Mục lục.
1.Mở đầu……………………………………………………………………………1
2. Nội dung về tạm giam được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự.…………...1
2.1 Mục đích của việc tạm giam.……………………………………………..…2
2.2 Đối tượng áp dụng.…………………………………………………….....…3
2.3 Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.………………………………………….......4
2.4 Thủ tục tạm giam.……………………………………………………...……5
2.5 Chế độ tạm giam.……………………………………………………………5
2.6 Thời hạn tạm giam.…………………………………………………….……5
2.7 Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản của
người bị tạm giam.………………………………………………………….………8
3. Đề xuất hoàn thiện những quy định về tạm giam. ………………………………8
3.1 Về căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam và việc hạn chế biện pháp tạm
giam đối với một số loại tội phạm nhất định.………………………………………8
3.2 Về việc thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng
biện pháp tạm giam.………………………………………………………….……10
3.3 Về việc áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tạm giam đối với những
trường hợp đặc biệt.………………………………………………………….……11
4. Kết thúc. ………………………………………………………………..………12
1.Mở đầu
Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cần thiết, là một chế định quan
trọng trong tố tụng hình sự. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước đã quy định nhiều
biện pháp cưỡng chế khác nhau. Những biện pháp ngăn chặn là một trong những
nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế
nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị
can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có những hành vi gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như đảm bảo thi hành án. Những biện
pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của
công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc
nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện
pháp tạm giam bị cách li khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, bị hạn
chế một số quyền của công dân.
2. Nội dung về tạm giam được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự.
Tạm giam được quy định tại điều 88 Bộ luật TTHS:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp
sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình
sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu
tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không
tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật
này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm
giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện
kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện
kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét
phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và
thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
2.1 Mục đích của việc tạm giam.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau
của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung thống nhất là ngăn chặn không
để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho
việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn
có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp
dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều
3
kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ
lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời
gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý, giám sát bị can được
chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án
sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.
2.2 Đối tượng áp dụng.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người
không phải bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp này. Khoản 1 Điều 88 Bộ
luật TTHS quy định các trường hợp bị tạm giam như sau:
Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm
tội rất nghiêm trọng.
Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của BLHS thì
mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chugn
thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt ngiêm trọng) hoặc mức cao nhất của khung
hình phạt là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp
tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:
•Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc đã bị Thẩm
phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo.
•Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít
nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ
cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội.
Để tạm giam trong trường hợp này cần có ba điều kiện:
Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo;
4
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà
BLHS quy định hình phạt tù từ trên hai năm. Trong một điều luật có nhiều khoản
thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể bị tạm giam,
phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt tù dưới hai năm thì không được tạm giam.
Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố. xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ
sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi bị áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp
tạm giam. Tuy vậy, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kì
nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ
ràng thì không được tạm giam mà phải áp dụng các biện pháp khác, trừ những
trường hợp sau đây:
• Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
• Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
• Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
2.3 Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Khoản 3 Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định những người có thẩm
quyền ra lệnh bắt bị can , bị cáo để tạm giam (quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật
TTHS) thì có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam mà của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày
5