháp luật đƣợc đặt ra nhƣ một tất yếu khách quan. Điều đó khơng
chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cƣơng, văn minh, mà còn
hƣớng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức xã hội
và nhân quyền. Bên cạnh đó, pháp luật còn cần phải đề cao quyền con ngƣời
thiết yêu, các quyền về dân sự chính trị chƣa đƣợc thừa nhận rộng rãi, điều đó
đặc biệt cần thiết đối với một số nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng bao gồm những
ngƣời đồng giới. Nói cách khác, pháp luật Việt Nam hiện nay nói riêng và sau
này nói chung có vai trị quan trọng trong hệ thống các cơng cụ điều chỉnh quan
hệ xã hội, đặc biệt là điều chỉnh và bảo đảm accs quyền của những ngƣời đồng
tính. Sự điều chỉnh dù là pháp lý hay xã hội cũng đều có mục đích là đƣa các
hoạt động, hành vi của con ngƣời vào những trật tự - khuôn khổ nhất định theo
những cung cách nhất định nhƣng không đƣợc phép làm mất đi giá trị vốn có
của nó.
1.1.2. Một số đặc điểm của điều chỉnh pháp luật
Quan hệ dân sự giữa các cá nhân với nhau nói chung hay quan hệ kết
hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới nói riêng là các mối quan hệ phổ biến
và dễ dàng nhận biết. Các mối quan hệ này đƣợc thiết lập tạo nên sự phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên, có tác động lớn tới sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế - xã hội của một quốc gia. Chính vì vậy, sự
10


điều chỉnh các quan hệ này cũng cần phù hợp với tính chất của mối quan hệ ấy
và phải tƣơng đồng với tƣ tƣởng, văn hóa và đạo đức xã hội. Để các quan hệ
dân sự có tính ràng buộc và chắc chắn, các mối quan hệ này cần phải đƣợc điều
chỉnh bằng pháp luật quốc gia sao cho đảm bảo đƣợc quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể cũng nhƣ đảm bảo đƣợc sự phát triển ổn định của xã hội.

Việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ phát sinh trong xã hội
mang những đặc điểm đó là:
Thứ nhất, điều chỉnh pháp luật là một trong những loại hình của điều
chỉnh xã hội. Phải xem xét đến bản chất của điều chỉnh xã hội thì mới có thể
hiểu đầy đủ về điều chỉnh pháp luật. Các quan hệ phát sinh đƣợc thiết lập bởi
các chủ thể tồn tại thực tế trong xã hội, đồng thời các quan hệ ấy đƣợc diễn ra
phổ biến, liên tục mà ai cũng có thể nhận biết đƣợc, nó đƣợc xem là một phần
của sự phát triển xã hội. Do đó, khi điều chỉnh sự phát triển và toàn vẹn của xã
hội, các quan hệ trên cũng cần đƣợc điều chỉnh và biện pháp điều chỉnh hữu
hiệu nhất là bằng pháp luật. Bên cạnh điều chỉnh pháp luật, các hành vi con
ngƣời và các quan hệ xã hội còn chịu sự điều chỉnh đồng thời của các phƣơng
tiện điều chỉnh xã hội nhƣ đạo đức, tập quán, tôn giáo... Việc điều chỉnh bằng
pháp luật các quan hệ xã hội cũng đồng nghĩa với việc sử dụng một hình thức
điều chỉnh là pháp luật để điều chỉnh xã hội.
Thứ hai, điều chỉnh pháp luật là sự tác động đặc thù có mục đích, có định
hƣớng lên các quan hệ xã hội, đƣợc đảm bảo bằng hoạt động tƣơng ứng của
nhà nƣớc. Đối tƣợng mà điều chỉnh pháp luật hƣớng tới là các hành vi tồn tại
thực tế trong xã hội, những hành vi này có sự tác động nhất định đến quyền và
lợi ích của các cá thể trong xã hội nói riêng và tác động đến sự tồn tại, phát
triển của xã hội nói dung. Do đó, sự tác động cần phải đƣợc kiểm soát và pháp
luật thực hiện nhiệm vụ này. Việc điều chỉnh bằng pháp luật các hành vi trong
xã hội nhằm hƣớng tới kiểm soát sự tác động của nó lên tồn thể xã hội cũng
nhƣ đảm bảo đƣợc các quyền và nghĩa vụ của các cá thể liên quan, tránh làm
phát sinh những ảnh hƣởng và tác động xấu.
11


Thứ ba, điều chỉnh pháp luật đƣợc thực hiện thông qua các phƣơng tiện
pháp lý (quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, các quyết định áp dụng pháp
luật,…). Các quy phạm pháp luật đƣợc xem nhƣ các quy tắc xử xự bắt buộc và

phổ biến áp dụng cho tất cả các chủ thể trên phạm vi lãnh thổ của đất nƣớc ban
hành. Do đó, các quy phạm pháp luật này đƣợc xem nhƣ hình thức thể hiện sự
điều chỉnh tối đa nhất khả năng kiểm soát của nhà nƣớc đối với các hành vi.
Nhƣ vậy, điều chỉnh pháp luật với tƣ cách là yếu tố điều chỉnh có tính quy
phạm và tính bắt buộc chung nhằm mục đích trật tự hóa các quan hệ xã hội, bảo
vệ và phát các quan hệ xã hội.
Thứ tƣ, đối tƣợng mà điều chỉnh pháp luật hƣớng tới là các căn cứ pháp
lý làm cơ sở cho các quan hệ xã hội đƣợc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Các chủ thể thông thƣờng thực hiện các
hành vi giao kết ý chí nhằm làm phát sinh một quan hệ có bao hàm các quyền
và nghĩa vụ liên quan đến ý chí và hành vi mà mình thực hiện. Các quan hệ này
khi đƣợc giao kết đều tạo nên sự phát sinh, thay đổi hoặc làm chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ đƣợc bao hàm trong quan hệ đã giao kết. Do đó, khi pháp
luật đƣợc sử dụng làm công cụ điều chỉnh, mục tiêu mà nó nhằm tới chính là
các mối quan hệ này. Và khi pháp luật điều chỉnh có sự thay đổi, sự biến động
của pháp luật cũng sẽ đồng thời làm biến đổi những căn cứ pháp lý liên quan
đến hành vi đƣợc điều chỉnh. Bên cạnh đó, với những căn cứ pháp lý để điều
chỉnh các quan hệ pháp luật, khi xuất hiện các hành vi xâm phạm các quyền
bên trong quan hệ pháp luật sẽ tạo nên một yêu cầu khác của pháp luật đó là xử
phạt các hành vi vi phạm thông qua các chế tài và các thủ tục tố tụng để áp
dụng các chế tài xử lý các hành vi vi phạm trên thực tiễn.
Ngoài ra, điều chỉnh pháp luật cịn có chức năng bảo vệ các quan hệ xã
hội, loại trừ dần những quan hệ xã hội không phù hợp sự phát triển khách quan
của xã hội. Ví dụ, bằng các quy định cấm những tập tục lạc hậu trong quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, pháp luật góp phần giữ gìn, phát huy các phong
tục truyền thống tốt đẹp, xây dựng quan hệ hơn nhân và gia đình dân chủ, tiến
12


bộ. Sự điều chỉnh của pháp luật phải tạo ra những lá chắn mới để hạn chế sự

gia tăng và loại bỏ dần các yếu tố kìm hãm quyền con ngƣời ra khỏi đời sống
xã hội, những quy tắc, quan niệm về các quan hệ xã hội lạc hậu không còn phù
hợp với sự phát triển khách quan của xã hội cũng cần đƣợc thay đổi dƣới góc
độ pháp lý[32].
1.2.Khái niệm, đặc điểm, nội dung kết hợp dân sự giữa những ngƣời
đồng giới.
1.2.1. Khái niệm kết hợp dân sự giữa những người đồng giới
Theo cách tiếp cận truyền thống và đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận về nhân
chủng học, giới tính của con ngƣời thơng thƣờng đƣợc chia thành hai nhóm là
nam giới và nữ giới; và những ngƣời này đều có xu hƣớng tình dục dị tính (bị
hấp dẫn về cảm xúc, nhu cầu tình dục đối với ngƣời khác giới). Tuy nhiên,
trong lịch sử nhân loại trên thực tế vẫn tồn tại một nhóm ngƣời thiểu số có xu
hƣớng tính dục khác biệt so với hầu hết những ngƣời cịn lại trong xã hội, đó là
ngƣời đồng tính, song tính và chuyển giới. Ngày nay, các nhà khoa học vẫn
đang tìm kiếm căn nguyên hình thành và phát triển xu hƣớng tính dục của các
cá nhân, tuy nhiên vẫn chƣa tìm ra đƣợc câu trả lời chính xác cho vấn đề này.
Dù vậy, quan điểm phổ biến cho rằng: ngƣời đồng tính sinh ra và tồn tại một
cách tự nhiên trong xã hội, giống nhƣ nam giới và nữ giới, họ không bị bệnh về
tâm lý hay tinh thần và tình trạng này khơng có ngun nhân từ những suy nghĩ
hay lối sống bệnh hoạn, lệch lạc về tình dục. [28]
Dựa trên xu hƣớng tính dục và bản dạng giới, các nhà khoa học đã tìm hiểu
về khái niệm ngƣời đồng tính, theo đó “ngƣời đồng tính” (hay cịn đƣợc gọi là
đồng tính luyến ái) là khái niệm đã xuất hiện từ rất lâu, nhƣng mãi đến giữa thế
kỉ thứ 19, thuật ngữ đồng tính“homosexuality” mới lần đầu tiên đƣợc biết đến
bởi một bác sĩ ngƣời Hungary, Benkart (với bút danh là K.M.Kertbeny). [20]
Trong tiếng Anh, ngƣời đồng tính đƣợc gọi chung là homosexual, có thể là một
ngƣời nam hoặc nữ nhƣng có sự hấp dẫn về cảm xúc, tình cảm hoặc tình dục
với ngƣời đồng giới. Ngƣời đồng tính nam thƣờng đƣợc gọi là “gay”, ngƣời
13



đồng tính nữ thƣờng đƣợc gọi là “les” hay “lesbian”. [16] Việc những cá nhân
này có nhu cầu và tiến hành chung sống, kết hôn với nhau khi chƣa đƣợc pháp
luật thừa nhận nhƣ các quan hệ kết hôn dị tính khác thì đƣợc gọi là kết hợp dân
sự.
Khái niệm kết hợp dân sự trong tiếng Anh là civil partnership hay civil
union. Theo nghĩa truyền thống, kết hợp dân sự nói chung đƣợc hiểu là sự kết
đơi giữa hai chủ thể, tạo căn cứ thực tiễn và căn cứ pháp lý để các cặp đơi khác
giới tính đƣợc chung sống có đăng ký với cơ quan có thẩm quyền (tuy chƣa kết
hôn). Ở nhiều quốc gia, kết hợp dân sự đƣợc xem nhƣ là một hình thức tƣơng tự
nhƣ hơn nhân truyền thống mà trong đó gia đình một vợ, một chồng đƣợc kết
hợp bởi một chủ thể là nam và một chủ thể là nữ. Việc kết hợp dân sự này tạo
nên mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ đối với các bên trong
quan hệ, kể cả về quyền nhân thân cũng nhƣ về quyền tài sản.
Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm kết hợp dân sự đã đƣợc mở rộng sang
quan hệ giữa những ngƣời đồng giới. Ở ngày càng nhiều quốc gia, kết hợp dân
sự giữa những ngƣời đồng giới đƣợc xem là một thỏa thuận dân sự có tính chất
tƣơng tự nhƣ hơn nhân, có ý nghĩa cơng nhận mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau
của các cặp vợ chồng đồng giới. Trên thế giới, chế định kết hợp dân sự giữa
những ngƣời đồng giới đã bắt đầu đƣợc thiết lập vào cuối những năm 1990, đầu
tiên ở những nƣớc phát triển, sau đó mở rộng sang những nƣớc đang phát triển.
Chế định kết hợp dân sự đƣợc các nhà vận động cho quyền cho ngƣời
đồng tính (LGBT) xem là "bƣớc đầu tiên" để thiết lập hơn nhân đồng giới, vì nó
đƣợc xem là trạng thái "riêng biệt nhƣng bình đẳng". Hiện nay, ở nhiều quốc
gia đã có thiết chế này trong luật, các thuật ngữ civil partnership hay civil
union đã đƣợc thay thế bằng thuật ngữ “same-sex marriage” (hôn nhân đồng
tính). Sự thay thế này đánh dấu một bƣớc phát triển cao hơn trong việc thừa
nhận và bảo vệ quyền về hơn nhân của ngƣời đồng tính, từ sự thừa nhận ở mức
độ thấp hơn sang thừa nhận ở mức độ ngang bằng với hôn nhân của các cặp đôi
dị tính.

14


Mặc dù vậy, sự kết hợp dân sự và hôn nhân giữa những ngƣời đồng giới
hiện vẫn còn là vấn đề chƣa đƣợc chấp nhận ở một số quốc gia, đặc biệt là đối
với các nƣớc có truyền thống văn hóa lâu đời và mang tính đặc thù về hệ tƣ
tƣởng nhƣ các quốc gia châu Á, trong đó bao gồm Việt Nam. Trên thực tế xã
hội Việt Nam hiện nay cũng nhƣ trong lĩnh vực khoa học pháp lý, chƣa có một
khái niệm pháp lý chính thức nào về kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng
giới.
Dƣới góc độ khoa học pháp lý, việc kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng
giới đƣợc hiểu là hành vi của các chủ thể có cùng giới tính nam – nam (Gay)
hay nữ - nữ (Les) có nhu cầu và tự nguyện chung sống với nhau, cùng nhau xây
dựng một gia đình cũng theo nhƣ mơ hình gia đình truyền thống, các bên mong
muốn đƣợc hƣởng quyền và cùng nhau gánh vác các nghĩa vụ đối với nhau, tạo
nên sự liên kết chặt chẽ đƣợc ghi nhận bởi luật pháp. Việc các chủ thể có cùng
giới tính này đƣợc kết hợp các quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau để tạo nên
mối liên kết giữa hai cá thể hoàn toàn phát sinh từ ý chí độc lập cũng nhƣ nhu
cầu tình cảm, sinh lý của cả hai bên. Do đó, hành vi này không tạo ra sự tác
động tiêu cực đến quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời khác, khơng phải một
sự xâm hại hay cản trở đối với ngƣời thứ ba, hay nói cách khác, đây khơng phải
là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó, có thể thấy, việc các chủ thể
có chung giới tính mong muốn đƣợc chung sống, kết hợp với nhau tạo nên một
gia đình và xác định cùng nhau gánh vác quyền và nghĩa vụ chung để tạo nên
một mối quan hệ ràng buộc là một nhu cầu thực tế cần đƣợc tôn trọng và bảo
đảm. Nhu cầu này không phải là một dạng bệnh lý, nó đƣợc xem nhƣ một dạng
tình cảm đƣợc các bên dành cho nhau với cảm xúc yêu thƣơng giống nhƣ các
cặp đôi khác giới khác[19].
Tựu chung lại, có thể hiểu: “Kết hợp dân sự giữa những người đồng giới
là hình thức kết hợp giữa các cặp đơi có cùng một giới tính nhằm thiết lập một

tình trạng quan hệ chung sống với nhau đồng thời tạo nên sự liên kết về quyền
và nghĩa vụ của các bên chủ thể kể cả quyền nhân thân cũng như quyền tài
15


sản” . Đây là một quan hệ dân sự đã đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới thừa nhận và
điều chỉnh bằng pháp luật, tuy nhiên, hiện vẫn chƣa đƣợc pháp điển hoá ở Việt
Nam.
1.2.2. Đặc điểm của kết hợp dân sự giữa những người đồng giới
Xét tổng quát, kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới là quan hệ dân
sự khơng mới nhƣng chƣa đƣợc tồn bộ quốc gia trên thế giới thừa nhận. Các
quan hệ dân sự này thực tế cũng mang những nội dung cơ bản của các quan hệ
kết hơn dị giới (hơn nhân) khác, vì nó đều làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ kết hơn mà nó thiết
lập nên. Tuy nhiên, với những sự khác biệt về chủ thể, mối quan hệ kết hợp dân
sự giữa những ngƣời đồng tính có một số đặc điểm riêng so với những quan hệ
hôn nhân, gia đình thơng thƣờng.
Việc các chủ thể cùng giới cùng nhau xác lập nên mối quan hệ kết hợp dân
sự thể hiện sự thống nhất ý chí về việc cùng nhau chung sống, cùng nhau chia
sẻ và gánh vác các quyền lợi và nghĩa vụ của nhau trong quá trình chung sống,
đồng thời tạo mối liên kết về các quyền nhân thân cũng nhƣ quyền tài sản với
nhân thân và tài sản của đối phƣơng. Nhìn về mặt thực tiễn, hành vi này chính
là hình thức chung sống giữa những ngƣời có cùng một giới tính giống nhau,
cùng nhau chung sống dƣới một mái nhà, cùng tạo nên mục tiêu chung sống
chung. Song khác với những quan hệ hôn nhân thông thƣờng khi mà quan hệ
kết hợp dân sự này đƣợc xác lập bởi một chủ thể là nam và một chủ thể là nữ,
trong quan hệ kết hợp dân sự giữa hai ngƣời đồng giới, cả hai chủ thể đều là
nam (Gay) hoặc cùng là nữ (Les). Bởi vậy, khác với trƣờng hợp

nam nữ


chung sống nhƣ vợ chồng, trong quan hệ kết hợp dân sự giữa hai ngƣời đồng
giới, ngƣời bên ngồi khơng xác định đƣợc ai là vợ, ai là chồng nhƣ mơ hình
gia đình cơ bản phổ thông[26].
Quan hệ kết hợp dân sự giữa hai ngƣời đồng giới đƣợc tạo nên bởi các chủ
thể đƣợc xem nhƣ là hành vi tạo lên sự liên kết về quyền và nghĩa vụ nhân thân
cũng nhƣ tài sản đối với những ngƣời cùng giới tính. Trong mối quan hệ này, sự
16


liên kết về các quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của các bên với nhau
cũng mang tính chất của sự liên kết nhƣ các quan hệ vợ chồng cơ bản phổ
thông, tuy nhiên, sự ràng buộc của pháp luật đối với sự liên kết này là không rõ
ràng và chắc chắn bằng. Thực tế trên thế giới hiện nay cho thấy, mới chỉ có một
số nƣớc cơng nhận quan hệ kết hợp dân sự này, và việc điều chỉnh của pháp luật
các nƣớc đối với mỗi hình thức kết hợp dân sự là không giống nhau, vô hình
chung tạo nên sự khác biệt về trách nhiệm cũng nhƣ sự ràng buộc giữa các bên
trong quan hệ. Các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ kết
hợp dân sự giữa hai ngƣời đồng giới khơng có sự ràng buộc giữa vợ và chồng,
các trách nhiệm liên đới trong quá trình duy trì quan hệ đối với ngƣời thứ ba.
Đồng thời, việc liên kết quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ này cũng không
đƣợc ƣu tiên nhƣ các quan hệ kết hợp dân sự khác. Đây là những điểm khác biệt
so với các quan hệ kết hợp dân sự khác giới, khi mà trong đó các chủ thể đƣơng
nhiên là ngƣời gánh vác tránh nghiệm cũng nhƣ nghĩa vụ liên đới với ngƣời thứ
ba, hoặc đƣơng nhiên là ngƣời đại diện theo pháp luật của đối phƣơng trong các
trƣờng hợp luật định. Nói tóm lại, sự ràng buộc của pháp luật đối với các bên
trong quan hệ kết hợp dân sự đồng giới còn ở mức độ đơn giản.
Đối với quan hệ kết hợp dân sự khác giới, hai bên chủ thể thƣờng hƣớng
tới ba mục tiêu: Tình yêu – tình cảm để hai bên có thể gắn kết, thấu hiểu và yêu
thƣơng chia sẽ lẫn nhau; Tình dục – là nhu cầu tâm sinh lý cơ bản của mỗi con

ngƣời, đặc biệt khi chủ thể trong đang trạng yêu thƣơng với chủ thể khác và nhu
cầu về Huyết thống – Nhu cầu tạo ta chủ thể mới bằng sự kết hợp sinh học giữa
các cá thể khác giới. Tuy nhiên, trong quan hệ kết hợp dân sự giữa hai ngƣời
đồng giới thƣờng chỉ nhằm đạt đƣợc mục đích về tình u và tình dục chứ
khơng thể đạt đƣợc mục tiêu duy trì nịi giống, hoặc nếu có thì việc đó cũng
khơng hồn tồn theo cách thơng thƣờng (nếu các cặp đồng tính muốn có con
chung bằng cách sinh nở thì đứa con chỉ có thể mang huyết thống của một trong
hai chủ thể, cho dù có thể đƣợc mang thai và chăm sóc bởi cả hai chủ thể). Nói
cách khác, quan hệ kết hợp dân sự của những ngƣời đồng giới đơn thuần là việc
17


các chủ thể cùng giới thống nhất sống chung và chia sẻ các quyền và nghĩa vụ
liên quan. Trong quan hệ này cũng đƣợc phát sinh từ tình cảm, tình yêu và sự
chia sẻ yêu thƣơng lẫn nhau; đồng thời cũng đám ứng những nhu cầu về tâm
sinh lý cơ bản của mỗi con ngƣời, tuy nhiên giữa các chủ thể cùng giới khơng
thể có sự kết hợp sinh học để tạo nên chủ thể mới, hay nói cụ thể hơn, việc hai
chủ thể cùng giới chung sống với nhau khơng thể có con. Việc khơng thể có con
này chính là việc khơng thể duy trì nịi giống của các bên nhƣ quy luật quát
triển của sinh học con ngƣời. Đây chính là lý do dẫn tới quan điểm cho rằng
quan hệ kết hợp dân sự và hôn nhân giữa những ngƣời đồng giới không phù hợp
với sự phát triển của nhân loại.
Về mặt pháp lý, quan hệ kết hợp dân sự đƣợc thể hiện qua nhiều hình thức.
Trong khi quan hệ kết hợp dân sự giữa hai ngƣời khác giới đƣợc thể hiện qua
hai hình thức chính đó là quan hệ hơn nhân và gia đình (mối quan hệ bắt buộc
phải có sự xác nhận của nhà nƣớc) và quan hệ nam, nữ chung sống nhƣ vợ
chồng (mối quan hệ đƣợc nhà nƣớc thừa nhận, có thể cần có hoặc khơng cần có
sự xác nhận của nhà nƣớc) thì t quan hệ kết hợp dân sự giữa hai ngƣời đồng
giới đƣợc thể hiện qua 03 hình thức cơ bản: (1) Hôn nhân giữa những ngƣời
đồng giới (mối quan hệ bắt buộc phải có sự xác nhận của nhà nƣớc, có ý nghĩa

ràng buộc cả về quyền, nghĩa vụ về nhân thân cũng nhƣ về tài sản giống nhƣ
các cặp vợ chồng khác giới thơng thƣờng). (2) Chung sống có đăng ký giữa
những ngƣời đồng giới (cũng cần có sự xác nhận bởi nhà nƣớc, đƣợc cấp giấy
chứng nhận “có quan hệ gia đình”, “chung sống có đăng ký” hoặc các tên gọi
tƣơng tự, các bên có quyền, nghĩa vụ và sự công nhận pháp lý tƣơng đƣơng với
hôn nhân). (3) Chung sống khơng có đăng ký giữa những ngƣời đồng giới (là
hình thức kết đơi tự nguyện giữa hai ngƣời, khơng đăng ký với nhà nƣớc, hai
bên có một số quyền lợi và nghĩa vụ hạn chế với nhau liên quan tới tài sản, nhân
thân).[30]
Nhƣ vậy, xét chung, việc xác lập quan hệ kết hợp dân sự giữa những ngƣời
đồng giới về cơ bản cũng mang tính chất của quan hệ kết hôn thông thƣờng với
18


sự kết hợp bởi ý chí của các bên để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc chung sống với nhau nhƣ gia đình.
Tuy nhiên dựa trên những điểm khác biệt về chủ thể, về mục đích hay hình thức
thể hiện, ... quan hệ kết hợp dân sự giữa hai ngƣời đồng giới có những đặc điểm
riêng biệt so với các quan hệ kết hôn thông thƣờng và đặc biệt là với quan hệ
kết hôn dị giới giữa những ngƣời khác giới. Dù vậy, sự khác biệt này không làm
ảnh hƣởng tiêu cực tới các thành viên khác và với xã hội nói chung nên cần
thiết phải đƣợc thừa nhận bởi xã hội và pháp luật.
1.2.3. Nội dung kết hợp dân sự giữa những người đồng giới
Nhƣ đã phân tích ở trên, việc hai chủ thể đồng giới cùng nhau thống nhất
chung sống tạo nên quan hệ kết hợp dân sự dựa trên tình cảm, tình yêu thƣơng
lẫn nhau và nhu cầu thực tiễn của các bên. Sự thỏa thuận chung sống, kết hợp
dân sự này đã tạo ra một sự ràng buộc vơ hình về việc liên kết các vấn đề liên
quan giữa các bên. Đối với các quan hệ dân sự thông thƣờng, sự kết hợp tạo nên
quan hệ dân sự thƣờng điều chỉnh mối liên hệ giữa các bên về quyền tài sản và
quyền nhân thân. Đối với quan hệ kết hợp dân sự giữa những ngƣời đồng giới

cũng vậy, mối quan hệ này cũng sẽ tạo nên những liên kết với quyền tài sản và
quyền nhân thân của các bên chủ thể với nhau.
Trƣớc hết, quan hệ mang tính kết hợp về quyền nhân thân của các bên.
Giống nhƣ quan hệ kết hợp giữa những ngƣời khác giới, đặc biệt là quan hệ hơn
nhân và gia đình, khi các bên cùng nhau xây dựng và thiết lập nên mối quan hệ
hơn nhân và gia đình giữa một bên là vợ (đối với chủ thể là nữ) và một bên là
chồng (đối với chủ thể là nam) sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa hai
bên với nhau và giữa hai bên với ngƣời thứ ba hoặc trách nhiệm cảu ngƣời còn
lại đối với ngƣời thứ ba. Trong quan hệ kết hợp giữa những ngƣời đồng giới
cũng vậy, việc hai chủ thể đồng giới chung sống cũng sẽ tạo nên sự liên kết
quyền và nghĩa vụ về nhân thân với nhau nhƣ quyền giám hộ, quyền đại diện
đƣơng nhiên theo pháp luật, quyền nuôi con (đối với con ni) ... Các quyền và
nghĩa vụ này có thể sẽ đƣợc điều chỉnh bằng các quy định pháp luật liên quan
19


×