Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.58 KB, 72 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở Việt Nam cũng như các nước trên Thế Giới, các DNVVN có vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi
nước. Cùng với việc đóng góp cho xã hội khối lượng hàng hóa lớn và giải
quyết nhiều việc làm cho người lao động, các DNVVN còn tạo nên nguồn thu
nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, khai thác các nguồn lực và tiềm năng
tại chỗ của địa phương. Mặt khác, DNVVN giữ vai trò hỗ trợ bổ sung cho các
DN lớn tạo thành mối liên kết cùng hợp tác, cùng cạnh tranh và cùng nhau
phát triển.
Hiện nay, trong nền kinh tế các nước trên Thế Giới các DNVVN
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các DN. Ở nước ta số lượng các
DNVVN chiếm tỷ trọng khoảng 95,4% (nguồn kinh tế và dự báo T6/2007,
trang 21) theo tiêu chí dưới 300 lao động, đặc biệt trên địa bàn Đồng Tháp, là
một tỉnh Nông nghiệp thì số lượng đó càng cao hơn.
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc ĐBSCL, là một vùng mạnh về Nông
nghiệp, thủy sản và cũng là nơi có nhiều tiềm năng về nguồn nguyên liệu nên
sự phát triển DNVVN lại càng được sự quan tâm của nhà nước và các cấp
chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian qua, sự phát triển và hoạt
động của DNVVN ở Đồng Tháp còn gặp nhiều khó khăn và chưa phát huy
được hết những tiềm năng của mình. Một trong những nguyên nhân của sự
khó khăn xuất phát từ chính sự yếu kém của các DNVVN như: chưa có hoạch
định chiến lược kinh doanh, vốn, marketing hỗn hợp, thương hiệu, trình độ kỹ
năng trong quản trị doanh nghiệp… và mặt khác là do cơ chế chính sách cũng
như sự hỗ trợ của nhà nước chưa rõ ràng và chưa được quan tâm thỏa đáng.
Do vậy, việc tìm ra hệ thống các giải pháp nhằm thúc đẩy phát DNVVN tại
1
tỉnh Đồng Tháp là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn nhằm tận dụng
được những cơ hội do hội nhập Kinh Tế Quốc Tế mang lại khi nước ta đã trở
thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại Thế Giới WTO.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm


thúc đẩy phát triển DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đề tài hướng đến các yêu cầu và mục tiêu sau:
1/ Làm rõ cơ sở lý luận chung về DNVVN, vai trò DNVVN trong nền
kinh tế Việt Nam nói chung và tại tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
2/ Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của các DNVVN tại tỉnh
Đồng Tháp trong thời gian qua.
3/ Dựa vào hai cơ sở lý luận và thực tiễn, để đề xuất hệ thống các giải
pháp nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chỉ nghiên cứu các DNVVN trên địa
bàn tỉnh Đồng Tháp.
4. Phương Pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp
phân tích thống kê phân tích, tổng hợp, mô tả, so sánh. Trên cơ sở thiết lập
bảng câu hỏi để lấy số liệu nghiên cứu thực tế 100 DNVVN trên địa bàn tỉnh
Đồng Tháp, tham khảo ý kiến chuyên gia để đưa ra hướng giải quyết cho đề
tài.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm ba chương .
Chương I: Cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2
Chương II : Thực trạng hoạt động DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp trong
thời gian qua.
Chương III : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN tại
tỉnh Đồng Tháp.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

1.1.Khái niệm DNVVN:
1.1.1. Khái niệm DNVVN ở các nước trên thế giới:
Khái niệm DNVVN hiện nay ở các nước trên thế giới chỉ mang tính
chất tương đối, nó thay đổi theo từng giai đọan phát triển kinh tế xã hội từng
nước. Tiêu thức phân loại thường được sử dụng là: số lao động thường xuyên
với sản xuất doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng, nhưng hai tiêu thức thường
sử dụng nhất là : vốn và lao động. có nước chỉ dùng một tiêu thức, nhưng có
một số nước dùng một vài tiêu thức để xác định DNVVN. Một số nước dùng
tiêu thức chung cho tất cả các ngành nghề, nhưng cũng có một số nước lại
dùng tiêu thức riêng cho từng ngành nghề để xác định DNVVN.
Bảng 1: Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước trên Thế giới
Nước Phân loại
Số lao
động
Số vốn Doanh thu
Nhật Bản
Chế tác
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ
1 – 300
1 – 100
1 – 50
1 – 100
300 triệu yên
0 – 100 triệu yên
0 – 50 triệu yên
1 – 100 triệu yên
Thái Lan Công nghiệp nhỏ
Công nghiệp vừa

0 – 50
51 – 200
< 50 triệu Bath
50 – 200 triệu Bath
Philipin Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
10 – 99
100 - 199
1,5 – 15 triệu pexo
15 – 60 triệu pexo
Không quan trọng
Indonesia Doanh nghiệp siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
1 – 4
5 – 19
Không quan trọng
0 – 20.000 USD
-
0 – 100.000 USD/
4
Doanh nghiệp vừa 20 - 99 20.000 – 100.000
USD
năm
100.000 –
500.000
USD/năm
Canada Công nghiệp và dịch vụ < 500 < 20 triệu đôla
Canada/năm
Hồng
Kông

Công nghiệp
Dịch vụ
< 100
< 50
Australia
Chế tác nhỏ
Chế tác vừa
Dịch vụ nhỏ
Dịch vụ vừa
< 100
100 – 199
< 20
20 – 199
Hàn Quốc
Chế tác, khai thác
nhỏ,vận tải
Xây dựng
Thương mại và dịch vụ
0 – 300
0 – 200
0 – 20
Nguồn : GSTS Nguyễn Đình Hương(2002), giải pháp phát triển DNVVN,
NXB chính trị Quốc Gia.
Căn cứ vào tiêu thức xác định DNVVN nêu trên có thể khái quát thành
những quan niệm sau:
+ Quan niệm thứ nhất: tiêu chuẩn đánh giá xếp loại DNVVN phải gắn
với đặc điểm từng ngành đồng thời phải tính đến số lượng vốn và lao động
được thu hút vào hoạt động SXKD, Nhật Bản là nước theo quan niệm này.
+ Quan niệm thứ hai: tiêu chuẩn đánh giá xếp loại các DNVVN không
phân biệt theo ngành nghề mà chỉ cần căn cứ vào số lao động và vốn thu hút

vào kinh doanh, các nước theo quan niệm này gồm có: Thái Lan, Philipin …
5
+ Quan niệm thứ ba: tiêu chuẩn đánh giá xếp loại DNVVN ngoài tiêu
thức về lao động hay vốn kinh doanh còn quan tâm đến doanh thu hàng năm
của DN, theo quan điểm này có Canada, Indonesia…
+ Quan niệm thứ thứ tư: căn cứ vào tiêu thức số lượng lao động tham
gia hoặc có phân biệt ngành nghề, hoặc không có phân biệt ngành nghề. Theo
quan niệm này có một số nước như: Hồng Kông, Australia, Hàn Quốc…
1.1.2. Khái niệm DNVVN ở Việt Nam:
Trong thời gian qua ở Việt Nam để hỗ trợ cho các DNVVN, một số cơ
quan nhà nước, một số tổ chức đã đưa ra nhiều tiêu thức phân loại DNVVN
có thể tổng hợp như sau:
1/ Ngân hàng công thương Việt Nam thì định nghĩa, DNVVN là các
DN có dưới 500 lao động, có vốn cố định nhỏ hơn 10 tỷ đồng, có vốn lưu
động nhỏ hơn 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng nhỏ hơn 20 tỷ đồng, sự xác
định nhằm phân lọai đối tượng cho vay vốn và số vốn cho vay đối với các
doanh nghiệp.
2/ Dự án VPE/US/95/004 hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam do UNIDO tài
trợ coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có lao động dưới 30 người, vốn
đăng ký dưới 1 tỷ. Cũng theo dự án này, doanh nghiệp vừa có lao động từ 31
đến 200 người và vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng.
3/ Quỹ hỗ trợ DNVVN thuộc chương trình VN-EU: doanh nghiệp
được quỹ này hỗ trợ gồm các DN có số công nhân từ 10 đến 500 người và
vốn điều lệ từ 50 ngàn đến 300 ngàn USD.
4/ Ngày 20/06/1998 tại công văn số 681/CP-KTN của chính phủ đã
tạm thời qui định thống nhất tiêu chí xác định DNVVN là DN có vốn
điều lệ dưới 5 tỷ và có số lao động bình quân hàng năm dưới 200 người. Công
6
văn nêu rõ các bộ, ngành, địa phương có thể căn cứ vào tình hình cụ thể mà
có thể áp dụng cả hai hoặc một trong hai tiêu thức trên.

5/ Nghị định 90/2001 của chính phủ cho rằng: “DNVVN là các cơ sở
sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,
có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của ngành, địa
phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai
tiêu chí đó.
Với những mục đích khác nhau và vào những thời điểm khác nhau nên
việc đưa ra những tiêu thức để phân loại, xác định DNVVN của các tổ chức,
cơ quan nhà nước và các cá nhân cũng khác nhau và cũng chỉ mang tính ước
lệ. Bản thân các tiêu chí đó chưa đủ để xác định thế nào là DN vừa và nhỏ ở
Việt Nam hiện nay. Như vậy, theo nghị định 90/2001/NĐ-CP khu vực
DNVVN ở Việt Nam bao gồm:
+ Các DNNN có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo
luật DNNN.
+ Các công ty CP, công ty TNHH, DNTN và HTX được thành lập và
hoạt động theo luật DN, luật HTX đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu
thức mà nghị định 90/2001/NĐ-CP đưa ra.
+ Các DN có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và hoạt động theo
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu
thức mà nghị định 90/2001/NĐ-CP đưa ra.
1.2. Kinh nghiệm phát triển DNVVN ở một số nước:
+Đài Loan:
7
- Nền Công Nghiệp của Đài Loan được đặc trưng chủ yếu bởi các xí
nghiệp vừa và nhỏ (chiếm tỷ lệ gần 90% tổng số doanh nghiệp ở vùng lãnh
thổ này). Ở Đài loan, loại xí nghiệp vừa và nhỏ tối thiểu phải có từ 5-10 công
nhân, vốn trung bình là 1,6 triệu USD là rất phổ biến.
- Các chính sách của chính quyền chủ yếu đặt mục tiêu là gia tăng khả
năng sản xuất của các DNVVN và cải thiện các hỗ trợ về tài chính, sản xuất,

quản lý, kế toán và tiếp thị. Chính quyền xúc tiến tổ chức hệ thống nhà máy
vệ tinh nhằm nâng cấp chất lượng sản phẩm, cải thiện chuyên môn hóa sản
phẩm và đẩy nhanh phát triển công nghiệp nhờ sự hợp tác tốt hơn giữa các
doanh nghiệp hiện tại.
- Chính quyền Đài Loan duy trì một hệ thống các tổ chức công cộng và
tư nhân sâu rộng được tổ chức phối hợp chặt chẽ với nhau để cung cấp hỗ trợ
tập trung về quản lý, tài chính và công nghệ cho các DNVVN. Điều này tỏ ra
có hiệu quả vì mặt trái của cơ cấu qui mô nhỏ truyền thống là sự khó khăn
trong cuộc tiếp thu công nghệ và thực hiện nghiên cứu và phát triển. Chính
quyền đã đầu tư nhiều cho việc truyền bá các thông tin về công nghệ thông
qua các tổ chức khác nhau và cố gắng thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông
qua quan hệ với các công ty nước ngoài.
- Để tạo nguồn vốn, Đài loan đã thành lập “Quỹ phát triển
DNVVN”để giúp các doanh nghiệp này cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy
mạnh hợp tác với nhau, đồng thời hướng dẫn cho quỹ tự phát triển nhằm thúc
đẩy các DNVVN phát triển lành mạnh. Quỹ này cấp tín dụng cho các
DNVVN với lãi suất thấp hơn bình thường của ngân hàng, nhằm giúp các DN
phát triển theo chuyên ngành hoặc chuyển hướng ngành nghề của các doanh
nghiệp.
8
- Về tầm vĩ mô, Đài Loan theo đuổi các chính sách khuyến khích xuất
khẩu để cố gắng tạo một môi trường kinh doanh ổn định, khuyến khích đầu tư
từ các nguồn vốn trong và ngoài nước. Trong lĩnh vực này, vai trò của của
công ty thương mại vừa và nhỏ được tăng cường mạnh mẽ vì đây là đầu mối
để khu chế tạo của Đài Loan tiếp cận thị trường bên ngoài.
+ NHẬT BẢN
Từ sau chiến tranh Thế Giới thứ II, Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến
phát triển các DNVVN vì đây là khu vực đem lại hiệu quả kinh tế cao và giải
quyết được nạn thất nghiệp. Chương trình “hiện đại hóa” các DNVNN trở
thành một nhiệm vụ và một loạt các chính sách về nhiều mặt được ban hành,

thể hiện trước mắt là luật cơ bản về DNVVN năm 1993 (basic law on small
enterprises) qui định những vấn đề có tính nguyên tắc để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp nhỏ hoạt động như nhà cung cấp các bộ phận cấu kiện cho các doanh
nghiệp lớn hoặc thực hiện hoạt động gia công.
Một trong những biện pháp quan trọng để hỗ trợ phát triển DNVVN là
khuyến khích mở rộng đầu tư, đồng thời cũng phải ghi nhận rằng Chính phủ
và các hiệp hội đã dành những khoảng kinh phí lớn cho chương trình hiện đại
hóa các DNVVN . Năm 1980, Nhật Bản đầu tư 243.375 tỷ yên, đến năm 2000
lên tới 2.129.239 tỷ yên, nhưng nguồn kinh phí của Chính phủ chỉ chiếm
12,6%, còn lại là của các hiệp hội, ngân hàng. Nguồn tài chính trên tập trung
trên bốn lĩnh vực chính:
1) Xúc tiến hiện đại hóa DNVVN; 2) Hiện đại hóa các thể chế quản lý
DNVVN; 3) Các hoạt động tư vấn cho DNVVN; 4) Các giải pháp tài chính
cho DNVVN. Về tổ chức Nhật Bản thiết lập “hội đồng các doanh nghiệp
nhỏ”, đây là tổ chức tư vấn trực thuộc Thủ tướng hoạt động chuyên cho các
DNVVN.
9
+HÀN QUỐC
Hàn Quốc cũng rất quan tâm đến phát triển DNVVN và coi đó như một
bộ phận của cơ cấu kinh tế. Để tạo cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và phát triển
của các DNVVN cũng như sự ưu tiên hỗ trợ thúc đẩy phát triển các doanh
nghiệp này, Chính Phủ Hàn Quốc đã ban hành hàng loạt các sắc luật (12 sắc
luật) về DNVVN. Các sắc luật nhằm tập trung vào giải quyết các vấn đề sau:
Thiết lập khái niệm khung về DNVVN theo sắc luật cơ bản của Hàn
Quốc về DNVVN phân loại DNVVN theo 2 nhóm ngành.
+ Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp có vốn
đầu tư dưới 0,6 triệu USD và số lao động thường xuyên dưới 300. Nếu chỉ số
lao động dưới 20 người là doanh nghiệp nhỏ.
+Trong thương mại: DNVVN là có lao động dưới 5 người được coi
là nhỏ và từ 6-20 người là vừa.

Tuy nhiên, vẫn có nhiều ngoại lệ trong từng lĩnh vực. Chẳng hạn, trong
sản xuất linh kiện ô tô, linh kiện điện tử, số công nhân là 1000 vẫn coi là
DNVVN, trong ngành khai khoán, sản xuất săm lốp, xe đạp, kính đeo, đồ
chơi phải có lao động từ 700 trở lên. Ngành đồ hộp, dệt, nhuộm, in phải có
500 lao động. Trong ngành du lịch, sửa chữa ô tô phải có đến 200 lao động.
Như vậy, tiêu thức phân loại quy định khá linh hoạt phụ thuộc vào
nhóm ngành hoạt động, tính chất hoạt động để quy định cho phù hợp với
chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển các ngành cần thiết trong từng thời
kỳ.
Khẳng định về mặt pháp lý các DNVVN.
Khuyến khích và đưa ra các giải pháp nhằm hỗ trợ thúc đẩy phát triển
các DNVVN.
10
Thành lập các tổ chức tín dụng, chức năng chủ yếu là cung cấp vốn,
chuyển giao công nghệ cho các DNVVN.
+Viện phát triển công nghiệp Hàn Quốc có chức năng chính là đào tạo
tư vấn cho DNVVN.
+Trung tâm năng suất Hàn Quốc với nhiều chức năng là đào tạo cung
cấp chuyển giao công nghệ tư vấn cho DNVVN.
+Hội nghiên cứu các DNVVN có chức năng chủ yếu đào tạo chủ doanh
nghiệp cung cấp và chuyển giao công nghệ.
1.3. Vai trò của các DNVVN
1.3.1. Vai trò của các DNVVN ở Việt Nam:
+ Đóng

góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế:
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP. Do số lượng
doanh nghiệp ngày càng lớn và phân bổ rộng khắp trong hầu hết các ngành,
lĩnh vực. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN cũng
thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác. Nếu tính theo doanh

thu của các doanh nghiệp cả nước tỷ trọng doanh thu của khu vực DNVVN
theo qui mô lao động (dưới 300 lao động) năm 2004-2006 là 81,5 % -86,5% .
Điều đó chứng tỏ các DNVVN có đóng góp lớn vào việc gia tăng sản lượng
và tăng trưởng kinh tế
Bảng 2: Tỷ trọng doanh thu DNVVN trong nền kinh tế:
Năm
Toàn bộ
doanh thu
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
doanh thu
DNVVN
(%)
Chia ra theo quy mô lao động (%)
Dưới 5
người
Từ 5 –
200
người
Từ 200 –
300 người
2003 364.844 86,5 4,9 74,2 4,4
2004 485.104 82,0 4,2 70,6 7,3
2005 640.087 81,5 4,4 72,5 4,6
11
Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2006
Về đóng góp vào GDP :từ chổ tỷ lệ GDP của khu vực DNVVN không
đáng kể vào đầu những năm 1990, đến nay tỷ lệ này khoảng từ 24% đến
25,5%. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì đây là mức thấp nhất.
+ Làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:

Sự ra đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh
vực sẽ làm giảm tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận
cạnh tranh, phải liên tục đổi mới để tồn tại và phát triển. Với tính linh hoạt
của mình, các DNVVN cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh thậm chí với cả các
công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia. Đồng thời nhiều DNVVN đóng vai
trò là vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa
và phân công lao động trong sản xuất làm tăng hiệu quả của chính các
DNVVN cũng như các công ty hợp tác.
+ Tạo ra nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về việc làm và thất
nghiệp.
Hiện nay, do tỷ lệ dân số cao trong những năm trước đây, hàng năm
Việt Nam có khoảng 1,4 triệu người gia nhập vào lực lượng lao động. Vấn đề
giải quyết việc làm cho những người này là rất cấp thiết. Bên cạnh đó, khu
vực DNNN hiện đang thực hiện sắp xếp lại nên không những không thu hút
thêm lao động mà còn tăng thêm số lao động dôi dư. Khu vực đầu tư nước
ngoài mỗi năm cũng chỉ tạo ra khoảng 30.000 chổ làm mới, một tỷ lệ không
đáng kể. Như vậy, phần lớn số người tham gia lực lượng lao động này trông
chờ vào khu vực nông thôn và khu vực DNVVN.
Các DNVVN đã tạo nhiều việc làm mới với tốc độ tăng trưởng cao.
Nếu không kể hộ kinh doanh cá thể thì khu vực DNVVN chiếm 7% lực lượng
12
lao động trong các ngành kinh tế, hay 20% lực lượng lao động phi nông
nghiệp, hoặc 85,2% số lao động trong khu vực doanh nghiệp. Nếu kể cả hộ
kinh doanh cá thể thì khu vực DNVVN chiếm khoảng 19% lực lượng lao
động làm việc trong tất cả các ngành kinh tế (nguồn: xây dựng chiến lược hỗ
trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2010, Bộ kế Hoạch Đầu Tư, năm
2006). Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là các
DNVVN có mức tăng trưởng cao về lao động trong những năm qua. Số lao
động tại khu vực này đã tăng 2,36 lần trong năm 2004 so với thời điểm năm

1997, so với 1,06 và 1,35 lần của các khu vực doanh nghiệp nhà nước và hộ
kinh doanh cá thể.
+ DNVVN có vai trò to lớn trong việc phát huy tiềm năng huy động
mọi nguồn lực xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Dựa vào ưu thế của mình, các DNVVN khởi sự thành lập với số vốn
nhỏ nhưng có khả năng thu hồi vốn nhanh, có khả năng hy vọng vốn tự có
hay vay mượn của bạn bè, thân nhân trong gia đình, sử dụng và tận dụng các
tiềm năng về nguồn vốn, lao động và nguyên vật liệu sẵn có tại chổ, theo ước
tính vốn đầu tư của DNVVN chiếm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội. Các
DNVVN do ít vốn, quản lý đơn giản, linh hoạt và dễ thích nghi với điều kiện
biến đổi của thị trường nên thường được thành lập và hoạt động tại địa
phương có nguồn nguyên liệu tại chổ hay vùng phụ cận để dễ dàng sử dụng,
dễ được cung cấp với giá rẽ và đỡ tốn chi phí vận chuyển. Do vậy, các
DNVVN có khả năng sản xuất một khối sản phẩm, dịch vụ tương đối lớn đáp
ứng cho nhu cầu của xã hội với giá rẽ hơn và thuận lợi hơn.
+DNVVN là nhân tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu từ nông ngiệp và sản xuất nhỏ lên nền sản xuất CNH-HĐH.
13
Việc nhiều doanh nghiệp, chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại
các vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, sẽ làm giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặc khác,
sau một thời gian thành lập và hoạt động, các doanh nghiệp làm ăn thuận lợi
đều có xu hướng phát triển bằng cách nâng cao năng lực sản xuất nhằm đáp
ứng nhu cầu thị trường và trong những điều kiện thuận lợi nhất định các
DNVVN có thể từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn và từ tận dụng máy móc thiết
bị cũ, sữa chữa lại tiến tới đổi mới trang thiết bị, cải tiến hệ thống dây chuyền
sản xuất, đào tạo lại người lao động nhằm nâng cao tay nghề, nâng cao năng
lực trình độ quản lý. Sự đổi mới tới mức độ nào đó nhất định sẽ dẫn đến đổi
mới công nghệ, điều đó góp phần vào quá trình CNH-HĐH đất nước trên cả
chiều rộng lẫn chiều sâu.Việc phát triển các DNVVN cũng đưa đến việc tổ

chức lại sản xuất, hợp lí hoá sự phân công hợp tác xã hội.
+DNVVN là tiền đề tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh
mang tính kinh tế thị trường, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Đây là điều rất cần thiết đối với Việt Nam hiện nay. Chúng ta đã ở
trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung khá lâu. Vì vậy, môi trường
văn hóa kinh doanh mang tính thị trường gần như không tồn tại hoặc không
có cơ hội phát triển, đội ngũ doanh nhân giỏi, có khả năng điều hành các
doanh nghiệp trong điều kiện quốc tế hóa và hội nhập kinh tế quốc tế rất hạn
chế. Vì vậy, việc tạo ra môi trường văn hoá kinh doanh mang tính thị trường
cũng như một đội ngũ kinh doanh giỏi là điều kiện cực kỳ quan trọng để Việt
Nam có thể hội nhập thành công.
Bảng 3: Đánh giá vai trò các DNVVN ở Việt Nam
Vai trò của các DNVVN ở Việt Nam Tỷ lệ %
- Góp phần tăng trưởng kinh tế 51,7
14
- Tạo việc làm và tăng thu nhập
- Tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế
- Tham gia đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi
88,5
83,2
63,2
Nguồn: TS. Lê Xuân Bá (2007), DNVVN Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
1.3.2. Vai trò DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp:
Vai trò của DNVVN tỉnh Đồng Tháp thể hiện các mặt sau:
Một là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng tạo công ăn
việc làm cho người lao động , tăng thu nhập cho dân cư tại địa phương.
Theo số liệu thống kê Đồng Tháp năm 2007, dân số Đồng Tháp có
khoảng 1.667.804 người, trong đó khoảng 40% là lao động nông nghiệp, hàng
năm phải giải quyết công ăn việc làm mới trên 40.000 người. Vai trò giải

quyết việc làm của các DNVVN không chỉ là số lao động thường xuyên ở các
doanh nghiệp, mà còn là sự tạo điều kiện để lao động ngoài doanh nghiệp có
việc làm thông qua các hoạt động như cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu ra
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính của các DNVVN. Bên cạnh
đó các DNVVN cũng tạo ra một số lượng công việc thời vụ rất lớn, mà có thể
sử dụng nguồn lao động nhàn rỗi ở mỗi gia đình góp phần tạo ra thu nhập cho
các hộ gia đình, nhất là các ngành nghề truyền thống như: thủ công mỹ nghệ,
mây tre đan lát, dệt chiếu, đồ gốm …Đặc biệt tỉnh Đồng Tháp là vùng có
nguồn nguyên liệu rất dồi dào, rõ ràng sự phát triển của các DNVVN có vai
trò rất lớn trong việc tạo ra nhiều công ăn việc làm và giải quyết nạn thất
nghiệp cho người dân tại tỉnh Đồng Tháp.
Hai là: DNVVN có vai trò quan trọng trong quá trình CNH-HĐH
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương.
15
Quá trình phát triển DNVVN cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết
bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị
trường dẫn đến nhu cầu đổi mới công nghệ, mở rộng các mối quan hệ giữa
cung ứng và tiêu thụ, từ đó phát triển thêm nhiều ngành nghề mới làm cho
quá trình CNH-HĐH đất nước không chỉ ở chiều sâu mà ở cả chiều rộng.
Trong những năm gần đây được sự hỗ trợ của Sở khoa học công nghệ trong
việc đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, có nhiều doanh nghiệp trên địa bàn được trang bị và xây dựng
hệ thống quản lý chất lượng như ISO 9001:2000, HACCP, GMP …Tương tự
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực gạch ngói được trang bị công nghệ lò nung
Hoffman công nghệ Đức, giải quyết ô nhiễm môi trường.
Ba là: phát triển DNVVN tạo điều kiện tận dụng triệt để các nguồn
lực xã hội.
DNVVN thường được bắt đầu từ một nguồn vốn rất hạn hẹp và chủ yếu
từ người dân, ít có sự trợ giúp từ bên ngoài. Vốn đầu tư cho các DNVVN
thường vài ba trăm triệu, thậm chí chưa đến một trăm triệu, vì vậy nó có khả

năng thu hút vốn từ một số ngành nghề trong dân cư rất lớn. Hơn nữa, có một
số ngành nghề mà chỉ có khu vực DNVVN hoạt động thì mới có hiệu quả cao
như các ngành nghề truyền thống, sử dụng tay nghề độ tinh xảo như: nghề
trồng hoa cảnh, cây cảnh ở Thị Xã Sađéc, nghề dệt chiếu ở Định An, Định
Yên Lấp Vò, nghề sản xuất đồ gốm ở Châu Thành, dệt khăn choàng ở Hồng
Ngự…
Bốn là: DNVVN phát triển tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của
nông thôn.
Các DNVVN có thể xây dựng ở những vùng nông thôn để tận dụng
nguồn nguyên liệu tại địa phương và phục vụ cho thị trường hạn chế của địa
16
phương đó. DNVVN có lợi thế là linh hoạt hơn các doanh nghiệp lớn trong
việc định vị trí và do đó có thể phân bổ hợp lý trên địa bàn. Trên cơ sở đó sẽ
tạo nên bước phát triển nông thôn và tạo cầu nối giữa nông thôn và thành thị,
rút ngắn cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nhờ sự phát triển của các
DNVVN trên các lĩnh vực kinh tế xã hội như: sự phát triển của các doanh
nghiệp thủy nông đã góp phần đáng kể vào điện khí hóa nông nghiệp nông
thôn, phát triển giao thông nông thôn. Sự phát triển của các doanh nghiệp cơ
khí sữa chữa đã đẩy nhanh tốc độ cơ giới hóa nông nghiệp từ khâu làm đất
đến khâu thu hoạch. Sự phát triển của các doanh nghiệp xay xát- gạch ngói đã
tạo điều kiện cho nông dân tiêu thụ sản phẩm, thu hút lao động nhàn rỗi trong
nông thôn, sự phát triển các doanh nghiệp chế biến thủy sản đã đưa nghề nuôi
thủy sản xuất khẩu trong nông thôn tăng rất nhanh trong những năm gần đây.
Năm là: DNVVN góp phần gia tăng GDP của tỉnh và là nguồn tăng
trưởng kinh tế
Đồng Tháp là một tỉnh nông nghiệp với sản lượng lúa hàng năm đạt 2,4
triệu tấn, cung cấp cho xuất khẩu 316.000 tấn gạo. Phát triển công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp đang dần trở thành thế mạnh thật sự, đóng góp quan
trọng cho nền kinh tế của tỉnh. Năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp 3.280
tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách của tỉnh từ các DNVVN cũng tăng dần.

Năm 2004 là 600 tỷ đồng đến năm 2007 là 800 tỷ đồng, chiếm hơn 19% tổng
thu thuế trong toàn tỉnh.
Sáu là: DNVVN có tính linh hoạt, dễ thích nghi với điều kiện biến
động của thị trường
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của DNVVN rất nhạy cảm với bối
cảnh quốc tế. Nó phản ứng nhanh trước sự chuyển biến mạnh về sản phẩm,
dịch vụ, quy trình sản xuất và thị trường. Những năm gần đây do sự phát
17
triển nhanh của sản phẩm thủy sản đông lạnh, thức ăn thủy sản, số lượng
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này tăng rất nhanh, nếu như năm 2006 có 179
đơn vị với sản lượng 133.622 tấn, trong đó có 47.568 tấn cho xuất khẩu thì
đến năm 2007 đã có 239 đơn vị với sản lượng 241.707 tấn, trong đó xuất khẩu
đạt 119.129 tấn.
DNVVN có khả năng khai thác những khoảng trống của thị trường
như: có thể nhận thầu, ủy thác lại các doanh nghiệp lớn và có thể hoạt động ở
nhiều lĩnh vực : công nghiệp, dịch vụ, thương mại, bán lẽ, vận tải …
Bảy là: DNVVN đã và đang góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện
được một đội ngũ những nhà doanh nghiệp làm ăn thành đạt ngày càng
gia tăng.
Thông qua thực tiễn kinh doanh, thông qua thực tế của thương trường
mà các doanh nghiệp sẽ được đào tạo, tôi luyện và sàn lọc để ngày càng tạo ra
được nhiều nhà doanh nghiệp, nhiều cán bộ quản lý có chất lượng cho tỉnh và
cho cả nước. Có những doanh nghiệp giữ quy mô hoạt động vừa và nhỏ của
mình bởi vì nó phù hợp với khả năng kinh doanh và ngành nghề đang theo
đuổi, nhưng cũng có doanh nghiệp phát triển lên thành doanh nghiệp lớn. Dù
ở quy mô nào, DNVVN cũng là vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển
kinh tế của đất nước. Phải xóa bỏ mọi sự kỳ thị, phân biệt hoặc đối xử với
doanh nhân nhất là doanh nhân trong khu vực dân doanh. Đây là những người
rất đáng tôn vinh vì họ dũng cảm bỏ vốn đầu tư kinh doanh trong điều kiện
nhiều khó khăn bất trắc hiện nay.

Nói tóm lại, DNVVN hiện có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần
thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của mỗi Quốc gia trên Thế
Giới, cũng như tại Việt Nam nói chung hay tỉnh Đồng Tháp nói riêng. Sự phát
triển của các DNVVN kéo theo khai thác và phát huy triệt để các nguồn lực
18
xã hội, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp, nâng cao đời
sống của người lao động góp phần xóa đói giảm nghèo, đồng thời sự phát
triển của các DNVVN cũng kéo theo sự phát triển kinh tế xã hội ở các vùng
nông thôn, tạo ra được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của tỉnh Đồng Tháp và của cả nước. Bên
cạnh đó, sự phát triển của các DNVVN cũng là nơi đào tạo ra được nhiều nhà
doanh nghiệp tiêu biểu thành đạt, góp phần to lớn vào quá trình thực hiện
thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thời gian sắp tới.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Đề tài trình bày khái quát về DNVVN ở các nước trên Thế giới cũng
như ở Việt Nam và một số kinh nghiệm phát triển DNVVN của một số nước
trên thế giới như: Đài Loan, Nhật Bản, Quốc …
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Đồng Tháp có vị trí vai trò rất quan
trọng được thể hiện qua các mặt: thu hút lao động, là nguồn tăng trưởng kinh
tế của địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện phát
triển nông thôn … Trên cơ sở nền tảng lý luận để từ đó phân tích, đánh giá
thực trạng hoạt động của các DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp ở chương 2 của đề
tài.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DNVVN TẠI TỈNH
ĐỒNG THÁP TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1. Một số đặc điểm của tỉnh Đồng Tháp
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên và dân số
2.1.1.1. Vị trí địa lý:
19

Đồng Tháp là một tỉnh nằm trong vùng trũng của lưu vực sông Cửu
Long, phía Bắc giáp Preyveng (Campuchia), Nam giáp Vĩnh Long, Đông giáp
Long An và Tiền Giang, Tây giáp Long An và Cần Thơ. Tổng diện tích tự
nhiên là 3.238 km
2
được chia thành : một Thành Phố Cao Lãnh, một Thị Xã
Sađéc và 9 huyện. Đồng Tháp có đường biên giới quốc gia dài 52 km với 4
cửa khẩu, có cảng Đồng Tháp nối tỉnh với Campuchia và biển Đông, vị trí
trên đã tạo cho tỉnh cơ hội để phát triển nền kinh tế mở, hướng tới xuất khẩu.
Đồng Tháp nằm gần địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam (TP.HCM-
Bình Dương-Đồng Nai-Bà Rịa Vũng Tàu), một vùng kinh tế rất quan trọng ở
phía Nam và cả nước, là vùng cung cấp các sản phẩm công nghiệp, đồng thời
là vùng tiêu thụ sản phẩm nông thủy sản lớn của vùng ĐBSCL. Nếu phương
án phát triển giao thông vùng ĐBSCL và Đồng Tháp Mười của Chính phủ
sớm triển khai như: xây dựng quốc lộ N1, đường Hồ Chí Minh, cầu Cao
Lãnh, cầu Vàm Cống, mở rộng quốc lộ 54, thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
Đồng Tháp Mười gắn chặt chẽ với các tỉnh ĐBSCL, TP.HCM và địa bàn
trọng điểm phía Nam.
2.1.1.2. Dân số và lao động
Dân số của tỉnh Đồng Tháp năm 2007 có khoảng 1.667.804 người,
chiếm khoảng 9,54% so với dân số ĐBSCL và khoảng 2,07% so với cả nước,
là một trong những tỉnh có dân số khá đông của ĐBSCL, với tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên bình quân mỗi năm trên 50.000 người. Khu vực thành thị 287.871
người (chiếm 17,2%), nông thôn là 1.379.933 người (chiếm 82,8%), giới tính
nam là 813.404 (chiếm 48,7%), nữ là 850.340 (chiếm 51,3%).
Bảng 4: Dân số trung bình phân theo huyện thị, Thành phố năm 2007
ĐVT: Người
20
Các chỉ tiêu Tổng số
Phân giới tính Phân theo vùng

Nam Nữ Thành
thị
Nông
thôn
Thành phố Cao Lãnh 151.027 73.498 77.529 86.374 64.653
Thị Xã Sađéc 103.211 50.211 53.000 68.118 35.093
Huyện Tân Hồng 81473 41.909 39.564 10.797 70.676
Huyện Hồng Ngự 224.619 109.283 115.336 31.608 193.011
Huyện Tam Nông 99.047 48.257 50.790 9.943 89.104
Huyện Thanh Bình 162.444 78.893 83.551 14.137 148.307
Huyện Tháp Mười 128.184 62.350 65.834 18.717 109.467
Huyện Cao Lãnh 206.194 100.119 106.075 13.667 192.517
Huyện Lấp Vò 181.502 88.329 93.173 11.744 169.758
Huyện Lai Vung 164.552 79.995 84.597 8.583 155.969
Huyện Châu Thành 165.511 80.660 84.891 14.173 151.378
Tổng số 1.667.80
4
813.464 854.340 287.871 1.379.993
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Dân số trong độ tuổi lao động khoảng 1.069.000 người, lượng lao động
đang tham gia làm việc trong ngành kinh tế năm 2007 khoảng 855.812 người,
chiếm khoảng 79% lao động trong độ tuổi lao động. Trong đó lao động nông,
lâm nghiệp là 639.731 người, lao động thủy sản là 52.450, lao động công
nghiệp là 56.332 người. Mặc dù tỉnh có lực lượng lao động dồi dào nhưng tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, chủ yếu là lao động giản đơn năng suất
kém. Tỷ lệ lao động có tay nghề so với lao động trong độ tuổi của tỉnh khoảng
3% (ĐBSCL khoảng 4%, cả nước 10%). Vì vậy vấn đề đặt ra là người lao
động phải được đào tạo và đào tạo lại để thích nghi với cơ chế thị truờng và
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong xu thế hội nhập.
Bảng 5: Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tỉnh Đồng Tháp

ĐVT: Người
Các chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007
21
1. Ngành nông, lâm nghiệp 621.192 627.930 634.895 639.731
2. Ngành thủy sản 20.312 26.152 31.843 52.450
Ngành công nghiệp 39.524 45.384 51.699 56.332
Ngành khác 97.324 112.723 139.395 147.299
Tổng 778.352 812.189 857.832 895.812
Nguồn: niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
2.1.1.3. Thuận lợi và khó khăn
+ Thuận lợi:
Đồng Tháp có một phần đường biên giới Quốc Gia Việt Nam-
Campuchia, là một con đường vận chuyển hàng hóa đi vào Campuchia ngắn
nhất trong khu vực ĐBSCL, với cửa khẩu Dinh Bà đã trở thành cửa khẩu cấp
quốc tế và thành lập khu kinh tế cửa khẩu, nên cơ hội trao đổi thương mại
trực tiếp với các địa phương của bạn rất thuận lợi.
Hàng năm tỉnh có một lượng lớn phù sa bồi đắp nên đất đai phần lớn
màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho việc đa dạng hóa cây trồng và nuôi trồng
thủy sản, được xem là một vựa lớn về lúa, nông sản, thủy sản của cả nước,
cung cấp tiêu thụ nội tỉnh, trong nước và quốc tế. Do vậy tỉnh có nhiều cơ hội
phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản cho hiện tại và tương lai.
Nguồn lao động dồi dào với tiền lương thấp, gắn bó với địa phương,
nếu được đào tạo và đào tạo lại một cách quy củ từ khâu học văn hóa đến
khâu học nghề thì nguồn lao động của tỉnh có thể đối mặt với những thách
thức của quá trình đổi mới, phát triển đi lên vững chắc.
Chính sách thu hút vốn đầu tư của tỉnh thông thoáng và năng động, tỉnh
đã ban hành một số cơ chế, chính sách khuyến khích để tạo mọi điều kiện để
các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế có thể phát triển sự nghiệp của
mình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
+ Khó khăn:

22
Điểm xuất phát của nền kinh tế tỉnh thấp, cơ cấu kinh tế còn mang nặng
thuần nông, khả năng thu hút vốn kể cả trong và ngoài nước khó khăn, mặc
dù tỉnh có những chính sách, cơ chế rất linh hoạt, nhưng do hạ tầng cơ sở còn
trong tình trạng yếu kém, thiếu đồng bộ, chưa đủ đáp ứng cho nền kinh tế sản
xuất hàng hóa và phát triển dịch vụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị
trường.
Cơ sở hạ tầng, giao thông không thuận lợi, nằm xa tuyến giao thông bộ
chính của ĐBSCL, đất đai phần lớn có kết cấu yếu không thuận lợi cho việc
xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Do đó tỉnh bị đẩy ra khỏi
các trung tâm kinh tế khu vực, tạm thời chưa có sức hấp dẫn đầu tư nước
ngoài.
Nghèo về tài nguyên khoáng sản, trừ cát và đất sét, cơ cấu ngành nghề
của tỉnh chỉ giới hạn một số ngành như: chế biến lương thực, thực phẩm, thủy
sản, dược phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, cần phát triển mạnh các ngành
công nghiệp sử dụng nguyên liệu ngoại nhập nhằm tạo thêm lực đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chung của tỉnh.
Nguồn lao động có tay nghề không nhiều, không cao, phong cách làm
việc vẫn mang đậm nét thuần nông, vì vậy sẽ rất khó khăn khi tuyển và sử
dụng hiệu quả lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Lũ hàng năm mang lại nhiều nguồn lợi, nhưng lũ lớn làm thiệt hại tài
sản, tuyến giao thông, cơ sở hạ tầng. Mặc khác, việc xây dựng các khu dân cư
và cơ sở hạ tầng có khả năng sử dụng lâu dài trong vùng lũ và ảnh hưởng lũ
yêu cầu vốn và kỹ thuật cao, đang là vấn đề nan giải của tỉnh.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
Những năm gần đây nền kinh tế của tỉnh Đồng Tháp đi dần vào thế ổn
định, tăng trưởng từng bước hòa nhập và phát triển theo hướng cơ chế thị
23
trường có sự điều tiết, quản lý vĩ mô của nhà nước. Năm 2007, tổng sản phẩm
nội tỉnh (GDP) là 9.770 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994), tốc độ tăng

trưởng đạt 15,26%, cao hơn mức trung bình của ĐBSCL(10,4 %) và cả nước
(8,48%). Trong đó khu vực nông lâm thủy sản tăng 8,01% làm GDP tăng
4,4%, khu vực công nghiệp xây dựng tăng 31,04% làm GDP tăng 5,23%, khu
vực thương mại dịch vụ tăng 19,27% làm GDP tăng 5,6%, kinh tế của tỉnh đã
có bước tăng trưởng đột phá và cả ba khu vực đều có tốc độ tăng trưởng vượt
kế hoạch. Như vậy, khu vực công nghiệp xây dựng và thương mại dịch vụ có
tốc độ tăng trưởng vượt cao, có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ tăng trưởng
GDP năm 2007. Tuy nhiên, khu vực nông lâm thủy sản mặc dù có tốc độ tăng
trưởng thấp hơn hai khu vực còn lại nhưng do chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu
GDP nên vẫn giữ vai trò quan trọng.
Để GDP năm 2007 có được tốc độ tăng trưởng cao, trước hết là ngành
công nghiệp có thêm một số dự án mới đi vào hoạt động trong năm. Bên cạnh
đó, các dự án đi vào hoạt động năm 2006 tiếp tục tăng cường khai thác công
suất tạo tốc độ vượt bậc của ngành công nghiệp nói riêng và GDP của tỉnh nói
chung. Thứ hai, là sự phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản với sản lượng
226 ngàn tấn, tăng 42,73% so với năm 2006, vừa cung cấp nguyên liệu cho
ngành chế biến, vừa duy trì mũi nhọn tăng trưởng cho khu vực nông lâm thủy
sản. Thứ ba, là sự phát triển của các ngành sản xuất đã tạo nhu cầu và cơ hội
cho sự phát triển của các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các
dịch vụ vận tải, tài chính, tín dụng … đã tạo ra tốc độ tăng trưởng cao cho
toàn khu vực thương maị dịch vụ.
Với tốc độ tăng trưởng trên cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch
theo hướng tăng mạnh ngành công nghiệp xây dựng và thương mại dịch vụ,
giảm tương đối ngành nông lâm thủy sản. Nhưng sự chuyển dịch còn chậm,
24
nông nghiệp vẫn còn ở mức cao. Nếu theo giá cố định 1994 thì khu vực nông
lâm thủy sản chiếm tỷ trọng 51,48% giảm 3,26% so với năm 2006, khu vực
công nghiệp xây dựng chiếm tỷ trọng 19,17%, tăng 2,31% và khu vực thương
mại dịch vụ chiếm tỷ trọng 29,35%, tăng 1,15% so với năm 2006.
2.2. Thực trạng hoạt động DNVVN trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp trong

thời gian qua
2.2.1. Về số lượng doanh nghiệp
Hiện nay ở tỉnh Đồng Tháp có 1.005 doanh nghiệp vừa và nhỏ đang
hoạt động, chia theo ngành nghề có 12 đơn vị sản xuất nông lâm thủy sản,
510 đơn vị sản xuất công nghiệp xây dựng, 483 đơn vị thương mại dịch vụ.
Nếu phân theo thành phần kinh tế thì có 23 doanh nghiệp nhà nước, 980
doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tập thể và 2 đơn vị doanh
nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
Bảng 6: Số lượng và cơ cấu DNVVN tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Loại hình doanh nghiệp
Nông
lâm
thủy
sản
Công
nghiệp
xây
dựng
Thương
mại
dịch vụ
Tổng số
Số
lượng
Tỷ
trọng
(%)
- Khu vực nhà nước
- Khu vực ngoài nhà nước

+ Công ty cổ phần
+ Công ty TNHH
+ Doanh nghiệp tập thể
+ Doanh nghiệp tư nhân
12
2
5
5
12
496
11
131
11
343
11
472
9
48
29
386
23
980
22
184
40
734
2,3
97,5
2,2
18,3

4,0
73,0
25

×