Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vấn đề chuyển giá của công ty đa quốc gia trên thế giới và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.23 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI</b>


<b>vấn đeÀ chuyển giá cuÛa công ty </b>


<b>đa Quốc gia trên thế giới và </b>


<b>doanh nghiệP đaÀu tư trực tiếP </b>



<b>nước ngoài ơÛ việt nam</b>



PGS.TS. PHaN Duy MINH*


C

<i><b>ông ty đa quốc gia là một trong những xu thế phát triển lớn của kinh tế thế giới trong Thế </b></i>
<i><b>kỷ 21. Có thể nói, chúng đang ngày càng chứng tỏ là xương sống, là chủ lực của nền kinh tế </b></i>
<i><b>thế giới. Công ty đa quốc gia đang mang lại những lợi ích khơng nhỏ cho nhiều quốc gia, </b></i>
<i><b>nhưng bên cạnh đó cũng khơng ít những hệ lụy. Một trong những vấn đề gây nhức nhối, tạo </b></i>
<i><b>ra nhiều hậu quả xấu cho những quốc gia có nhiều cơng ty, chi nhánh của các tập đồn đa quốc gia là </b></i>
<i><b>tình trạng chuyển giá trốn thuế. Trong gần 30 năm qua ở Việt Nam đã thu hút được hơn 130 tỷ USD với </b></i>
<i><b>hơn 15.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hoạt động. Kinh tế FDI đã có những đóng góp </b></i>
<i><b>quan trọng cho nền kinh tế, nhưng bên cạnh đó cũng khơng ít những mảng xám, như hủy hoại môi trường, </b></i>
<i><b>chuyển giá trốn thuế… Bài viết dưới đây cố gắng đi sâu hơn vấn đề chuyển giá trốn thuế...</b></i>


<b>Từ khóa: Cơng ty đa quốc gia, chuyển giá, trốn thuế.</b>


<b>Transfer pricing issues of multinational companies worldwide and FDI companies in Vietnam</b>


Multinational corporation is one of the major development trends of the world economy in the 21st century.
Having said that, they are increasingly proving to be the backbone of the world economy. Multinational
corporations are bringing significant benefits to many countries, but there also many implications. One of
the most aching problems, creating negative consequences for the countries with subsidiary companies of
multinational corporations is transfer pricing and tax evasion. In Vietnam, more than $ 130 billion has been
attracted in nearly 30 years with more than 15,000 projects in foreign direct investment (FDI) is active. FDI
Economy has made an important contribution to the economy, but there are not few patches of gray, such


as environmental destruction, transfer pricing, tax evasion... The following article tries to go deeper than the
issue of transfer pricing and tax evasion...


<b>keyword: transfer price, multinational companies, FDI companies</b>
<b>1. khái quát về công ty đa quốc gia</b>


Công ty đa quốc gia (Multinational Company
- MNC) là một loại hình cơng ty xuất hiện phổ
biến từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đang trở
thành một trong những xu hướng lớn của kinh tế
thế giới thế kỷ 21.


Về nguyên tắc, một cơng ty trong đó việc sản
xuất kinh doanh được tiến hành cùng một lúc tại
hai quốc gia trở lên thì có thể gọi là cơng ty đa quốc
gia. Tuy vậy, theo thông lệ quốc tế, một công ty đa
quốc gia phải là công ty gồm có một cơng ty chính


(cơng ty mẹ) tại một quốc gia và có các cơng ty
chi nhánh (công ty con) hoạt động sản xuất kinh
doanh tại ít nhất là 5, 6 quốc gia khác. Điều quan
trọng ở đây là, các công ty chi nhánh ở các quốc
gia khác cũng phải tiến hành sản xuất kinh doanh
tương tự như cơng ty chính, là pháp nhân kinh tế
có tính độc lập tương đối ở các quốc gia đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tới việc đưa các yếu tố sản xuất đến tổ chức sản
xuất kinh doanh ngay trên các thị trường có nhiều
tiềm năng, vừa tận dụng được các nguồn nguyên
liệu tại chỗ, kể cả khai thác và chuyển chúng về cho


các cơ sở sản xuất ở chính quốc, vừa giảm bớt được
chi phí vận chuyển. Về thực chất là thực hiện xuất
khẩu tư bản, các cơ sở sản xuất kinh doanh được
thiết lập ngay trên các thị trường tiêu thụ hàng hoá.
Cùng với thời gian, đặc biệt là từ sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, do những lợi thế không thể phủ
định của các cơng ty chi nhánh ở nước ngồi, nên
chúng được quan tâm củng cố, mở rộng và phát
triển không ngừng. Thế giới đã và đang chứng
kiến những Tập đồn đa quốc gia khổng lồ, có chi
nhánh ở hàng trăm quốc gia, hàng năm tạo ra phần
lớn thu nhập cho Tập đoàn. Lấy hãng Coca Cola
là một ví dụ. Hiện hãng có chi nhánh tại hơn 160
quốc gia trên thế giới, sử dụng hơn 40 đồng tiền
khác nhau phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh và các chi nhánh ở nước ngoài đã tạo ra hơn
60% thu nhập hàng năm cho tồn hãng.


Ngày nay, có hơn 630.000 MNC trên tồn thế
giới, đóng góp tới 2/3 GDP tồn cầu, trong đó có
khoảng 500 hãng khổng lồ nắm giữ hầu hết các
ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn của thế giới.
Những quốc gia có nhiều MNC khổng lồ là Mỹ,
Nhật Bản, Tây Âu, Hàn Quốc… Chúng đang khẳng
định một xu thế lớn về phát triển của kinh tế thế


giới thế kỷ 21. Đối với Việt Nam, sau hơn 20 năm
thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngồi, đã có hàng
nghìn MNC đầu tư mở công ty chi nhánh, với số
vốn gồm nhiều chục tỷ uSD.



Đặc điểm nổi bật nhất của MNC là môi trường
hoạt động của chúng được trải rộng ở nhiều quốc
gia khác nhau, thậm chí là hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Đặc điểm này đã làm cho các MNC có rất
nhiều lợi thế, nhưng cũng luôn đối mặt với rủi ro
lớn là rủi ro chính trị của các quốc gia.


<i>- Tận dụng được chi phí cơ hội</i> của các quốc gia
về lợi thế so sánh, giảm chi phí vận chuyển, tránh
khơng phải nộp các khoản thuế như xuất khẩu
hàng hóa đến…


<i>- Nhanh chóng tiếp cận các thị trường mới nổi</i>
<i>- Tận dụng được các cơ hội khác</i> như qui mô lớn,
có cơng nghệ nguồn, thuận lợi trong thanh tốn
quốc tế…


Về mơ hình tổ chức hoạt động, hiện nay trên thế
giới có hai loại mơ hình chủ yếu của các MNC, đó
là mơ hình tổ chức theo chiều ngang và mơ hình tổ
chức theo chiều dọc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI</b>


các chi tiết, bộ phận, đặc biệt phổ biến trong các lĩnh
vực kinh doanh về thương mại, dịch vụ.


Trong mơ hình tổ chức theo chiều dọc, các cơng
ty như là những “mắt xích” trong một chuỗi sản


xuất, đảm nhận những công đoạn và tạo ra những
sản phẩm khơng hồn tồn giống nhau. Mơ hình
này thường được áp dụng cho các MNC sản xuất với
chu trình sản xuất qua nhiều cơng đoạn khác nhau,
sản phẩm cuối cùng do nhiều chi tiết hợp thành.


Về quản lý tài chính, cũng có 2 loại mơ hình
chính được áp dụng cho các MNC.


<i>- Mơ hình quản lý tài chính tập trung:</i> Cơng ty
mẹ vừa quản lý tài chính của mình vừa đồng thời
tham gia trực tiếp quản lý tài chính của các công ty
chi nhánh, các công ty chi nhánh chịu song trùng
quản lý.


<i>- Mơ hình quản lý tài chính phi tập trung của </i>
<i>MNC: </i>Theo mơ hình này, các công ty chi nhánh
hầu như được tự chủ hồn tồn trong quản lý tài
chính, cơng ty mẹ chỉ quản lý thông qua đầu mối,
với những nội dung hoạt động nào có liên quan
đến cơng ty mẹ.


Mục tiêu chủ yếu của MNC là <i>tối đa hố lợi </i>
<i>nhuận của cơng ty và làm gia tăng giá trị của cải </i>


cho các chủ sở hữu.


<b>2. Chuyển giá của MNC</b>


Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính


sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được
chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đồn qua
biên giới khơng theo giá thị trường nhằm tối thiểu
hóa số thuế của các MNC trên phạm vi toàn cầu.


Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ
thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao
đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên
liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là
giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những
giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau.


<i><b>Thứ nhất, </b></i>Xuất phát từ quyền tự do định đoạt


trong kinh doanh, các chủ thể hồn tồn có quyền
quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó, họ
hồn tồn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ
với giá họ mong muốn.


<i><b>Thứ hai,</b></i> Xuất phát từ mối quan hệ gắn bó


chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác
biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ
thể kinh doanh có cùng lợi ích khơng làm thay đổi
lợi ích tồn cục.


<i><b>Thứ ba,</b></i> Việc quyết định chính sách giá giao


dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết khơng
thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay


đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định
giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết
cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại.


Ở đây cần phân biệt chuyển giá với trường hợp
khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để
trốn thuế nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện
thanh tốn đầy đủ theo giá thỏa thuận; còn giao
dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế
sau của việc thanh tốn trên và thậm chí họ có thể
định giá giao dịch cao. Các đối tượng này nắm bắt
và vận dụng được những quy định khác biệt về
thuế giữa các quốc gia, các ưu đãi trong quy định
thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp pháp
(tránh thuế).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>MNC</b></i>


- Nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu…
(tài sản vô hình);


- Nhập khẩu ngun vật liệu từ cơng ty mẹ ở
nước ngồi, hoặc từ cơng ty đối tác trong liên
doanh với giá cao. Những nguyên liệu này chủ yếu
có tính độc quyền cao;


- Nâng chi phí các đơn vị hành chính và quản lý;
- Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết
giá mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu giữa các
cơng ty trong MNC;



- Chuyển giá thơng qua hình thức tài trợ bằng
nghiệp vụ vay từ công ty mẹ;


- Chuyển giá thông qua các trung tâm tái tạo hóa đơn;
- …


<i><b>Có nhiều yếu tố thúc đẩy các MNC chuyển giá</b></i>


<i>- Sự khác biệt về thuế</i>


Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình,
các MNC ln tìm kiếm một lợi thế từ thuế suất
thuế TNDN của các quốc gia có mức thuế suất
khác nhau bằng các hành vi chuyển giá. Các thủ
thuật thường sử dụng là nâng giá mua đầu vào các
nguyên vật liệu, hàng hóa và định giá bán ra hay
giá xuất khẩu thấp tại các cơng ty con đóng tại các
quốc gia có thuế suất thuế TNDN cao. Nhờ vậy, các
MNC đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia
có thuế suất thuế TNDN cao sang quốc gia có thuế
suất thuế TNDN thấp, như thế các MNC đã thực
hiện được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Nói tóm lại, sự khác biệt về thuế suất thuế TNDN
là động cơ lớn thúc đẩy chuyển giá.


<i>- Sự thay đổi của tỷ giá hối đối</i>


Nhằm bảo tồn vốn ban đầu theo nguyên tệ,
MNC rút vốn đầu tư ở quốc gia mà họ kỳ vọng vào


việc đồng tiền nước đó sẽ yếu đi trong tương lai.
Như vậy, lúc này, ngồi lợi nhuận thu được, MNC
cịn thu được một khoản lợi nhuận chênh lệch do
sự biến động có lợi về tỷ giá.


<i>- Hoạt động liên doanh liên kết</i>


Nhằm tăng cường tỷ lệ vốn góp trong hoạt động


tố đầu vào từ công ty mẹ nắm quyền quản lý.


<i>- Tình hình lạm phát của các quốc gia</i>


MNC sẽ tiến hành chuyển giá ở các nước có tỷ
lệ lạm phát cao để bảo toàn số vốn đầu tư và lợi
nhuận trong điều kiện đồng tiền nước đang đầu tư
bị mất giá.


<i>- Những biến động kinh tế - chính trị thế giới</i>


MNC sẽ thực hiện chuyển giá để chống lại các
tác động bất lợi của các chính sách kinh tế ở nước
đang đầu tư, mặt khác hoạt động chuyển giá làm
giảm các khoản lãi dẫn đến giảm áp lực đòi tăng
lương của lực lượng lao động.


<i><b>Căn cứ để xem xét hành vi chuyển giá</b></i>


Giá giao kết được coi là cơ sở để xem xét hành
vi chuyển giá. Chỉ có thể đánh giá một giao dịch có


chuyển giá hay khơng khi so sánh giá giao kết với
giá thị trường. Nếu giá giao kết không tương ứng
với giá thị trường thì có nhiều khả năng để kết luận
rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá.


Ở Việt Nam hiện nay, hiện tượng chuyển giá
phổ biến trong doanh nghiệp là làm tăng giá trị
máy móc thiết bị, bí quyết công nghệ và nguyên
vật liệu đầu vào của doanh nghiệp FDI, đồng thời
làm giảm giá trị sản phẩm đầu ra khiến cho doanh
nghiệp FDI bị thua lỗ giả tạo. Khơng ít trường hợp
các doanh nghiệp liên doanh có vốn FDI liên tục
thua lỗ (do chuyển giá) đã khiến cho phần vốn góp
của phía Việt Nam trong liên doanh bị giảm tỷ lệ,
buộc phía Việt Nam nhượng lại phần vốn góp do
khơng chịu nổi thua lỗ, biến doanh nghiệp liên
doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi.


Bên cạnh đó, các thủ thuật chuyển giá khác cịn
có kê khai tăng chi phí bản quyền, quảng cáo, kê
khống nhóm vật tư đặc biệt, tăng chi phí sản xuất,
“vận dụng linh hoạt” các chi phí tài chính từ Tập
đồn mẹ ở nước ngoài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI</b>


- Nếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
của công ty con a lớn hơn thuế suất của công ty B
thì giá chuyển nhượng càng thấp càng tốt.



- Nếu thuế suất thu nhập doanh nghiệp của
công ty con a nhỏ hơn thuế suất của cơng ty con B
thì giá chuyển nhượng càng cao càng tốt.


<b>3. Thực trạng chuyển giá của các doanh nghiệp </b>
<b>FDI tại Việt Nam</b>


Tính đến cuối năm 2016, cả nước có khoảng
trên 15.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn
đăng ký hơn 230 tỷ uSD, vốn thực hiện hơn 120 tỷ
uSD. Cũng theo con số thống kê, trong số các dự
án FDI đang hoạt động là chi nhánh, công ty con
của hơn 1.600 MNC lớn nhỏ trên thế giới. Trong
đó, đại bộ phận các MNC khổng lồ đều đã có chi
nhánh và cơng ty con ở Việt Nam.


Có thể nói, khu vực kinh tế FDI là một bộ phận
hết sức quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Ở đó
có hơn 4 triệu lao động làm việc trực tiếp và hàng
chục triệu lao động gián tiếp khác. Hàng năm, kinh
tế FDI đã đóng góp khoảng ¼ GDP của nền kinh
tế, gần 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu và gần
20% trong tổng thu NSNN.


Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực
cho nền kinh tế, khu vực FDI cũng đã và đang bộc
lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực nổi bật là
chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi
thật, gây thất thu ngân sách, tạo ra sự cạnh tranh
không lành mạnh với các doanh nghiệp giữ lại


trong nước, tác động không tốt đến môi trường đầu
tư… Trong phạm vi bài viết này khơng cho phép


trình bày một cách chi tiết đầy đủ
tất cả các hoạt động chuyển giá với
vô số những mánh lới khác nhau,
mà chỉ dẫn ra một số ít những
thơng tin có tính điển hình như là
những điểm nhấn chính của bức
tranh chuyển giá của các DN FDI
sau đây.


Thống kê những năm qua cho
thấy, cả nước có khoảng 50% DN
FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều DN
thua lỗ liên tục trong nhiều năm
liên tiếp. TP. Hồ Chí Minh có tới
gần 60% trong số trên 3.500 DN FDI thường xuyên
kê khai lỗ trong nhiều năm; Tương tự tại tỉnh Lâm
Đồng với 104/111 DN FDI báo cáo lỗ liên tục; tỉnh
Bình Dương, một trong những tỉnh thu hút được
nhiều dự án FDI, cũng có đến 50% DN FDI báo cáo
lỗ từ năm 2006 – 2011.


Các báo cáo của cơ quan thuế cho thấy, các DN
FDI khai kinh doanh thua lỗ thường tập trung
trong lĩnh vực gia công may mặc, da giày; sản xuất,
kinh doanh chè xuất khẩu; cơng nghiệp chế biến…


Đặc biệt, ở TP. Hồ Chí Minh, có đến 90% DN


FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc có kết quả
kinh doanh thua lỗ trong khi hầu hết các DN trong
nước cùng ngành nghề đều có lãi. Mặc dù thua lỗ
triền miên song các DN FDI này vẫn đầu tư mở
rộng sản xuất, kinh doanh.


Trường hợp điển hình có những biểu hiện “đáng
ngờ” về chuyển giá, phải nói đến Cơng ty Coca Cola
Việt Nam. Trong gần 25 năm đầu tư, kinh doanh tại
Việt Nam, Coca Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính
đến 30/9/2011 của cơng ty này đã lên tới 3.768 tỷ
đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng.


Do lỗ liên tục như vậy nên Coca Cola Việt Nam
chưa hề đóng đồng thuế TNDN nào cho Chính
phủ Việt Nam, trong khi doanh thu liên tục tăng từ
20 -30%/năm. Tuy lỗ lớn như vậy nhưng DN này
đã có kế hoạch tiếp tục đầu tư thêm 300 triệu uSD
tại Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

năm 1991, gần 20 năm đầu PepsiCo lỗ liên tục, cho
đến một số năm gần đây mới có lãi nhưng tỷ lệ lợi
nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc dù
vậy, PepsiCo Việt Nam vẫn liên tục mở rộng đầu
tư, xây dựng các nhà máy mới ở Đồng Nai (45 triệu
uSD), Bắc Ninh (73 triệu uSD).


Trước vấn nạn chuyển giá ngày càng gia tăng,
năm 2012 Tổng cục Thuế xây dựng chương trình
thanh tra kiểm soát giá chuyển nhượng trong giai


đoạn 2012-2015, đồng thời, quyết định thành lập
Tổ quản lý giá chuyển nhượng. Chỉ tính trong 3
năm kể từ khi Tổng cục Thuế thành lập Tổ quản
lý giá chuyển nhượng đã phát hiện nhiều vụ việc
chuyển giá, với giá trị điều chỉnh rất lớn. Tại các
Cục thuế địa phương đều đã quyết liệt thực hiện
thanh tra, kiểm tra nhằm ngăn ngừa tình trạng
chuyển giá của các DN.


Tại Cục thuế TP. Hồ Chí Minh, ngay trong năm
2012, cơ quan này đã thanh tra DN kê khai lỗ và DN
giao dịch liên kết có dấu hiệu chuyển giá. Kết quả,
đã giảm lỗ hơn 2.688,5 tỷ đồng; giảm khấu trừ 86,8
tỷ đồng; truy thu, truy hoàn và phạt 2.611 tỷ đồng.


Riêng thanh tra 16 DN dệt may có dấu hiệu
chuyển giá, Cục thuế Thành phố đã giảm lỗ 367,8 tỷ
đồng và truy thu 11,3 tỷ đồng. Chiêu thức chuyển
giá của DN dệt may là khai tăng chi phí nguyên liệu
đầu vào, giá gia công sản phẩm thấp dẫn tới thua
lỗ triền miên. Cũng trong năm 2012, tại Đồng Nai,
cơ quan thuế thanh tra giá chuyển nhượng tại một
DN FDI sản xuất sợi (vốn đầu tư 7 triệu uSD) khai
lỗ hơn 2.100 tỷ đồng. Kết quả, đã buộc DN giảm
hết số lỗ khai báo và xác định thu nhập chịu thuế
hơn 1.100 tỷ đồng.


Kết quả thanh tra đã giúp ngân sách không bị
thất thu hơn 340 tỷ đồng và có cơ sở để đấu tranh
với các DN chuyển giá khác. Trong đó, tập trung


thanh tra DN FDI ở 5 lĩnh vực là bất động sản, xây
dựng (Hà Nội), dệt may (TP. Hồ Chí Minh), sản
xuất sợi vải (Đồng Nai), sản xuất lắp ráp ơ tơ (Vĩnh
Phúc), sản xuất cơ khí (Bình Dương). Hàng loạt
DN liên tục báo lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng sẽ bị
đưa vào tầm ngắm thanh tra.


Tháng 9/2012, Cục Thuế TP. Hà Nội đã tiến


thành viên Keangnam Vina. Đây là DN 100% vốn
của Hàn Quốc (thành lập năm 2007) nhưng liên
tục báo lỗ với tổng số lỗ lũy kế đến hết năm 2011
là 277 tỷ đồng.


Có nhiều nghi vấn chuyển giá trong các giao
dịch liên kết đang được cơ quan thuế làm rõ, như
Keangnam Vina trả lãi suất tiền vay tới 12%/năm (lãi
suất của ngân hàng Việt Nam từ 5 - 7%/năm) cho
khoản vay 400 triệu uSD từ ngân hàng Kookmin
bank (Hàn Quốc), thành viên trong cùng tập đồn;
trả phí dàn xếp vốn tới 30 triệu uSD cho nhà thầu
chính, Cty Keangnam Enterprises.Ltd, cùng với
nhiều khoản chi phí khác lên tới vài triệu uSD…


Trong năm 2013, ngành Thuế tiếp tục đẩy
mạnh, tập trung nhân lực vào công tác trọng tâm
chống chuyển giá đối với các DN FDI có giao dịch
liên kết, liên tục khai lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng
sản xuất, kinh doanh. Theo đó, kết quả thanh tra,
kiểm tra tại 2.110 DN đã truy thu, truy hoàn, phạt


hơn 988 tỷ đồng, giảm khấu trừ 136,95 tỷ đồng.
Đặc biệt thanh tra thuế đã buộc DN phải giảm lỗ
lên tới hơn 4.192 tỷ đồng. Theo đánh giá của thanh
tra, số tiền truy thu chủ yếu tập trung ở khu vực
DN FDI (chiếm 40% tổng số thu), tỷ lệ số thu bình
quân trên 1 DN là 1,73 tỷ đồng.


Tuy nhiên, con số trên chỉ phản ánh một phần
của bức tranh về thực trạng trốn thuế của DN FDI.
Báo cáo của 63 cục thuế, hơn 100 chi cục thuế trên cả
nước thực sự khiến khơng ít người phải giật mình.
Cụ thể, kết quả thanh tra tại 870 DN FDI có tới 720
DN vi phạm. Đáng lưu ý là tại một số đơn vị, tỷ lệ vi
phạm lên đến 100% như Cục thuế Bắc Giang thanh
tra 16 DN thì cả 16 đều vi phạm. Tỷ lệ này diễn ra
tương tự tại Hịa Bình (16/16), Gia Lai (15/15)…


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI</b>


phạm, tỷ lệ này cũng xảy ra tại Đồng Nai 39/39, Gia
Lai 30/30, Hải Phòng 45/45, Thái Nguyên 46/46,
Quảng Ngãi 80/80…


Năm 2014, ngành Thuế đã tiến hành thanh
tra, kiểm tra chống chuyển giá tại 2.866 DN khai
báo kinh doanh thua lỗ, DN nghi ngờ có dấu hiệu
chuyển giá và DN có hoạt động giao dịch liên kết,
tăng 80% so với năm 2013. Kết quả là, cơ quan thuế
đã giảm lỗ hơn 5.830 tỷ đồng, truy thu, truy hoàn
và phạt gần 1.701 tỷ đồng, so với năm 2013 tăng


tương ứng gần 82% và 112%. Trong đó, qua thanh
tra, kiểm tra đối với 30 DN FDI có giao dịch liên
kết, rủi ro cao về chuyển giá, cơ quan thuế đã giảm
lỗ trên 1.600 tỷ đồng, sau khi miễn giảm thuế do
ưu đãi đầu tư, đã truy thu thuế thu nhập DN và xử
phạt vi phạm trên 600 tỷ đồng.


Tính riêng trong 9 tháng đầu năm 2015, ngành
Thuế đã kiểm tra và phát hiện 1.600 DN có dấu
hiệu chuyển giá. Ngay cả trường hợp Công ty
Metro Cash & Carry Việt Nam, sau khi công bố
kết quả thanh tra bước đầu, đã điều chỉnh giảm lỗ,
giảm khấu trừ và truy thu thuế với tổng số tiền 507
tỷ đồng. Hiện nay, cơ quan thuế đang tiến hành rà
soát, kiểm tra để làm rõ nghi vấn dấu hiệu chuyển
giá ở Công ty này.


<b>4. Giải pháp chống chuyển giá</b>


Chuyển giá được coi là hoạt động “cổ điển” của
các MNC, nhưng không hề giảm xuống trong đương
đại. Chống chuyển giá là công việc làm đau đầu nhiều
Chính phủ và các chuyên gia trên thế giới. Theo
chúng tôi, cần phải triển khai áp dụng đồng bộ nhiều
giải pháp và phải được tiến hành một cách quyết liệt,
kiên trì, thường xuyên. Tại Việt Nam, để hạn chế tình
trạng này cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt
và có hiệu quả vào một số giải pháp sau đây.


<i><b>Thứ nhất, </b></i>Khẩn trương hoàn thiện hơn nữa



khuôn khổ pháp lý chống chuyển giá. Theo chúng
tôi, trước mắt, Việt Nam cần tập trung khẩn trương
hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá
và tiến tới ban hành Luật Chống chuyển giá; thu
hẹp các ưu đãi về thuế, cụ thể là hạn chế tối đa các
chính sách xã hội trong ưu đãi thuế; chuyển giao
quyền điều tra cho cơ quan thuế từ cấp Tổng cục và
lâu dài đến cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố; hoàn


thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người, DN nộp
thuế để từ đó theo dõi sát sao những thay đổi về
doanh thu, lợi nhuận của các DN.


<i><b>Thứ hai,</b></i> Cần phải có một bộ máy chống chuyển


giá hoàn chỉnh và đủ mạnh. Mới đây, Tổng cục
Thuế chính thức thành lập Phịng Thanh tra giá
chuyển nhượng. Đồng thời, lực lượng thanh tra giá
chuyển nhượng được thành lập tại 4 Cục thuế địa
phương có nhiều rủi ro liên quan đến giá chuyển
nhượng như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình
Dương và Đồng Nai. Đây là lực lượng chuyên trách
làm việc chống chuyển giá tại cơ quan Thuế Trung
ương đến địa phương, cũng như tiến hành thu thập
xử lý thông tin từ các DN có quan hệ liên kết từ cơ
quan thuế và bên thứ ba.


Vấn đề đặt ra hiện nay là các cơ quan thuế cần
khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đáp


ứng được yêu cầu khai thác, phân tích rủi ro và làm
căn cứ để xác định giá thị trường đối với giao dịch
liên kết. Bởi theo các Cục thuế địa phương, việc
nhận dạng chuyển giá khơng khó, nhưng q trình
xử lý gặp rất nhiều khó khăn vì chưa có dữ liệu,
nên cán bộ thuế vẫn phải làm thủ công, nhặt từng
khoản mục để so sánh, đối chiếu.


Hơn nữa, không nên coi chống chuyển giá hầu
như chỉ là trách nhiệm tập trung vào Tổng cục
Thuế, mà nên coi đây là công việc bức bách, quan
trọng của nhiều ngành, lĩnh vực khác nữa, như Cơ
quan Quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), Tổng cục Hải quan, Cơ quản
Quản lý thị trường (Bộ Công thương), Cảnh sát
kinh tế (Bộ Cơng an)… Do vậy, nên có một tổ chức
chống chuyển giá quốc gia trực thuộc cơ quan nào
đó của Chính phủ cao hơn Tổng cục Thuế, chí ít
trước mắt cũng là nên trực thuộc Bộ Tài chính, thì
mới đủ hiệu lực, hiệu quả để giải quyết các vấn đề.


<i><b>Thứ ba, </b></i>áp dụng bắt buộc phương pháp định


</div>

<!--links-->

×