Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.15 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Bµi 1. Tài liệu bồi dưỡng H.S.G m«n ng÷ v¨n 8 khái quát về v.h.v.n từ đầu thế kỷ xx đến 1945. A: Yªu cÇu: - Giúp học sinh có cái nhìn tổng quan về giai đoạn văn học Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945 - Rèn kỹ năng tổng hợp, khái quát vấn đề VH. B: néi dung c¬ b¶n 1. Kh¸i qu¸t vÒ t×nh h×nh x· héi vµ v¨n ho¸ ViÖt Nam nh÷ng n¨m ®Çu thÕ kû 2. Qu¸ tr×nh ph¸t triÓn cña dßng v¨n häc ViÖt Nam ®Çu thÕ kû a) ChÆng thø nhÊt: Hai thËp niªn ®Çu thÕ kû XX b) ChÆng thø hai: Nh÷ng n¨m hai m¬i cña thÕ kû XX c) Chặng thứ ba: Từ đầu những năm 30 đến CMT8- 1945 3. Những đặc điểm chung của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến CMT8 – 1945 a) Văn học đổi mới theo hớng hiện đại hoá b) V¨n häc h×nh thµnh hai khu vùc (hîp ph¸p vµ bÊt hîp ph¸p) víi nhiÒu trµo lu cïng ph¸t triÓn c) Văn học phát triển với nhịp độ đặc biệt khẩn trơng, đạt đợc thành tựu phong phú. 4. Giíi thiÖu mét sè t¸c gi¶, t¸c phÈm tiªu biÓu cho tõng trµo lu v¨n häc: - Trµo lu l·ng m¹n, nãi lªn tiÕng nãi cña c¸ nh©n giµu c¶m xóc vµ kh¸t väng, bÊt hoµ víi thùc t¹i ngét ng¹t, muèn tho¸t khái thực tại đó bằng mộng tởng và bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm. Văn học lãng mạn thờng ca ngợi tình yêu say đắm, vẻ đẹp của thiên nhiên, của “ngày xa” và thờng đợm buồn. Tuy văn học lãng mạn còn những hạn chế rõ rệt về t tởng, nhng nhìn chung vẫn đậm đà tính dân tộc và có nhiều yếu tố lành mạnh, tiến bộ đáng quý. Văn học lãng mạn có đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới để hiện đại hoá văn học, đặc biệt là về thơ ca. Tiªu biÓu cho trµo lu l·ng m¹n tríc 1930 lµ th¬ T¶n §µ, tiÓu thuyÕt Tè T©m cña Hoµng Ngäc Ph¸ch; sau 1930 lµ Th¬ míi cña ThÕ L÷, Lu Träng L, Xu©n DiÖu, Huy CËn, Hµn MÆc Tö, ChÕ Lan Viªn, NguyÔn BÝnh…vµ v¨n xu«i cña NhÊt Linh , Kh¸i Hng, Th¹ch Lam, Thanh TÞnh, NguyÔn Tu©n… - Trµo lu hiÖn thùc gåm c¸c nhµ v¨n híng ngßi bót vµo viÖc ph¬i bµy thùc tr¹ng bÊt c«ng, thèi n¸t cña x· héi vµ ®i s©u ph¶n ánh thực trạng thống khổ của các tầng lớp quần chúng bị áp bức bóc lột đơng thời. Nói chung các sáng tác của trào lu văn học này có tính chân thực cao và thấm đợm tinh thần nhân đạo. Văn học hiện thực có nhiều thành tựu đặc sắc ở các thể loại văn xu«i (truyÖn ng¾n cña Ph¹m Duy Tèn, NguyÔn B¸ Häc, NguyÔn C«ng Hoan, Nam Cao, Nguyªn Hång, T« Hoµi, Bïi HiÓn; tiÓu thuyÕt cña Hå BiÓu Ch¸nh, Vò Träng Phông, Ng« TÊt Tè, Nguyªn Hång, Nam Cao; phãng sù cña Tam Lang, Vò Träng Phông …), nhng còng cã nh÷ng s¸ng t¸c gi¸ trÞ ë thÓ th¬ trµo phóng (th¬ Tó Mì, §å Phån). Hai trào lu lãng mạn và hiện thực cùng tồn tại song song, vừa đấu tranh với nhau lại vừa ảnh hởng, chuyển hoá nhau. Trên thực tế, hai trào lu đó đều không thuần nhất và không biệt lập với nhau, càng không đối lập nhau về giá trị. ở trào lu nào cũng cã nh÷ng c©y bót tµi n¨ng vµ t©m huyÕt. Văn học khu vực bất hợp pháp gồm thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt là sáng tác thơ ca của các chiến sĩ trong nhà tù. Thơ văn cách mạng cũng có lúc, có bộ phận đợc lu hành nửa hợp pháp, nhng chủ yếu là bất hợp pháp, bị đặt ra ngoài pháp luật và ngoài đời sống văn học bình thờng. Ra đời và phát triển trong hoàn cảnh luôn bị đàn áp, khủng bố, thiếu cả những điều kiện vËt chÊt tèi thiÓu, nhng v¨n häc c¸ch m¹ng vÉn ph¸t triÓn m¹nh mÏ, ngµy cµng phong phó vµ cã chÊt lîng nghÖ thuËt cao, nhịp với sự phát triển của phong trào cách mạng. Thơ văn cách mạng đã nói lên một cách thống thiết, xúc động tấm lòng yêu nớc, đã toát lên khí phách hào hùng của các chiến sĩ cách mạng thuộc nhiều thế hệ nửa đầu thế kỷ. C: Ph¬ng ph¸p N.C 1.Tµi liÖu tham kh¶o: - Bµi kh¸i qu¸t vÒ v¨n häc ViÖt Nam: +) SGK NV8 trang 3-11 +) Gi¸o tr×nh VHVN tËp 1 trang1-73 2.bµi tËp cñng cè: 1) Văn học thời kỳ từ XX đến 1945 phát triển với nhịp độ khẩn trơng, mau lẹ nh thế nào? 2)Vì sao nói văn học nửa đầu TK XX đến 1945 phát triển phong phú rực rỡ và khá hoàn chỉnh ( về thể loại) 3)Lập bảng thống kê các tác giả, tác phẩm văn học đầu TK đến 1945. ***************************************** Bµi 2 thanh tÞnh vµ t«i ®i häc a.néi dung 1. Khái quát kiến thức tác giả (tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp) 2. Củng cố lại vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật của áng văn giàu chất thơ “Tôi đi học” 3. Luyện đề GV hớng dẫn cho HS lập dàn ý cho các đề sau §Ò 1 :. GV : VŨ NGỌC QUANG. 1 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Hãy phân tích để làm sáng tỏ chất thơ của truyện “Tôi đi học” (Nâng cao ngữ văn trang 10) §Ò 2: C¶m nghÜ vÒ truyÖn ng¾n “T«i ®i häc” (N©ng cao NV trang 13) Đề 3: Tìm những nét tơng đồng trong cảm xúc của nhà thơ Huy Cận trong bài “Tựu trờng” và nhà văn Thanh Tịnh trong “Tôi ®i häc” B. ph¬ng ph¸p 1. Tµi liÖu tham kh¶o: N©ng cao NV8 - C¸c bµi viÕt vÒ ®o¹n trÝch “T«i ®i häc” 2. §Ò v¨n nghÞ luËn, chøng minh, tù sù, c¶m nhËn vÒ 1 ®o¹n v¨n. " Không biết bao nhiêu thế hệ học trò đã từng đọc, từng học và từng nhầm lẫn một cách rất đáng yêu rằng truyện ngắn “tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh chính là bài tâp đọc đầu tiên của mình.Sự nhầm lẫn vô lí mà lại hết sức có lí.Vô lí vì bài tập đọc đầu tiên hẳn phải là các câu văn, đoạn văn hay bài thơ chứ khó có thể là cả một truyện ngắn . Còn có lí bởi học trò các thế hệ có thể quên đi nhiều bài tập đọc khác, nhng hình nh ít ai hoàn toàn quên đợc những cảm xúc trong trẻo nguyên s¬ mµ tõng dßng tõng ch÷ cña “T«i ®i häc” gîi lªn trong miÒn kÝ øc tuæi th¬ cña m×nh. LiÖu cã ph¶i Thanh tÞnh còng c¶m thấy điều này không khi ông đã viết cả một truyện ngắn nhan đề “Tôi đi học” để rồi lại kết truyện bằng một câu nh thế này: “Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”? Bài tập đọc đầu tiên, buổi tựu trờng đầu tiên, lần đầu tiên con đờng “đã quen đi lại lắm lần” bỗng tự nhiên thấy lạ, lần đầu tiên đứng trớc ngôi trờng đã từng vào chơi bỗng cảm thấy vừa thân quen vừa lạ lẫm, cũng là lần đầu tiên chỉ rời mẹ một lát mà cảm thấy xa mẹ hơn cả những lần đi chơi xa mẹ cả ngày…Trong cuộc đời, có những cảm xúc đầu tiên mà mỗi ngời đều phải trải qua. Với “Tôi đi học”, Thanh Tịnh đã làm ngân lên một trong những cảm xúc đó trong lòng mỗi ngời đang là học trò hay đã từng là học trò: cảm xúc về ngày tựu trờng đầu tiên. Tính chất đầu tiên của cảm xúc ấyđã đợc Thanh Tịnh diễn tả một cách giản dị mà lại hết sức tinh tế nh chính tâm hồn trẻ thơ vậy. Đâu phải lần đầu tiên nhân vật “tôi” đi trên con đờng làng, nhng đây là lần đầu tiên “tôi” thấy “cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: h«m nay t«i ®i häc”. Thanh TÞnh kh«ng miªu t¶ nh÷ng c¶nh tîng l¹, nh÷ng ©m thanh l¹ hay nh÷ng con ngêi l¹ lÇn ®Çu tiªn nh©n vËt nh×n thÊy, nghe thÊy hay c¶m thÊy, mµ «ng miªu t¶ mét c¸i c¸ch “t«i” lÇn ®Çu kh¸m ph¸ ra trong nh÷ng ®iÒu tëng chừng nh quá quen thuộc những cảm nhận lạ lùng. Cảnh vật, con ngời và từng sự kiện, từng chi tiết của ngày tựu trờng đợc thuật lại một cách khá cặn kẽ tỉ mỉ, phần nào chứng tỏ chúng ta đã đợc soi chiếu qua cặp mắt háo hức tò mò của một cậu bé lần đầu tham dự ngày tựu trờng. Cái ý thức về một ngày đặc biệt trong cuộc đời đã tạo lên tâm trạng vừa bỡ ngỡ vừa hồi hộp vµ kh«ng ph¶i kh«ng pha chót tù hµo cña mét cËu bÐ bçng c¶m thÊy m×nh ®ang lµ mét ngêi lín. ChÝnh v× thÕ mµ cËu bÐ con mới ngày hôm qua thôi chắc hẳn còn bé bỏng, nghịch ngợm và vô tâm xiết bao, ngày hôm nay đã biết để ý vẻ đẹp của thiên nhiên- “một buổi mai đầy sơng thu và gió lạnh”, đã cảm nhận đợc một cách thật sâu sắc vẻ “âu yếm” trong bàn tay ngời mẹ, vẻ hiền từ và cảm động” trong cái nhìn của ông đốc trờng Mĩ Lí hay thái độ nhẹ nhàng của các thầy giáo, của các phụ huynh đối với mình và những cậu bé nh mình… Dờng nh đây chính là lần đầu tiên cậu khám phá ra những điều đó vậy! Ngoài ra, cũng cần phải nói rằng “tôi đi học” vốn là những dòng hồi tởng, cái hiện lên qua truyện ngắn không đơn thuần là một ngày tùu trêng mµ lµ nh÷ng kû niÖm m¬n man cña buæi tùu trêng. Bªn c¹nh c¸i nh×n cña nh©n vËt “t«i” trong qu¸ khø – cËu bÐ con lÇn ®Çu tiªn ®i häc, cßn cã c¸i nh×n cña nh©n vËt “t«i” trong hiÖn t¹i – ngêi ®ang ngåi ghi l¹i nh÷ng ký øc vÒ buæi tùu trêng ®Çu tiªn cña m×nh, ®ang dâi theo tõng bíc ch©n cña “t«i’ trong qu¸ khø mét c¸ch bao dung (v× thÕ nªn trong truyÖn ng¾n míi cã thÓ xuÊt hiÖn nh÷ng chi tiÕt nh: “T«i muèn thö søc m×nh nªn nh×n mÑ t«i: - MÑ ®a bót thíc cho con cÇm. mÑ t«i cói đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm: - Thôi để mẹ cầm cũng đợc . Tôi có ngay cái ý nghĩ vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ ngời thạo mới cầm nổi bút thớc”. Chi tiết trên mặc dù đợc nhìn bằng cặp mắt của “tôi”- cậu bé trong quá khứ nhng rõ rµng nh÷ng nhËn xÐt nh “c¸i ý nghÜ võa non nít võa ng©y th¬” chØ cã thÓ lµ cña t«i trong hiÖn t¹i). Sù ®an xen hai c¸i nh×n này thật hoà hợp với phong cách của truyện ngắn, từ cách lựa chọn từ ngữ, cách so sánh ví von cho đến giọng văn đều toát lên vẻ trong trẻo mà lại hiền hoà. Đây phải chăng là một trong những lí do làm cho ngời đọc dù thuộc thế hệ nào, lứa tuổi nào còng t×m thÊy chÝnh m×nh trong nh©n vËt “t«i” cña truyÖn? Bớc vào khu vờn kí ức có cái tên “Tôi đi học”, ta dờng nh đợc một bàn tay tin cậy và êm ái dẫn dắt đi từ dòng đầu đến dòng cuối. Tôi đi học giống nh một nốt lặng, một mảnh nhỏ, một góc khuất trong cuộc sống rộng lớn. Truyện ngắn kh«ng viÕt vÒ nh÷ng c¸i míi, c¸i l¹ (cã míi l¹ g× ®©u mét ngµy ®Çu tiªn ®i häc mµ häc trß nµo còng ph¶i tr¶i qua?), nhng nã ®em l¹i cho ngêi ta c¸i c¶m gi¸c ®©y lµ lÇn ®Çu tiªn m×nh kh¸m ph¸ ra nh÷ng ®iÒu nh vËy. Vµ cã khã tin qu¸ kh«ng khi cã những ngời nói rằng giữa bao bộn bề lo toan thờng nhật, họ đã dần quên mất ngày tựu trờng đầu tiên của mình, nhng khi đọc “Tôi đi học”, những kỷ niệm tởng đã ngủ yên trong ký ức lại hồi sinh, và họ bỗng nhớ lại ngày đó thậy rõ ràng sống động dờng nh nó cha bao giờ bi lãng quên cả, để rồi họ lại có thể bất giác ngâm nga một cách rất chân thành: “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đờng rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man cña buæi tùu trêng…” Phân tích nghệ thuật đặc sắc của truyện Tôi đi học (Thanh Tịnh) Tôi đi học là một truyện ngắn đầy chất thơ.Chất thơ tỏa ra từ tâm hồn mơ mộng giàu cảm xúc của nhà văn xứ HuếThanh Tịnh.Truyện tuy ngắn nhưng hàm súc và cô đọng.Ý tứ của truyện tinh tế,khơi gợi sâu xa vào những kỉ niệm trong tâm hồn của mỗi người. Truyện ngắn Tôi đi học xây dựng dựa trên dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình-hoài niệm về ngày đầu tiên cắp sách tới trường.Dòng hoài niệm đầy chất thơ ấy được mở đầu bằng những làn gió thu mát rượi,những đám lá vàng rơi và những đám mây “bàng bạc”.Tháng chín mùa thu đã đến và những kỉ niệm về ngày khai trường đầu tiên cứ thế ùa về.. GV : VŨ NGỌC QUANG. 41 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Ngày khai trường hôm ấy,cậu con trai được mẹ âu yếm dẫn đi vẫn trên con đường cũ mà hôm nay sao thấy lạ.Cảnh vật đang thay đổi hay chính lòng mình thay đổi. “Tôi đã lớn” và “hôm nay tôi đi học”.Cách dẫn dắt giản dị mà hợp lý.Có thể lắm chứa.Vì ngày đầu tiên đến trường mấy ai không có những kỉ niệm khó quên.Cậu bé thấy mình “trang trọng và đứng đắn”.Hai quyển vở mới trên tay cậu “đã bất đầu thấy nặng”,khiến cậu nảy ra một ý nghĩ vừa non nớt vừa ngây thơ “chắc chỉ người thành thạo mới cầm nổi bút thước”.Thanh Tịnh thật là tinh tế.Đoạn văn tưởng tượng và hoài niệm nhưng sự việc cứ ngỡ như đang xảy ra trước mắt,gần gũi quá,thân thuộc quá với tất cả mọi người. Dòng cảm xúc cũng như chất thơ của truyện lại tiếp tục được lan tỏa khi cậu học trò nhỏ tay trong tay mẹ bước qua cổng trường Mĩ Lý.Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật phát huy sức mạnh khi tác giả tìm đến những biến thái tinh vi trong tâm hồn câu học trò.Cậu đứng nép mình như “con chim đang đứng bên bờ tổ,nhìn quãng trời rộng muốn bay,nhưng còn ngập ngừng e sợ”.Rồi tiếng trống vang lên,những cậu trò mới “vụng về lúng túng”.Cảm giác của nhân vật “tôi” dường như đang mơn man trở lại trong lòng độc giả. Nhưng có lẽ đến bây giờ,cái màn chính của buổi tựu trường mới đến.Oâng Đốc đọc những cái tên lần lượt khiến tụi học trò tim như ngừng đập vì xúc động có,vì ngơ ngác có.Và đến rồi sau tiếng vỡ òa của bao cô cậu,buổi học đầu tiên cũng được bắt đầu.Oâi!Cái cảm giác khóc òa không chịu bước vào cái ngôi nhà mà cái gì cũng mới và lạ lẫm hẳn chẳng có gì xa lạ đối với chúng ta.Vậy mà đọc đến đây hẳn ai cũng bùi ngùi rung động về những câu văn tự nhiên mà sắc sảo. Nhân vật “tôi” lắng lại,quan sát và cảm nhận.Thầy đón tụi học trò nhỏ tuổi,tươi cười gợi cái gì đó vừa quen vừa lạ,vừa thân thuộc gần gũi nhưng cũng vừa cao quý.Còn lớp thì hình như “có một mùi hương lạ”.Chỗ ngồi này từ nay sẽ là của riêng tôi.Và tại sao những bạn kia “tôi” chưa nhìn thấy bao mà chẳng hề xa lạ thầm chí còn “quyến luyến tự nhiên”nữa chứ.Cái cảm giác gần gũi vô cùng. Câu chuyện của Thanh Tịnh không có nhiều nhân vật,không có những đối thoại ồn ào,không có những tình huống cam go quyết liệt.Nhưng chính sự tĩnh lặng,nhẹ nhàng được xây dựng trên cơ sở những hoài niệm rất thực và tinh tế đã làm nó trở nên thật là hấp dẫn.Nhưng biến thái tâm lý tinh vi,những dòng văn giản dị giàu cảm xúc,lối cảm nhận nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn này. ***************************************** Bµi 3: nguyªn hång vµ håi ký “nh÷ng ngµy th¬ Êu” a.môc tiªu: Cñng cè l¹i nh÷ng kiÕn thøc c¬ b¶n vÒ nhµ v¨n Nguyªn Hång vµ ®o¹n trÝch “Trong lßng mÑ” Mở rộng, luyện đề củng cố kiến thức chuyên đề. B. Néi dung: 1. Giíi thiÖu vÒ t¸c gi¶ Nguyªn Hång Đọc “Từ cuộc đời và tác phẩm” trang 251 đến256 Gi¸o tr×nh VHVN 30 – 45 Anh bình dị đến nh là lập dị ¸o quÇn ? R¸ch v¸ cã sao ®©u? Dễ xúc động, anh thờng hay dễ khóc Tr¶i ®au nhiÒu nªn th¬ng c¶m nhiÒu h¬n. (§µo C¶ng) - Nguyễn Tuân: “Tôi là một thằng thích phá đình phá chùa mà anh đúng là một ngời thích tô tợng đúc chuông” - NguyÔn §¨ng M¹nh: V¨n Nguyªn Hång bao giê còng lÊp l¸nh sù sèng. Nh÷ng dßng ch÷ ®Çy chi tiÕt….thèng thiÕt m·nh liÖt. 2. Giíi thiÖu kh¸i qu¸t vÒ “Nh÷ng ngµy th¬ Êu” a)Thể loại: Hồi ký là thể loại văn học mà ngời viết trung thành ghi lại những gì đã diễn ra trong cuộc sống của mình, tôn träng sù thËt. §Æc ®iÓm cña håi ký lµ kh«ng thÓ h cÊu v× nÕu thÕ t¸c phÈm sÏ kh«ng hay, sÏ tÎ nh¹t nÕu nh÷ng g× diÔn ra trong cuộc đời nhà văn không có gì đặc sắc. Những ngày thơ ấu là một tập hồi ký ghi lại những gì đã diễn ra thời thơ ấu của chính nhà văn. Ta có thể cảm nhận đợc tất cả những tình tiết, chi tiết trong câu chuyện đều có thật. Có nớc mắt của Nguyên Hång thÊm qua tõng c©u ch÷. b) Tãm t¾t håi ký: Chú bé Hồng – nhân vật chính – lớn lên trong một gia đình sa sút. Ngời cha sống u uất thầm lặng, rồi chết trong nghèo túng, nghiện ngập. Ngời mẹ có trái tim khao khát yêu đơng đành chôn vùi tuổi thanh xuân trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Sau khi chồng chết, ngời phụ nữ đáng thơng ấy vì quá cùng quẫn đã phải bỏ con đi kiếm ăn phơng xa. Chú bé Hồng đã mồ côi cha lại vắng mẹ, sống thui thủi cô đơn giữa sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của những ngời họ hàng giàu có, trở thành đứa bé đói rách, lêu lổng, luôn thèm khát tình thơng yêu mà không có. Từ cảnh ngộ và tâm sự của đứa bé “côi cút cùng khổ”, tác phẩm còn cho thấy bộ mặt lạnh lùng của xã hội đồng tiền, cái xã hội mà cánh cửa nhà thờ đêm Nô-en cũng chỉ mở rộng đón những ngời giàu sang “khệnh khạng bệ vệ” và khép chặt trớc những kẻ nghèo khổ “trơ trọi hèn hạ”; cái xã hội của đám thị dân tiểu t sản sống nhỏ nhen, giả dối, độc ác, khiến cho tình máu mủ ruột thịt cũng thành khô héo ; cái xã hội đầy những thµnh kiÕn cæ hñ bãp nghÑt quyÒn sèng cña ngêi phô n÷… c)Gi¸ trÞ néi dung vµ nghÖ thuËt 3.§o¹n trÝch “Trong lßng mÑ”. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Xây dựng dàn ý cho đề bài sau §Ò 1: Mét trong nh÷ng ®iÓm s¸ng lµm nªn søc hÊp dÉn cña ch¬ng IV (trÝch håi ký “Nh÷ng ngµy th¬ Êu” – Nguyªn Hång) lµ nhà văn đã miêu tả thành công những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại . Hãy chứng minh. Đề 2: Có nhà nghiên cứu nhận định: “Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng”. Hãy chứng minh Đề 3: Chất trữ tình thấm đợm “Trong lòng mẹ” Đề 4: Qua nhân vật trẻ em trong đoạn trích “Trong lòng mẹ”của Nguyên Hồng hãy phân tích để làm sáng tỏ: “C«ng dông cña v¨n ch¬ng lµ gióp cho t×nh c¶m vµ gîi lßng vÞ tha” (Hoµi Thanh) Yêu cầu đề 4: - Ph¬ng ph¸p: BiÕt c¸ch lµm bµi v¨n nghÞ luËn, chøng minh thÓ hiÖn trong c¸c thao t¸c: t×m ý, chän ý, dùng ®o¹n, liªn kÕt đoạn bố cục văn bản đặc biệt là cách lựa chọn phân tích dẫn chứng - Néi dung: Trªn c¬ së hiÓu biÕt vÒ ®o¹n trÝch “Trong lßng mÑ” cña Nguyªn Hång ph©n tÝch lµm s¸ng tá ý liÕn cña Hoµi Thanh vÒ c«ng dông cña v¨n ch¬ng: “Gióp cho t×nh c¶m vµ gîi lßng vÞ tha”. Häc sinh cã thÓ tr×nh bµy bè côc nhiÒu c¸ch khác nhng cần tập trung vào các vấn đề sau: + Tình yêu thơng con ngời: Bé Hồng có tình yêu mãnh liệt với ngời mẹ đáng thơng + Giàu lòng vị tha: Bé Hồng bỏ qua những lời rèm pha thâm độc của bà cô lúc nào cũng nghĩ tới mẹ với niềm thông cảm sâu sắc, mong muốn đợc đón nhận tình yêu thơng của mẹ + Bồi đắp thêm về tâm hồn tình cảm c.Ph¬ng ph¸p: 1.HS và GV tìm đọc các t liệu tham khảo sau: GV poto tài liệu cho HS - Bài đọc thêm “Tôi viết bỉ vỏ” của Nguyên Hồng: Trang 27 – 31 sổ tay văn học - Bài đọc thêm trích “Nguyên Hồng, một tuổi thơ văn”: Trang 16 – 18 t liệu ngữ văn - Håi ký “Nh÷ng ngµy th¬ Êu” - C¸c bµi viÕt bµn vÒ ®o¹n trÝch “Trong lßng mÑ” 2.§Ò v¨n nghÞ luËn, chøng minh, tù sù, c¶m nhËn vÒ mét ®o¹n v¨n Bài tập về nhà: GV tuỳ chọn các đề bài ra bài về nhà cho HS làm, đầu giờ tiết sau chữa bài cho HS VD: LuyÖn viÕt ®o¹n v¨n chøng minh: NiÒm h¹nh phóc v« bê khi ë trong lßng mÑ theo c¸ch: DiÔn dÞch vµ quy n¹p - B¾t buéc HS ghi nhí mét ®o¹n v¨n hay trong ®o¹n trÝch. Gợi ý đề 1 - Lßng yªu th¬ng mÑ tha thiÕt cña bÐ Hång: Xa mÑ, v¾ng t×nh th¬ng, thiÕu sù ch¨m sãc, l¹i ph¶i nghe nh÷ng lêi rÌm pha xúc xiểm của ngời cô độc ác nhng tình cảm của bé Hồng hớng về mẹ vẫn mãnh liệt duy nhất một phơng, không bị “những rắp tâm tanh bẩn xúc phạm đến”. Chính tình yêu thơng mẹ tha thiết đã khiến cho bé Hồng có một thái độ kiên quyết, dứt kho¸t. - Sự căm thù những cổ tục đã đầy đoạ mẹ: Lòng căm ghét của bé Hồmg đợc diễn đạt bằng những câu văn có nhiÒu h×nh ¶nh cô thÓ, gîi c¶m vµ cã nhÞp ®iÖu dån dËp tùa nh sù uÊt øc cña bÐ ngµy mét t¨ng tiÕn: “C« t«i nãi cha døt c©u, cổ họng tôi đã nghẹn ứ không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đầy đoạ mẹ tôi là một vật nh hòn đá, cục thuỷ tinh, đầu mẩu gç, t«i quyÕt vå ngay l¹i mµ c¾n, mµ nhai, mµ nghiÕn cho kú n¸t vôn míi th«i”. - Khát khao gặp mẹ cháy bỏng: Ngòi bút của nhà văn đã thể hiện thành công đặc sắc khi miêu tả với phơng pháp so s¸nh nh kh¸t khao cña ngêi bé hµnh ®i gi÷a sa m¹c nghÜ vÒ bãng r©m vµ dßng níc m¸t. H×nh ¶nh chó bÐ ph¶i xa mÑ l©u ngµy, h¬n n÷a ph¶i sèng trong sù ghÎ l¹nh cña nh÷ng ngêi xung quanh. - Sự cảm động, sung sớng, bối rối khi gặp mẹ. Niềm hạnh phúc vô bờ khi ở trong lòng mẹ: Để tô đậm niềm sung sớng tột độ của em bé mất cha, xa mẹ lâu ngày, nay đợc ngòi bên mẹ, lúc thì nhà văn miêu tả những cảm giác cụ thể: “Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ … mơn man khắp da thịt”, lúc thì chen những lời bình luận thấm đẫm chất trữ tình: “Phải bé lại…”, khi thì nghĩ đến câu nói độc ác, đay nghiến của bà cô và “Khômg mảy may nghĩ ngợi gì nữa.” bởi vì bé Hồng đợc gặp mẹ rất bất ngờ, niềm vui quá lớn. Nêu chính mình cha phải trải qua nỗi đau xa mẹ, cha có niềm sung sớng tột độ khi đợc gặp mẹ, chắc Nguyên Hồng khó có đợc những đoạn văn gây ấn tợng mạnh mẽ cho ngời đọc nh vậy. Nh÷ng ®iÒu cÇn lu ý Hồi ký là một thể loại văn học mà ngời viết trung thành ghi lại những gì đã diễn ra trong cuộc sống của mình, tôn träng sù thËt. §Æc ®iÓm cña håi ký lµ kh«ng thÓ h cÊu v× thÕ t¸c phÈm sÏ kh«ng hay, sÏ tÎ nh¹t nÕu nh÷ng g× diÔn ra trong cuộc đời của nhà văn không có gì đặc sắc. “Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng là một tập hồi ký ghi lại những gì đã diễn ra thời thơ ấu của chính nhà văn Nguyên Hồng. Ta có thể cảm nhận đợc tất cả những tình tiết, chi tiết trong câu chuyện đều rÊt thËt. Cã níc m¾t cña Nguyªn Hång thÊm qua tõng c©u ch÷. ở chơng IV của tác phẩm, Nguyên Hồng đã thể hiện rất thành công nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật. Cùng một lúc ở bé Hồng diễn ra những tình cảm rất trái ngợc nhau. Có sự nhất quán về tính cách và thái độ. Khi bà cô thể hiện nghệ thuật xúc xiểm và nói xấu về ngời mẹ của bé Hồng ở một mức độ cao mà một đứa bé bình thờng rất dễ dàng tin theo thì con ngời độc ác này đã thất bại. Bé Hồng không những không tin lời bà cô mà càng thơng mẹ hơn. Trong điều kiện lúc bấy giờ, một ngời phụ nữ cha đoạn tang chồng đã mang thai với ngời khác, là một điều tuyệt đối cấm kỵ. Ai còng cã thÓ xa l¸nh thËm chÝ phØ nhæ, khinh thêng. H¬n ai hÕt bÐ Hång hiÓu rÊt râ ®iÒu nµy. V× thÕ t×nh th¬ng cña bÐ Hồng đối với mẹ không chỉ là tình cảm của đứa con xa mẹ, thiếu vắng tình cảm của mẹ mà còn là thơng ngời mẹ bị xã hội coi thờng khinh rẻ. Bé Hồng lớn khôn hơn rất nhiều so với tuổi của mình. Điều đặc biệt là dù có suy nghĩ chín chắn, từng trải. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 nhng bé Hồng vẫn là một đứa trẻ, vẫn có sự ngây thơ. V× thÕ, lµm nªn søc hÊp dÉn cña t¸c phÈm, ®iÒu ®Çu tiªn ph¶i nãi tíi c¶m xóc ch©n thµnh: - Những tình tiết, chi tiết trong chơng IV của tác phẩm “Những ngày thơ ấu” diễn ra hết sức chân thật và cảm động. Có thể nói ở bé Hồng nỗi đau xót, niềm bất hạnh đợc đẩy lên đến đỉnh cao. Niềm khát khao đợc sống trong vòng tay yêu thơng của ngời mẹ cũng ở mức độ cao nhất không gì so sánh bằng. Cuối cùng thì hạnh phúc bất ngờ đến cũng vô cùng lớn, đợc diễn tả thật xúc động. Có thể biểu diễn những cung bậc của tình cảm của bé Hồng bằng sơ đồ nh sau: + Nçi bÊt h¹nh (cha chÕt, mÑ ph¶i ®i kiÕm ¨n ë n¬i xa, bÞ mäi ngêi khinh rÎ) + Nçi c¨m tøc nh÷ng cæ tôc, niÒm kh¸t khao gÆp mÑ + H¹nh phóc v« bê bÕn khi sèng trong vßng tay yªu th¬ng cña mÑ Ch÷ “t©m” vµ ch÷ “tµi” cña Nguyªn Hång: Nguyên Hồng là một cây bút nhân đạo thống thiết. ở chơng IV của tác phẩm, nhà văn không những thể hiện sâu sắc niềm đồng cảm với ngời mẹ Hồng mà còn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp cao quý của mẹ, khi mẹ lâm vào những tình cảnh nghiệt ngã nhất. Đằng sau câu chữ, ta đọc đợc tấm lòng trăn trở yêu thơng con ngời chân thành, thấm thía, đặc biệt là t×nh yªu th¬ng phô n÷ vµ trÎ em – nh÷ng ngêi vèn chÞu nhiÒu thiÖt thßi, ®au khæ nhÊt. CHỨNG MINH NGUYÊN HỒNG LÀ NHÀ VĂN CỦA PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM QUA ĐOẠN TRÍCH TRONG LÒNG MẸ Văn của Nguyên hồng giàu cảm xúc,ngọt ngào và nhuần nhị rất hợp với những kỉ niệm về mẹ và về tuổi thơ.Phải chăng vì lẽ đó mà có ý kiến đã cho rằng “Nguyên hồng là nhà văn của phụ nhữ và nhi đồng”.Lời nhận định khái quát gần trọn sự nghiệp sáng tác của Nguyên hồng và đặc biệt đúng ở đoạn trích Trong lòng mẹ. Nguyên hồng đến với phụ nữ và trẻ em không phải như là một sự ngẫu nhiên.Ngay từ hai tập sách đầu tay,tiểu thuyết Bỉ vỏ và hồi ký Những ngày thơ ấu,nhà văn đã dụng công viết về những gian truân của họ.Từng có lúc nếm trải cuộc sống cùng cực ở xóm Cấm,Hải Phòng,Nguyên hồng hiểu những nỗi đắng cay kia như chính cuộc đời mình.Có thể nói những trang hồi ký về “ngày thơ ấu”là những trang văn đậm sâu kỷ niệm về tình mẫu tử,ở đó,tác giả đã để cho tình thương yêu vượt lên bao định kiến hằn học mà tỏa sáng. Trong lòng mẹ là một đoạn trích ngắn gọn gồm ba nhân vật:hai người phụ nữ và một cậu bé trai.Ba nhân vật khác nhau về tính cách nhưng đều đã hiện lên sinh động và đầy ấn tượng dưới ngòi bút của Nguyên hồng.Đoạn trích chứng tỏ sự am hiểu sắc của nhà văn về phụ nữ và trẻ em.Đặc biệt là sự nắm bắt cá tính và tâm lý. Nhân vật người cô được nhà văn xây dựng qua đối thoại.Nhân vật không được đặc tả nhưng tính cách cứ lộ dần qua lời đối thoại.Đó là một hình mẫu điển hình cho sự tàn nhẫn và lòng đố kỵ.Sự nhỏ nhoi của người cô làm bé Hồng đau nhói.Những lời nói lạnh lùng mà quái ác của người cô như được chắt ra từ bao cảnh đời ngang trái mà Nguyên hồng đã gặp.Cái ác có nhiều loại nhưng sự tàn nhẫn giả dối và đố kỵ thì ở đâu chẳng có những nét mặt giống nhân vật của Nguyên hồng. Hiểu sâu sắc về nhân vật phản diện nhưng tác giả còn tỏ ra tinh tế hơn nhiều khi lật mở những vẻ đẹp của tình yêu thương trong tâm hồn non nớt của bé Hồng.Tình yêu mẹ của bé Hồng vượt qua tất cả những dèm pha nanh nọc của bà cô.Ở trong em,kỷ niệm về mẹ,hình ảnh của mẹ bao giờ cũng tươi đẹp và trong sáng vô cùng.Dù có những lúc boăn khoăn nhưng cậu bé Hồng vẫn kiên trì một suy nghĩ đầy yêu thương về mẹ.Thế mới biết Nguyên Hồng hiểu và rất hiểu tuổi thơ.Ở đó,có thể nói trong tất cả chúng ta,cái anh sáng chiếu rọi lung linh và duy nhất đó là sự hiền hòa,yêu thương của lòng mẹ.Với hình ảnh bé Hồng,nhà văn dường như đã làm cho tình mẫu tử trên thế gian này thiêng liêng và ý nghĩa hơn gấp nhiều lần. Nhân vật kiệm lời nhất nhưng lại để lại cho chúng ta nhiều day dứt nhất chính là mẹ bé Hồng.Một người phụ nữ hẳn phải hiền hậu vô cùng.Chỉ cần xem cái nhìn nhân vật đón bé Hồng,ôm trọn cái sinh linh bé nhỏ vào lòng mà ta cảm thấy cái tình mẫu tử sâu nặng và cao quý biết bao.Không thể diễn tả hiết nỗi đau của người mẹ khi phải xa con và cũng không thể diễn tả hết niềm hạnh phúc trong ngày gặp lại con,nhà văn để cho người mẹ đáng thương im lặng.Ngày gặp lại con không biết có bao nhiêu cảm giác trong lòng người mẹ đang được ngân lên:vui có,buồn có,lo lắng,tủi hờn cũng có.Vậy sự im lặng đã trở thành sự diễn đạt tình tế nhất. Viết về phụ nữ,nhi đồng,viết về những kỷ niệm tuổi thơ không khó nhưng viết cho hay thì không dễ chút nào.Văn của Nguyên Hồng có nguồn mạch tự nhiên về đề tài người phụ nữ,về tuổi thơ.Cái nguồn mạch ấy chính là sự chắt lọc từ lòng yêu thương của Nguyên Hồng,từ những kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ và sâu sắc về người mẹ kính yêu. Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ để làm nổi bật cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ gắn tình mẹ của nhà văn Nguyên Hồng Đề ra: Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ để làm nổi bật cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ gắn tình mẹ của nhà văn Nguyên Hồng. Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều kỳ diệu: nhiều khi là cánh diều chao giữa tầng không với muôn ngàn sắc màu rực rỡ; lắm lúc lại là cánh cò trắng chập chờn bay vào những giấc mơ; và thỉnh thoảng là chị Hằng Nga sống trên cung trăng bên chú Cuội… Nhưng hình ảnh ta đều bắt gặp trong mọi ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – quen thuộc và gần gũi nhất. Trong lòng mẹ trích Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là đoạn trích đã gây nhiều xúc động mạnh mẽ cho người đọc khi thể hiện gần như trọn vẹn những tình cảm sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 chất chứa trong từng câu chữ. Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” con người cùng sống chung với cuộc đời số phận của nhà văn – chứ không còn là nhân vật. Bởi lẽ Những ngày thơ ấu là một phần kỷ niệm được rứt ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ. Niềm khát khao ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy. Đoạn trích Trong lòng mẹ là câu chuyện chân thực và cảm động về một người mẹ đáng thương phải chạy trốn những hủ tục khắt khe của xã hội, những định kiến nghiệt ngã của người đời trói buộc, đọa đày người phụ nữ . Cũng như đó là một tâm hồn nhạy cảm , trong trắng, thơ ngây của một trái tim luôn tôn thờ người mẹ – bé Hồng. Hoà chung những giọt nước mắt nóng hổi của cậu bé là giọt nước mắt cảm thương trước những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ còn buốt nhói trong lòng người đọc để người đọc nhận ra : đó là một phần hình thành nên hồn văn nhân ái Nguyên Hồng. Sinh ra trong gia đình bất hạnh, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không có tình yêu, lại càng gánh bất hạnh nhiều hơn nữa. Một ông bố nghiện ngập rồi chết mòn chết rục bên bàn đèn thuốc phiện để lại cho người mẹ tất cả những cùng túng của gia đình, cuối cùng phải ly hương kiếm sống. Thế là chỉ còn một mình bé Hồng phải sống với gia đình họ nội, hứng chịu tất cả sự hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt, lắng nghe tất cả những gièm pha về người mẹ đi tha phương cầu thực. Trong những câu chuyện được thêu dệt bởi “bà cô bên chồng”, người mẹ luôn bị khinh khi, chửi mắng thậm tệ nhưng nào ai hiểu rằng nỗi khổ tâm lớn nhất là cảnh xa con? Chỉ mỗi bé Hồng hiểu mẹ và yêu mẹ hơn tất cả. Những dấu ấn thành kiến của xã hội cay nghiệt ghi đậm dấu ấn trong tâm hồn non nớt của bé Hồng, tạo nên những suy nghĩ già trước tuổi nhưng không thể nào xoá được những tình cảm kính yêu tôn thờ người mẹ. Số phận trớ trêu đã diễn ra ngay trong những mối quan hệ gia đình là nỗi bất hạnh của đứa trẻ không được sống trong vòng tay yêu thương chăm sóc của mẹ. Bé Hồng đặt ngay giữa ranh giới của thành kiến và tình thương. Nếu bà cô là hiện thân của một xã hội đầy cổ tục để phê phán, đem đến những định kiến cho chị dâu goá bụa trẻ trung thì bé Hồng lại hiện lên với tất cả tình thương, sự bao dung tha thứ. Thiếu sự nhân ái, độ lượng đã đành, bà cô lại càng ích kỷ nhẫn tâm hơn khi cố tình làm tổn thương tâm hồn thơ trẻ của chính đứa cháu ruột của mình bằng cáh “gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà bị cái tội goá chồng, nợ nần cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực”. Với bé Hồng, trong ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ , ấn tượng của giọng nói và nụ cười rất kịch là hình ảnh không thể xoá mờ. Ta nhận ra, đàng sau lời nói nhẹ nhàng thản nhiên như không kia là cả một “tâm xà” mù quáng và thù hận. Nhưng dù hàng ngày phải đối mặt với con người độc địa ấy, chú bé Hồng vẫn không “đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”. Chỉ một câu nói thôi nhưng chứa đựng một lời khẳng định chắc nịch cho một điều tưởng chừng thật giản dị, tình cảm mẹ con đã là một mối dây bền chặt mà không gì có thề chia cắt được. Mặc dù được sống trong một hoàn cảnh vật chất có phần sung sướng hơn những đứa trẻ lang thang không có mái nhà nhưng đối với bé Hồng có lẽ hoàn cảnh ấy lại càng đáng thương hơn. Vốn dĩ đã không nhận đuợc một chút tình thương từ họ hàng, ấy vậy mà tình thương dành cho mẹ lại đang bị người khác tước đoạt mất. Bé Hồng bị bao bọc bởi lòng ganh ghét đố kị, một cuộc sống căng thẳng vây lấy tâm hồn vì luôn phải chịu đựng áp lực từ chính người thân. Nỗi đau đó lại càng đau hơn gấp ngàn lần so với sự thiếu thốn về vật chất. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh như vậy, tình cảm bé Hồng đối với mẹ vẫn không hề mai một. Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện ấy đáng quí biết dường nào! Vẫn là một đứa trẻ vô tư, nhưng bé Hồng đã già trước tuổi khi biết căm tức thành kiến tàn ác, quyết tâm bảo vệ mẹ đến cùng, cố chống lại sự xạm nhập của những tư tưởng xấu xa. Nhưng trong những hành động ấy là cả một tâm hồn hiếu thảo có sự đứng đắn của người đàn ông thực thụ muốn che chở cho người mình yêu thương và cả sự dễ thương của tâm hồn thơ trẻ không muốn cho ai bắt nạt mẹ mình. Tuy vậy, dưới sự tra tấn về mặt tinh thần quá nặng nề, những lời nói độc ác vẫn tuôn ra không ngớt, sức chịu đựng của một đứa trẻ cũng chỉ có hạn mà thôi nên bà cô đã đạt được mục đích của mình khi xoáy sâu vào lòng đứa cháu trai những vết thương lòng. Giọt nước mắt tủi buồn “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ” là giọt nước mắt mang đầy mặc cả m thân phận của tâm hồn tinh tế, dễ tủi thân và giàu xúc động. Lời văn mô tả vào diễn biến tâm trạng bé Hồng một cách cụ thể từ một nụ cười tin tưởng thơ ngây cho đến cười dài trong tiếng khóc. Khoảnh khắc hứng chịu lời xỉa xói của bà cô thay cho mẹ đau đớn đến quặn lòng: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất, lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”. Giọt nước mắt nóng hổi trên gương mặt kia đã đánh động lòng trắc ẩn trong tâm tư người đọc. Rồi tiếng cười dài bật ra trong tiếng khóc nức nở đã vỡ bung những xúc cảm đè nén bấy lâu để sau đó lại “nghẹn ứ khóc không ra tiếng”. Đây là đỉnh cao trong tâm trạng, sự phẫn nộ lên đến tột bậc để hiện ra nguyên vẹn là tình cảm chân thực dành cho mẹ không hề giấu giếm. “Mợ ơi… mợ ơi… mợ ơi!”, tiếng gọi thống thiết của bé Hồng đã khuấy động cả không gian. Tiếng kêu vội vã, kéo dài mà mơ hồ có một sự sợ hãi đã diễn giải đầy đủ những khát khao trong tâm hồn đứa trẻ thiếu thốn tình thương. Thật xúc động biết bao trước giây phút lo lắng hồi hộp khi sợ nhận nhầm người mà mình gọi là “mợ”. Điều đó lại càng khẳng định cho niềm mong mỏi được gặp mẹ của bé Hồng. Bởi không phải những xúc cảm mãnh liệt thôi thúc thì tiếng nói cất lên sẽ rất e dè ,thận trọng, thậm chí không dám cất lên khi chưa chắc chắn. Nhưng dẫu cho có sự mơ hồ, tình mẫu tử thiêng liêng, nỗi nhớ nhung khắc khoải trong bao năm xa cách, tiếng gọi đã vang lên đến độ đã níu kéo được chân người, xé toạc không gian. Nhưng sự “ngờ ngợ” ấy đã không còn mơ hồ nữa, khi người thiếu phụ dừng xe lại và bé Hồng nhận ra đích thị là mẹ. Người mẹ trở về trong niềm vui, hân hoan và hạnh phúc của đứa con trai bé bỏng. Lần nữa, bé Hồng lại cất tiếng khóc khi được đón. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 nhận sự chở che, thương yêu, bảo bọc: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Nếu những lần trước là tiếng khóc kìm nén, những giõt nước mắt rưng rưng không tràn ra được thì giờ đây lại là những tiếng nức nở làm vơi đi nỗi uất ức, tủi cực trong lòng. Tiếng khóc vang vọng hơn không còn chất chứa nỗi niềm xót xa mà tràn trề niềm hạnh phúc. Giọt nước mắt hôm nay hoà chung giữa hai con người, là sự oà vỡ của cả hai tâm hồn mẹ – con làm nên tình mẫu tử. Hình ảnh người mẹ được diễn tả bằng những nét tươi tắn sinh động trong đôi mắt nhìn của đứa con, mẹ vẫn đẹp một cách lạ lùng. Vẻ đẹp ấy không cần rực rỡ mà nó chỉ giản dị và vô cùng thân thương. Bởi trong cái nhìn của bé Hồng bằng tất cả sự xúc động và tình thương vô bờ bến thì mẹ bao giờ chẳng là người đẹp nhất! Từ đó, gợi đến niềm ước mơ mà bất kỳ đứa con nào cũng khát khao khi đứng trước mẹ “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”Dường như ,đoạn văn đã ắp đầy những cảm xúc êm ái lan toả toàn bộ không gian và thời gian. Phút giây gặp gỡ ấy như ngưng đọng mãi niềm hạnh phúc trong trái tim nhân vật cũng như người đọc.Không giống như Mợ Du hay Huệ Chi trước lễ cưới kết thúc là một cái chết khiến người đọc đau đớn đến sửng sốt, mặc dù vẫn là những cảm xúc về mẹ nhưng ở đây lại là một kết cục có hậu như là sự bù đắp cho tâm hồn thánh thiện của người con hiếu thảo. Cảnh đời thực của những số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ vẫn còn bị ràng buộc bởi hủ tục phong kiến khắt khe đã được ghi lại đầy đủ đậm nét bằng những trang hồi ký nóng hổi niềm thương cảm của chính tác giả. Nhằm phản ánh một xã hội bất công, dồng thời lên tiếng bảo vệ cho con người bất hạnh, tác phẩm đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả. Gắn với tình cảm chân thành của nhà văn là sự chuyển tải nỗi xúc động trong từng câu chữ hình ảnh đã khắc hoạ sâu sắc giá trị tình cảm thiêng liêng trong gia đình: tình mẫu tử. Trong lòng mẹ cũng là tiêu biểu cho phong cách “văn nóng” của Nguyên Hồng. Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của bé Hồng đã không hề suy xuyển. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị Trong lòng mẹcũng như Những ngày thơ ấu sẽ mãi mãi trường tồn bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc đời nhiều cay cực. Tình mẫu tử trong "trong lòng mẹ" của Nguyên Hồng Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh. Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn - cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được. Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu.“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…” Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay” Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”. Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé. Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ - cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ không cần phải bình luận thêm nhiều . Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ để làm nổi bật cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ gắn tình mẹ của nhà văn Nguyên Hồng Đề ra: Phân tích đoạn trích Trong lòng mẹ để làm nổi bật cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ gắn tình mẹ của nhà văn Nguyên Hồng. Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều kỳ diệu: nhiều khi là cánh diều chao giữa tầng không với muôn ngàn sắc màu rực rỡ; lắm lúc lại là cánh cò trắng chập chờn bay vào những giấc mơ; và thỉnh thoảng là chị Hằng Nga sống trên cung trăng bên chú Cuội… Nhưng hình ảnh ta đều bắt gặp trong mọi ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – quen thuộc và gần gũi nhất. Trong lòng mẹ trích Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là đoạn trích đã gây nhiều xúc động mạnh mẽ cho người đọc khi thể hiện gần như trọn vẹn những tình cảm sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng chất chứa trong từng câu chữ. Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” con người cùng sống chung với cuộc đời số phận của nhà văn – chứ không còn là nhân vật. Bởi lẽ Những ngày thơ ấu là một phần kỷ niệm được rứt ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ. Niềm khát khao ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy. Đoạn trích Trong lòng mẹ là câu chuyện chân thực và cảm động về một người mẹ đáng thương phải chạy trốn những hủ tục khắt khe của xã hội, những định kiến nghiệt ngã của người đời trói buộc, đọa đày người phụ nữ . Cũng như đó là một tâm hồn nhạy cảm , trong trắng, thơ ngây của một trái tim luôn tôn thờ người mẹ – bé Hồng. Hoà chung những giọt nước mắt nóng hổi của cậu bé là giọt nước mắt cảm thương trước những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ còn buốt nhói trong lòng người đọc để người đọc nhận ra : đó là một phần hình thành nên hồn văn nhân ái Nguyên Hồng. Sinh ra trong gia đình bất hạnh, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không có tình yêu, lại càng gánh bất hạnh nhiều hơn nữa. Một ông bố nghiện ngập rồi chết mòn chết rục bên bàn đèn thuốc phiện để lại cho người mẹ tất cả những cùng túng của gia đình, cuối cùng phải ly hương kiếm sống. Thế là chỉ còn một mình bé Hồng phải sống với gia đình họ nội, hứng chịu tất cả sự hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt, lắng nghe tất cả những gièm pha về người mẹ đi tha phương cầu thực. Trong những câu chuyện được thêu dệt bởi “bà cô bên chồng”, người mẹ luôn bị khinh khi, chửi mắng thậm tệ nhưng nào ai hiểu rằng nỗi khổ tâm lớn nhất là cảnh xa con? Chỉ mỗi bé Hồng hiểu mẹ và yêu mẹ hơn tất cả. Những dấu ấn thành kiến của xã hội cay nghiệt ghi đậm dấu ấn trong tâm hồn non nớt của bé Hồng, tạo nên những suy nghĩ già trước tuổi nhưng không thể nào xoá được những tình cảm kính yêu tôn thờ người mẹ. Số phận trớ trêu đã diễn ra ngay trong những mối quan hệ gia đình là nỗi bất hạnh của đứa trẻ không được sống trong vòng tay yêu thương chăm sóc của mẹ. Bé Hồng đặt ngay giữa ranh giới của thành kiến và tình thương. Nếu bà cô là hiện thân của một xã hội đầy cổ tục để phê phán, đem đến những định kiến cho chị dâu goá bụa trẻ trung thì bé Hồng lại hiện lên với tất cả tình thương, sự bao dung tha thứ. Thiếu sự nhân ái, độ lượng đã đành, bà cô lại càng ích kỷ nhẫn tâm hơn khi cố tình làm tổn thương tâm hồn thơ trẻ của chính đứa cháu ruột của mình bằng cáh “gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà bị cái tội goá chồng, nợ nần cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực”. Với bé Hồng, trong ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ , ấn tượng của giọng nói và nụ cười rất kịch là hình ảnh không thể xoá mờ. Ta nhận ra, đàng sau lời nói nhẹ nhàng thản nhiên như không kia là cả một “tâm xà” mù quáng và thù hận. Nhưng dù hàng ngày phải đối mặt với con người độc địa ấy, chú bé Hồng vẫn không “đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”. Chỉ một câu nói thôi nhưng chứa đựng một lời khẳng định chắc nịch cho một điều tưởng chừng thật giản dị, tình cảm mẹ con đã là một mối dây bền chặt mà không gì có thề chia cắt được. Mặc dù được sống trong một hoàn cảnh vật chất có phần sung sướng hơn những đứa trẻ lang thang không có mái nhà nhưng đối với bé Hồng có lẽ hoàn cảnh ấy lại càng đáng thương hơn. Vốn dĩ đã không nhận đuợc một chút tình thương từ họ hàng, ấy vậy mà tình thương dành cho mẹ lại đang bị người khác tước đoạt mất. Bé Hồng bị bao bọc bởi lòng ganh ghét đố kị, một cuộc sống căng thẳng vây lấy tâm hồn vì luôn phải chịu đựng áp lực từ chính người thân. Nỗi đau đó lại càng đau hơn gấp ngàn lần so với sự thiếu thốn về vật chất. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh như vậy, tình cảm bé Hồng đối với mẹ vẫn không hề mai một. Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện ấy đáng quí biết dường nào! Vẫn là một đứa trẻ vô tư, nhưng bé Hồng đã. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 già trước tuổi khi biết căm tức thành kiến tàn ác, quyết tâm bảo vệ mẹ đến cùng, cố chống lại sự xạm nhập của những tư tưởng xấu xa. Nhưng trong những hành động ấy là cả một tâm hồn hiếu thảo có sự đứng đắn của người đàn ông thực thụ muốn che chở cho người mình yêu thương và cả sự dễ thương của tâm hồn thơ trẻ không muốn cho ai bắt nạt mẹ mình. Tuy vậy, dưới sự tra tấn về mặt tinh thần quá nặng nề, những lời nói độc ác vẫn tuôn ra không ngớt, sức chịu đựng của một đứa trẻ cũng chỉ có hạn mà thôi nên bà cô đã đạt được mục đích của mình khi xoáy sâu vào lòng đứa cháu trai những vết thương lòng. Giọt nước mắt tủi buồn “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ” là giọt nước mắt mang đầy mặc cả m thân phận của tâm hồn tinh tế, dễ tủi thân và giàu xúc động. Lời văn mô tả vào diễn biến tâm trạng bé Hồng một cách cụ thể từ một nụ cười tin tưởng thơ ngây cho đến cười dài trong tiếng khóc. Khoảnh khắc hứng chịu lời xỉa xói của bà cô thay cho mẹ đau đớn đến quặn lòng: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất, lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”. Giọt nước mắt nóng hổi trên gương mặt kia đã đánh động lòng trắc ẩn trong tâm tư người đọc. Rồi tiếng cười dài bật ra trong tiếng khóc nức nở đã vỡ bung những xúc cảm đè nén bấy lâu để sau đó lại “nghẹn ứ khóc không ra tiếng”. Đây là đỉnh cao trong tâm trạng, sự phẫn nộ lên đến tột bậc để hiện ra nguyên vẹn là tình cảm chân thực dành cho mẹ không hề giấu giếm. “Mợ ơi… mợ ơi… mợ ơi!”, tiếng gọi thống thiết của bé Hồng đã khuấy động cả không gian. Tiếng kêu vội vã, kéo dài mà mơ hồ có một sự sợ hãi đã diễn giải đầy đủ những khát khao trong tâm hồn đứa trẻ thiếu thốn tình thương. Thật xúc động biết bao trước giây phút lo lắng hồi hộp khi sợ nhận nhầm người mà mình gọi là “mợ”. Điều đó lại càng khẳng định cho niềm mong mỏi được gặp mẹ của bé Hồng. Bởi không phải những xúc cảm mãnh liệt thôi thúc thì tiếng nói cất lên sẽ rất e dè ,thận trọng, thậm chí không dám cất lên khi chưa chắc chắn. Nhưng dẫu cho có sự mơ hồ, tình mẫu tử thiêng liêng, nỗi nhớ nhung khắc khoải trong bao năm xa cách, tiếng gọi đã vang lên đến độ đã níu kéo được chân người, xé toạc không gian. Nhưng sự “ngờ ngợ” ấy đã không còn mơ hồ nữa, khi người thiếu phụ dừng xe lại và bé Hồng nhận ra đích thị là mẹ. Người mẹ trở về trong niềm vui, hân hoan và hạnh phúc của đứa con trai bé bỏng. Lần nữa, bé Hồng lại cất tiếng khóc khi được đón nhận sự chở che, thương yêu, bảo bọc: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Nếu những lần trước là tiếng khóc kìm nén, những giõt nước mắt rưng rưng không tràn ra được thì giờ đây lại là những tiếng nức nở làm vơi đi nỗi uất ức, tủi cực trong lòng. Tiếng khóc vang vọng hơn không còn chất chứa nỗi niềm xót xa mà tràn trề niềm hạnh phúc. Giọt nước mắt hôm nay hoà chung giữa hai con người, là sự oà vỡ của cả hai tâm hồn mẹ – con làm nên tình mẫu tử. Hình ảnh người mẹ được diễn tả bằng những nét tươi tắn sinh động trong đôi mắt nhìn của đứa con, mẹ vẫn đẹp một cách lạ lùng. Vẻ đẹp ấy không cần rực rỡ mà nó chỉ giản dị và vô cùng thân thương. Bởi trong cái nhìn của bé Hồng bằng tất cả sự xúc động và tình thương vô bờ bến thì mẹ bao giờ chẳng là người đẹp nhất! Từ đó, gợi đến niềm ước mơ mà bất kỳ đứa con nào cũng khát khao khi đứng trước mẹ “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng” Dường như ,đoạn văn đã ắp đầy những cảm xúc êm ái lan toả toàn bộ không gian và thời gian. Phút giây gặp gỡ ấy như ngưng đọng mãi niềm hạnh phúc trong trái tim nhân vật cũng như người đọc.Không giống như Mợ Du hay Huệ Chi trước lễ cưới kết thúc là một cái chết khiến người đọc đau đớn đến sửng sốt, mặc dù vẫn là những cảm xúc về mẹ nhưng ở đây lại là một kết cục có hậu như là sự bù đắp cho tâm hồn thánh thiện của người con hiếu thảo.Cảnh đời thực của những số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ vẫn còn bị ràng buộc bởi hủ tục phong kiến khắt khe đã được ghi lại đầy đủ đậm nét bằng những trang hồi ký nóng hổi niềm thương cảm của chính tác giả. Nhằm phản ánh một xã hội bất công, dồng thời lên tiếng bảo vệ cho con người bất hạnh, tác phẩm đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả. Gắn với tình cảm chân thành của nhà văn là sự chuyển tải nỗi xúc động trong từng câu chữ hình ảnh đã khắc hoạ sâu sắc giá trị tình cảm thiêng liêng trong gia đình: tình mẫu tử. Trong lòng mẹ cũng là tiêu biểu cho phong cách “văn nóng” của Nguyên Hồng. Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của bé Hồng đã không hề suy xuyển. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị Trong lòng mẹcũng như Những ngày thơ ấu sẽ mãi mãi trường tồn bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc đời nhiều cay cực. Tình mẫu tử trong "trong lòng mẹ" của Nguyên Hồng Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh. Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn - cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được.. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu.“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…” Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”. Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé. Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ - cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ không cần phải bình luận thêm nhiều . --------------------------------------------Bµi 4: Ngô Tất Tố và tiểu thuyết “Tắt đèn” A.Y£U CÇU: - Cñng cè, më réng vµ n©ng cao kiÕn thøc vÒ t¸c gi¶, t¸c phÈm - RÌn kü n¨ng x©y dùng ®o¹n v¨n b»ng phÐp diÔn dÞch, quy n¹p, song hµnh, tæng hîp B.NéI dung: 1.Kh¸i qu¸t vÒ t¸c gi¶ Ng« TÊt Tè: Lµ c©y bót xuÊt s¾c nhÊt cña dßng v¨n häc hiÖn thùc tríc c¸ch m¹ng vµ lµ mét trong nh÷ng t¸c gi¶ lín cã vÞ trÝ quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Chỉ với ba thập kỷ cầm bút, ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ, độc đáo bao gồm nhiều thể loại: Tiểu thuyết, phóng sự, truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật…và ở thể loại nào cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Suốt 6 thập kỷ qua, thân thế và văn nghiệp của Ngô Tất Tố đã thực sự thu hút đợc sự quan tâm, yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dậy văn học và đông đảo công chúng. Tham kh¶o “Ng« TÊt Tè vÒ t¸c gi¶ vµ t¸c phÈm”- NXBGD + Mét nhµ nho yªu níc, thøc thêi, mét c©y bót s¾c bÐn + Sức sống của một văn nghiệp lớn đa dạng: Nhà tiểu thuyết phóng sự đặc sắc, nhà văn của dân quê + Mét nhµ b¸o cã biÖt tµi 2. Giới thiệu khái quát về “Tắt đèn” - Tóm tắt tiểu thuyết “Tắt đèn” - Thể loại, nhan đề, giá trị nội dung và nghệ thuật: SGV trang 25, 26; Sổ tay văn học 8 trang 34,35 - Giới thiệu các ý kiến đánh giá về “Tắt đèn”, về nhân vật chị Dậu: Lời giới thiệu truyện “Tất đèn” – Nguyễn Tuân trang 213 +) Tắt đèn của Ngô Tất Tố- (Vũ Trọng Phụng) “Một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội …hoàn toàn phụng sự dân quê, một ¸ng v¨n cã thÓ gäi lµ kiÖt t¸c cha tõng thÊy” 3. Cñng cè, n©ng cao vÒ ®o¹n trÝch “Tøc níc vì bê”. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 - ý nghÜa cña c¸ch x©y dùng c¸c tuyÕn nh©n vËt - T¹i sao nãi ®©y lµ mét ®o¹n v¨n giµu kÞch tÝnh - Phân tích diễn biến tâm lý, hành động của chị Dậu 4. Luyện đề: Các dạng đề văn nghị luận, chứng minh phân tích nhân vật, đề văn sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. VÝ dô minh ho¹: Đề 1: Hãy chứng minh nhận xét của nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan”Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lÖ lµ mét ®o¹n tuyÖt khÐo” Đề 2: Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng với tác phẩm “Tắt đèn” , Ngô Tất Tố đã “xui ngời nông dân nổi loạn”. Em hiểu nh thế nào về nhận xét đó. Hãy chứng minh. Đề 3: “Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xa, hiện lên cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Bức chân dung ấy tuy cha đợc ánh sáng cách mạng soi rọi tới nhng dù sao tôi vẫn quý bức chân dung ấy”. Chứng minh qua “Tức nớc vỡ bờ” Đề 4: “Tôi nhớ nh đã có lần nào tôi đã gặp chị Dậu ở một đám đông phá kho thóc Nhật, ở một cuộc cớp chính quyền huyện kú tæng khëi nghÜa hay chÝ Ýt ®Ëy n¾p hÇm bem cho c¸n bé”. Em hiÓu ý kiÕn trªn nh thÕ nµo. B»ng sù hiÓu biÕt cña em vÒ ®o¹n trÝch “Tøc níc vì bê” em h·y lµm s¸ng tá ý kiÕn trªn. c. ph¬ng ph¸p: 1. Tµi liÖu tham kh¶o: - Tiểu thuyết “Tắt đèn” - Xem băng hình phim “Chị Dậu” (diễn viên Lê Vân đóng vai chị Dậu) - Các t liệu bàn về “Tắt đèn” (Từ trang 195 – 313 Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm) 2. Ph¬ng ph¸p: - RÌn kü n¨ng dùng ®o¹n, x©y dùng luËn ®iÓm trong v¨n nghÞ luËn - Kü n¨ng t¹o lËp v¨n b¶n tù sù, nghÞ luËn. §Ò: - H×nh ¶nh nh©n vËt chÞ DËu qua “Tøc níc vì bê” B¶n chÊt x· héi thùc d©n phong kiÕn qua “Tøc níc vì bê” Søc sèng vµ tinh thÇn ph¶n kh¸ng cña ngêi n«ng d©n tríc CM qua h×nh ¶nh chÞ DËu Ngßi bót hiÖn thùc cña Ng« TÊt Tè qua “Tøc níc vì bê”… PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM LÝ CHỊ DẬU QUA ĐOẠN TRÍCH TỨC NƯỚC VỠ BỜ Tắt đèn là một “đoản thiên tiểu thuyết” xuất sắc về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.Cùng viết về nỗi khổ cực của người nông dân nhưng Ngô Tất Tố lại chọn một lối đi riêng.Oâng muốn lột trần bộ mặt tàn ác của bọn thực dân thông qua chính sách thuế khóa hà khắc ở nông thôn.Tắt đèn sừng sững một tượng đài nông dân-chị Dậu.Đó là một con người quyết chống lại cường quyền gian ác để giữ lấy chính cuộc sống của mình.Đoạn trích Tức nước vỡ bờ chính là một lần chị phải đấu tranh như thế. Chị Dậu chạy đôn,chạy đáo bán bòn đủ thức mới đủ suất sưu cho chồn.Vất vả nhưng được tai qua nạn khỏi nghĩ cũng mừng.Vậy mà ngờ dâu suất của chồng vừa mới lo xong lại sinh thêm suất sưu của người chết.Thế là trăm dâu đổ đầu tằm,biết là oan ức mà chẳng thể nào giải được.Lo một suất sưu chị đã “khuynh gia bại sản” nay lại thêm suất nữa,chị Dậu bị đẩy đến đường cùng.Đoạn trích Tức nước vỡ bờ mở đầu bằng vài thở phào của chị.Anh Dậu sau khi bị đánh liên hồi kỳ trận được bọn chúng thả về.May thay bà láng giềng cho nắm gạo,thế là chị Dậu tất tả nấu cho chồng bát cháo mong cứu cho chồng ra khỏi cơn nguy khốn.Nhưng đáng thương thay,bát cháo vừa mới kịp đưa lên miệng thì bọn cai lệ ầm ầm xô tới với roi với thước.Trước sự hách dịch và hung ác,chị Dậu nhất nhất chỉ còn biết kêu oan “Hai ông làm phúc nói với ông lý cho cháu khất”.Nhưng cái câu nói ấy của chị Dậu có nghĩa gì đâu.Cai lệ trừng trợn trút một hai câu tai ngược “Mày định nói cho mày nghe đấy à?Sưu của Nhà nước mà dám mở mồm xin khất”. Đúng là “tức nước” sẽ đến “vỡ bờ”.Ở trong một hoàn cảnh khác,chị Dậu hẳn đã phải có vài câu đáp lại cái thói cư xử coi người như rác của bọn cai lệ nhà ông Lý.Nhưng chị Dậu vẫn kiên nhẫn van nài.Chỉ hẳn đã hiểu quá rõ cái thân phận hèn mọn của mình và lại càng hiểu hơn cái thói hung ác của bọn tay sai.Chị vẫn tha thiết “Khốn nạn!Nhà cháu đã không có,dẫu ông chửi mắng cũng thế thôi.Xin ông trông lại”.Rõ ràng là ở đấy,câu nói của chị Dậu đã cứng cỏi hơn,đã có những dấu hiệu “không chịu được”.Lời xin của chị Dậu tỏ vẻ bất cần và không còn ngại ngùng nể sợ hoàn toàn như trước nữa. Đến đây kịch tính của tình huống bắt đầu được đẩy lên cao.Cai lệ hầm hề “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ,thì ông sẽ dở cả nhà mày đi,chửi mắng thôi à?”.Câu nói vẫn đầy hách dịch của những kẻ bề trên quen coi người lao động là con trâu,con ngựa.Vừa nói hắn vừa lao sầm sầm vào anh Dậu.Thế là “chị Dậu xám mặt”,vội vàng chạy đến kêu xin.Chị vẫn năm ông mười ông mong khơi gợi một chút lòng thương hại từ tên cai lệ.Nhưng những lời khẩn khoản của chị ác thay lại được đáp lại bằng những hậu quả đấm chắc nịch từ tay cai lệ.Như lửa đã được đổ thêm dầu,chị Dậu “không thể chịu được”đành “liều cự lại”.Tâm lý chị Dậu rõ ràng đã có những biến đổi nhưng chưa phải là hành động hoàn toàn chủ động.Sự tàn ác của tên cai lệ đã đảy chị vào tình thế phải “liều mình”.Song kịch tính của đoạn trích thực sự được đẩy đến cao trào khi cai lệ mạnh tay “tát ngang vào mặt chị Dậu”.Tức nước vỡ bờ,người đàn bà lực điền nghiến hai hàm răng “Mày trói ngay chồng bà đi,bà cho mày xem”.Rồi chị túm cổ tên cai lệ ấn dúi ra phía cửa.Sức của anh chàng nghiện không chịu nổi một cái lẳng của người đàn bà.Đoạn văn là một sự thay thế “ngôi vị”.Từ lời xưng hô hèn mọn “cháu-ông”,chị Dậu bực mình đưa mình lên “bà” và hạ hắn xuống thành “mày”.Còn nữa,từ thế bị động chị Dậu đã không thể chịu được sự đè nén,quyết đứng ra bảo vệ chồng mình.. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Tức nước vỡ bờ miêu rả một quá trình tâm lý.Ngô Tất Tố đã tạo ra một tình huống giàu kịch tính để rồi cứ thế nhân vật chính va chạm với những tính cách khác từ đó bộc lộ phẩm chất của mình.Quá trình diễn biến tâm lý của chị Dậu diễn ra nhanh chóng nhưng tinh tế.Đặc biệt nó rất phù hợp với quy luật phát triển tính cách cũng như hoàn toàn phù hợp với phẩm chất con người nhân vật.Đó là một sự thể hiện có tính toán và rất sắc săor của nhà văn. Cuộc đời và tính cách người nông dân trong xã hội cũ qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện Lão Hạc Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã sinh ra những tác giả và tác phẩm để đời.Riêng mảng đề tài về người nông dân,chúng ta phải xếp lên nhóm đầu Lão Hạc của Nam Cao và Tắt đèn của Ngô Tất Tố.Hai tác phẩm tuy chỉ là những truyện ngắn nhưng sức khái quát của chúng không hề nhỏ.Đọc tác phẩm,người ta thấy cả không khí ngột ngạt mà người nông dân Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám phải chịu đựng.Và ở giữa cái guồng quay tàn nhẫn ấy,có những con người,những thân phận đang cố chới với thoát khỏi dòng đời một cách đầy tuyệt vọng. Với Tắt đèn và Lão hạc,cả Ngô Tất Tố và Nam Cao đều trở về với nông thôn.Nhưng nếu như người ta cứ tưởng nông thôn Việt Nam từ xưa đến nay yên bình sau những lũy tre lành thì hình ảnh cái vùng quê kiểu ấy biến mất hoàn toàn trên những trang văn của Ngô Tất Tố lẫn Nam Cao.Ở Tắt đèn và Lão Hạc,sau cái cổng làng đầy rêu mốc là một nông thôn dữ dội như một bãi chiến trường và kỳ thực ở đó người nông dân dù muốn hay không cũng đang bị biến thành những “chiến binh số phận”. Chỉ với mấy chục trang văn,hai tác giả đã cho bạn đọc một hình dung khá trọn vẹn về người nông dân Việt Nam trước Cách Mạng.Đó là những con người đang dần nghẹn thở vì sự bóc lột của thực dân và phong kiến theo mọi cách khác nhau.Cuộc sống của họ tủi nhục,đau buồn khiến họ lúc nào cũng có thể nghĩ cái chết có khi còn dễ chịu hơn nhiều. Ta hãy sống với cuộc đời của Lão Hạc.Một lão nông dân nghèo,chỉ cần nghe qua tiểu sử cũng đủ thấy bao điều bất hạnh.Vợ lão chết sớm để lại cho lão một cậu con trai với mấy sào vườn-thành quả bòn mót suốt cuộc đời của người đàn bà xấu số.Nhưng có vẻ như nhà lão Hạc còn khá khẩm hơn nhiều gia đình khacd.Mọi chuyện chỉ nảy sinh khi con lão đến tuổi lập gia đình.Nhà gái thách cưới cao,nhà lão thì nghèo quá.Kết quả là thằng con lão đành nhìn cô người yêu lấy chồng sang cửa giàu hơn.Nó quẫn chí,ngay mấy hôm sau xin đi đồn điền.Lão Hạc đau lòng lắm nhưng tất cả cũng vì nghèo nên đành ngậm đắng nuốt cay.Con lão bỏ đi lão con chó với mảnh vườn nhưng cái vườn của lão lúc nào cũng bị người ta dòm ngó đòi cướp mất.Lại thêm làng mất vê sợi,lão lại ốm đau luôn.Trăm cái bất hạnh,trăm cái lo lắng đổ xuống cái túi đang dần nhẵn thín của lão nông nghèo.lão không thể nào chống lại,lão đành chấp nhận “chết mòn” rồi “chết hẳn” trong đau đớn,xót xa.Một cái chết đầy bi kịch. Lão Hạc – bi kịch bảo tồn thiên lương 1.1-Xung đột bi kịch: Xung đột bi kịch trong “ Lão Hạc” là xung đột giữa ý thức bảo tồn thiên lương của lão Hạc với cái đói. Trong truyện nhà văn không trực tiếp tả cái đói như ông đã từng tả trong “Một bữa no” hoặc như Thạch Lam, Nguyễn Thị Vịnh từng làm nhưng cái đói dưới ngòi bút Nam Cao có một sức mạnh vô hình ghê gớm luôn rình chực bẻ gãy thiên lương, quật ngã con người. Hoàn cảnh khách quan của lão Hạc: Từ ngày đứa con đi phu “lão làm thuê để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về, lão cũng có được một trăm đồng bạc”. Sau trận ốm, số tiền chắt chiu bao nhiêu năm tháng của lão hết nhẵn, sức lực con người lão cũng cạn kiệt. Lại gặp cảnh khủng hoảng chung của làng xóm khi “ Làng mất vè sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào họ tranh nhau làm mất cả” ,“ Rồi lại bão. Hoa màu bị phá sạch sành sanh…Gạo cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo đói dắt”.Thiên lương là đức tính , phẩm chất tốt đẹp mà ông trời phú cho con người. Nó là cốt lõi trong đạo đức cá nhân mỗi người. Thông thường đạo đức cá nhân bao gồm hai loại quan hệ đạo đức: quan hệ đạo đức cá nhân với cộng đồng và quan hệ đạo đức cá nhân với chính bản thân mình. Loại quan hệ trước, mọi thiết chế xã hội đều ra sức cổ vũ, rèn cặp theo tư tưởng của giai cấp cầm quyền ( Vì trong xã hội có giai cấp thì tư tưởng thống trị là tư tưởng của giai cấp thống trị). Loại quan hệ thứ hai thể hiện nỗ lực của bản thân mỗi con người- cá nhân, nó được thể hiện qua những đức tính: tự lực, tự lập, tự tín, tự trọng , tự ái,..Ý thức về nhân cách chính là cơ sở triết học của loại đức tính này. Không có loại quan hệ thứ hai đủ mạnh , con người ta có thể giàu có, thành đạt , thành danh nhưng không thể có nhân cách đẹp. Những tấm gương nhân cách “vằng vặc như sao Khuê” trong lịch sử Việt Nam là một minh chứng. Họ hầu hết đâu có xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng đạo đức , nhân cách của họ, người bình dân vẫn mãi mãi tôn vinh, noi dấu. Lão Hạc- trong truyện ngắn cùng tên- bề ngoài có vẻ gàn dở, lẩm cẩm, thậm chí có lúc còn bị nghi là đánh bả chó nữa; thế nhưng, mặc cho cái vẻ bề ngoài có phần lẩn thẩn của nhân vật, Nam Cao đã “cố tìm mà hiểu” để nhìn thấu cái bề sau, bề sâu, bề xa, để thấy được bản chất nhất mực lương thiện, nhân hậu, tuyệt vời tự trọng và vị tha của lão. Có nghĩa lão Hạc là con người có ý thức sâu sắc về đạo đức cá nhân, kiên quyết giữ cho bằng được thiên lương lành sạch. Thiên lương của lão Hạc là ở chỗ lão “ luôn luôn tự xoá mình đi trong tương quan chồng vợ, cha con: mảnh vườn thì do vợ tậu, con chó thì của con mua. Lão không tự cho mình sở đắc một cái gì cả, và sự xoá mình có ý thức ấy là một đặc điểm quan trọng nhất quán trong tính cách lão Hạc để dẫn đến sự chọn lựa cuối cùng của đời lão. Một đức hi sinh lớn lao trong từng nếp nghĩ, đã thành lẽ sống ở đời” [13 ;282] 1.2- Đặc điểm của nhân vật bi kịch- lão Hạc: Truyện Lão Hạc thực chất là một cuộc đối thoại liên tục giữa các luồng suy nghĩ khác nhau: con chó của lão Hạc là quý hay hòm sách của một người “ nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận” như ông giáo- nhân vật người kể chuyện trong truyện- là quý? Ông lão là một người ki bo “ có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ”( theo cách nghĩ của vợ ông giáo) và là một con người “ làm bộ..chỉ tẩm ngẩm thế nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu” (theo suy luận của Binh Tư) hay là một. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 con người thiên lương mát trong như mạch suối nguồn ? Lão có lỗi vì “ già bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó” ( theo cách nghĩ của lão) hay là lão làm như vậy chẳng qua cũng là một cách hóa kiếp cho nó ( theo cách nghĩ của ông giáo)? Và có cả một câu hỏi còn bỏ lửng, xót xa nhưng chạm đến cái “sơn cùng thuỷ tận “ của kiếp người: Kiếp con chó là khổ hơn kiếp người như kiếp của lão chăng?Thế đấy , hành trình làm người của lão Hạc thật nhọc nhằn. Mở đầu truyện, từ điểm nhìn của nhân vật Tôi - ông giáo- người kể chuyện : “Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tôi đã thông điếu và bỏ thuốc rồi. Tôi mời lão hút trước…”, Nam Cao đã khéo léo dẫn dắt cuộc đối thoại ngầm giữa hai ý thức: ý thức của lão Hạc và ý thức của ông giáo. Lão Hạc phải dềnh dàng mãi mới nói ra cái dự định mà ông không hề muốn làm: “ Có lẽ tôi bán con chó đấy , ông giáo ạ!” . Nghe câu đó, ông giáo rất “ dửng dưng” vì biết “ Lão nói là nói để đó thế thôi; chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán thật đi nữa thì đã sao? Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ boăn khoăn quá thế! ”. Ông giáo mặc nhiên muốn bác lão Hạc: Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi…”. Tục ngữ Việt Nam vốn có câu : “ Nhà giàu cưng chó, nhà khó cưng con”. Có nghĩa là tuỳ theo đối tượng, tuỳ theo gia sự mà con người ta quan tâm đến cái gì. Nói như tục ngữ, không phải nhà giàu không cưng con , mà chỉ cưng chó thôi, sự thực thì nhà giàu họ thừa khả năng để cưng con, vấn đề là họ nhiều của nả nên cưng chó để chó giữ tài sản cho họ , mà cũng là cho con. Nhà nghèo chỉ có lưng vốn để đời là các đứa con, mà mai sau “ may ra ông trời cho khá vì “ không ai giàu ba họ , không ai khó ba đời”. Ông giáo quý mấy cuốn sách cũng là vì sách là kỉ vật về một thời đầy mơ ước. Chứ thực ra thì ông giáo khổ ấy thừa hiểu “ Sách vở ích gì cho buổi ấy”. Mặt khác vì - cũng theo cách nói của chính Nam Cao - khi một người bị đau chân thì chỉ nghĩ đến cái chân đau của mình , hơi sức đâu nghĩ đến cái đau của người khác. Nhưng rồi sau đó, đương nhiên, ông giáo cũng hiểu ra cái lí do khiến lão Hạc khổ tâm khi phải bán chó chính là vì lão thương thằng con , cốt nhục duy nhất của lão giờ trôi dạt không biết tận đẩu tận đâu, không khéo cả đời nó sẽ sa vào kiếp vong gia thất thổ. Do đó tuy mầm mống bi kịch của lão Hạc bắt đầu từ một tình yêu bất thành nhưng bi kịch nội tâm của lão Hạc thật sự khởi động khi lão có ý định bán “cậu vàng”, trong nỗi tuyệt vọng vì ngay cả cái tử tế cuối cùng, cái niềm hi vọng cuối cùng của lão lão cũng đánh mất “tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó” Làm cha , lão Hạc không lo nổi cho con trai cưới vợ, để cho con phải phẫn chí bỏ xứ ra đi làm phu đồn điền cao su cho Pháp trong niềm ám ảnh hãi hùng . Không có con bên cạnh, lão Hạc bầu bạn cùng con chó mà lão âu yếm gọi bằng Cậu Vàng, và gán ghép con trai mình là bố cậu vàng. Cậu Vàng như thế đã có tư cách của một đứa cháu! Nặng nề biết bao khi lão quyết dứt tình để bán cậu Vàng. Không bán cậu vàng, làm sao lão nuôi nổi nó mà không để nó bị ốm đói? Vì lão cũng đang đói dài ! Không bán cậu Vàng làm sao lão có đủ chút tiền để khi nhắm mắt xuôi tay mà không mấy “liên lụy đến hàng xóm láng giềng” ? Thế chẳng đặng đừng, lão phải bán chó, nhưng việc làm chẳng đặng đừng đó thật sự làm lão đau đớn. Hãy nghe lời ông giáo: “ Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước.(…) Mặt lão bỗng nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Chứng kiến cảnh đó, ông giáo cũng muốn “ ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc và … không xót xa năm quyển sách quá như trước nữa” vì cuộc đời là một sự bị tước đoạt dần dần những cái mình quý mình yêu. Ông giáo nói với lão Hạc như với người “ đồng bệnh tương liên”: “ Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?. Nhiều năm, lão Hạc gắng sống, hay lam hay làm , không phải lão ham hố mà vì đứa con trai duy nhất của lão. Lão Hạc cố giữ cái vườn cũng là vì con . Lão lòng tự nhủ lòng: “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu(… ) Của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Lớp trước nó đòi bán ta không cho, là ta có ý giữ cho nó chứ có phải giữ để ta ăn đâu. Nó không có tiền cưới vợ, phẫn chí bước ra đi, thì đến lúc có tiền để lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”.Lão Hạc , suốt bấy nhiêu năm đã làm đúng như tâm nguyện ấy . Nhưng một trận ốm thập tử nhất sinh đúng “ hai tháng mười tám ngày” ( cần chú ý đến cách tính rành rọt tỉ mỉ từng ngày này của lão, rất giống với Rôbinxơn Cruxô trênn đảo hoang;’ rất khác với dạng ‘ thời gian cũng quên ngày quên tháng” của Chí Phèo sau ngày ra tù hay của Mị từ ngày về làm vợ A Sử) đã vắt kiệt chút sức lực sau cùng của lão . Rồi thất nghiệp cả làng, rồi bão, hoa màu bị phá sạch sành sanh! Tâm nguyện của lão giờ đây phải đối diện với nguy cơ phá sản, lão phải đối diện với sự chết đói. Lão trăn trở không yên và bí mật sắp đặt một kế hoạch mới. Bước thứ nhất trong kế hoạch ấy là tìm người tâm phúc để uỷ thác. Lão tâm sự cùng ông giáo: “ lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào; con không có nhà; lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa bán chó là ba mươi đồng bạc (….) để lỡ có chết thì (…) gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả” Bước thứ hai, lão đơn thương độc mà dấn thân. Trao trọn ba mươi đồng cùng với văn tự giao vườn cho ông giáo - để giữ vườn lại cho con và khỏi liên lụy xóm làng vì hậu sự của mình- lão không còn một trinh một chữ. Lão chế tạo mọi thứ có thể để nhét và dạ dày quen lép kẹp của lão mà nào đâu có đủ cầm hơi. Miệng ăn núi lở kia mà ! Kết cục, lão đã chọn cái chết bằng bả chó đầy vật vã thương tâm để đi trọn hành trình làm người lương thiện. Lão Hạc hơn ai hết là một con người ham sống nhưng phải chọn cái chết để bảo tồn thiên lương. Sự ham sống của lão Hạc thể hiện qua nhiều chi tiết: đinh ninh thằng con lão sẽ về, lão cố nuôi cậu vàng để giết thịt làm cỗ cưới ; lão làm lụng nuôi thân , không phạm vào số tiền bòn vườn; ngày đói lão chế biến, vận dụng mọi cách để sống và luôn luôn hi vọng vào ngày sau. Nhưng sự thật giản dị ấy không phải ai cũng hiểu. Chứng kiến cái chết vật vã của lão Hạc, ông giáo xúc động như mới lần đầu phát hiện ra một tâm hồn cao cả, một nhân cách trong sáng ẩn chứa trong một con người bình thường. Cái chết của lão Hạc như một lời phủ chính đối với những ý kiến chưa thấu nhẽ đời, ngộ nhận , thiên lệch về lão. Trong đó có ý kiến của chính người vợ tảo tần, túng khó của ông giáo.. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Nhưng không thể trách bà ấy vì như ông giáo nhận xét “ Vợ tôi không ác nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có bao giờ quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?....”. Lại có cả ý kiến của Binh Tư, làm nghề ăn trộm, láng giềng của lão Hạc. Lão Hạc dễ dàng lừa binh Tư để xin bả chó và binh Tư dễ nhầm tưởng lão Hạc vì bí đường nên phải “ ngưu tầm ngưu” với hắn, người vốn lão Hạc không ưa. Có ngờ đâu!... Chúng ta cảm nhận cái chết của lão Hạc có chút gì đó giống với sự tuần tiết của một bậc trượng phu “ chết trong hơn sống đục”. Lão Hạc! Vâng , chính lão Hạc là một bức tượng đài - người -cha -cao -cả trong một môi trường mà sự sống bị dồn đến chân tường! Kết truyện người đọc được nâng cao mình lên bởi ý thức tự do của nhân vật, “tự do trong sự lựa chọn bi đát của mình. Đó là điều bí mật sau cùng mà Nam Cao tìm thấy ở người nông dân này” Đọc Lão Hạc chúng ta có thể liên tưởng đến Lão Gôriô ( Ban dăc) để nghĩ bi kịch làm cha. Nhưng cái chết của lão Gôriô vạch mặt chỉ tên cho ta thấy những con người mà ta cần phải căm ghét, phỉ nhổ. Trước hết là hai cô con gái quý và hai chàng rể thuộc giới thượng lưu của lão. Còn cái chết của lão Hạc thì không. Không có ai cụ thể để ta căm ghét, oán giận. Không phải là gia đình cô gái “ thách cưới nặng quá” năm nào, cũng không phải vợ ông giáo, cũng không phải Binh Tư. Nhân vật phản diện thực sự ở đây là chế độ thực dân – phát xít- phong kiến trong cơn giãy chết của nó. Truyện được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 484, ngày 23/10/1943. Chỉ hơn một năm sau thôi, trên toàn cõi Bắc Kì chế độ ấy sẽ đẩy hơn hai triệu người dân nghèo Việt Nam ta vào cảnh chết đói. Trong bài “Lep Tônxtôi, tấm gương phản chiếu cuộc cách mạng Nga”, Lênin đã khẳng định: “Nếu đứng trước chúng ta là một nghệ sĩ vĩ đại thực sự, thì ông ta phải phản ánh được trong tác phẩm của mình ít ra là vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng”. Nam Cao là một nghệ sĩ vĩ đại ngay từ thời tiền khởi nghĩa. 3- Về nghệ thuật: Qua Lão Hạc, Nam Cao đã chứng tỏ sức bùng nổ nghệ thuật của cái hằng ngày. Nam Cao “ viết về cái tầm thường mà làm sống dậy những ý nghĩa không thể xem thường” [13 ;276] qua chân dung lão Hạc. Nhân vật hiện ra tự nhiên như tác giả chẳng hề gia công, sắp đặt gì thế nhưng nhìn sâu vào đó ta thấy lão Hạc hiện lên qua một chùm tương quan vi diệu. Mỗi tương quan như một luồng sáng hội tụ để làm bật lên một nhân cách. Lão được miêu tả song song với ông giáo để đối sánh, làm bật lên cái tâm lí nông dân bên cạnh cái tâm lí trí thức-xuất thân từ nông dân. Trong tương quan với binh Tư để tạo ra sự đối chọi giữa chết-lương thiện với sống- lưu manh. Tương quan với vợ ông giáo để nổi bật một sự phân lập khác: Một người dù khổ thế nào cũng không suy suyển lòng nhân hậu , vị tha; người kia vì quá khổ đã sinh ra vị kỉ. Hai tương quan lớn nhất quyết định chân dung lão Hạc là tương quan lão với đứa con trai biệt xứ mà lão nóng ruột mong về và tương quan với “cậu vàng” mà lão đành ‘ phụ rẫy”. Lí luận cho rằng, phát hiện tính cách nhân vật thì quan trọng nhất là đặt nhân vật trong mối tương quan với các nhân vật khác. Ở đây lão Hạc là một ví dụ tiêu biểu. Ta thấy ở Lão Hạc, nhân vật được chiếu rọi từ nhiều điểm nhìn, góc nhìn trần thuật khác nhau: Cái nhìn của ông giáo ( nhân vật người trần thuật) với ý thức đi tìm “cái bản tính tốt của người bị nỗi buồn đau ích kỉ che lấp mất”, cái nhìn của bà giáo, cái nhìn của Binh Tư, và cả cái nhìn bên trong của chính lão Hạc.. Chính nhờ cách dựng truyện từ những quan điểm khác nhau ấy- khi thì phủ nhận nhau, khi thì điều chỉnh, bổ sung, đào sâu thêm - đã làm hiện rõ hơn bao giờ hết một lão Hạc bề ngoài tưởng như gàn dở, lẩm cẩm, thậm chí còn có khi còn bị nghi là “ đạo đức giả” nhưng kỳ thực là một người nông dân nhất mực lương thiện, một nhân cách đáng trọng, một người tử vì đạo- đạo làm người. Điểm khác biệt của Lão Hạc so với Chí Phèo, Đời thừa là ở chỗ nhân vật xưng tôi – người dẫn chuyện. Loại nhân vật này cùng lúc đóng hai vai trò: vai trò người dẫn chuyện đang đối thoại với độc giả và vai trò của một người tham dự vào những biến cố của câu chuyện, đối thoại trực tiếp với các nhân vật, sẽ góp phần gây ấn tượng về một câu chuyện như thật. Ở đây nhân vật người kể chuyện đã đóng vai trò nối liền tác giả - nhân vật và độc giả. Khoảng cách giữa nhân vật và người đọc được rút ngắn lại, hầu như bằng không. Tác giả , nhân vật, và người đọc hầu như bình đẳng. Đó là dấu hiệu của một thi pháp tự sự hiện đại. Tính đa giọng điệu bắt nguồn từ kết cấu này. Vì đã là “ tôi”thì phải là một cái “tôi” cụ thể, có số phận , tâm tư, nỗi niềm…đang tham dự, chứng kiến, chia sẻ, đối thoại với các nhân vật trong truyện, khi thì hoà nhập hẳn vào các nhân vật, các biến cố đầy bất ngờ , không hề được biết trước. Kết cấu nhân vật như vậy giúp việc khai thác mâu thuẫn bi kịch “ chuyển vào bên trong” của nhân vật lão Hạc càng có sức ám ảnh hơn. Tấn bi kịch của lão Hạc đến bây giờ vẫn còn khả năng đối thoại về tình thương, nhân cách, lẽ sống với chúng ta nhiều lắm . Lão Hạc thể hiện sâu sắc tài năng của Nam Cao trong nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm của nhân vật, có khả năng lay động sâu xa, đánh thức mạnh mẽ sự đồng cảm của người đọc. Viết như thế là do sự lão luyện của nghề văn hay do tư tưởng nhân đạo sâu sắc của người cầm bút? Có lẽ là cả hai! ------------- -------------------------Trong các nhà văn hiện thực Việt Nam .Nam Cao là một trong những cây bút sáng giá đã để lại cho đời những tác phẩm xuất sắc sống mãi với thời gian ,với bạn đọc .Những nhân vật của ông như đang hiện diện trước mắt chúng ta những cuộc sống gian truân, trắc trở , éo le .Với nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của ông đã bộc lộ rõ điều đó.Tác phẩm này được coi là một trong những truyện ngắn mang đậm giá trị hiện thực xuất sắc trong trào lưu hiện thực phê phán của thời kì 1930-1945.Trước xã hộ suy tàn đó nổi bật lên là hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của một con người đôn hậu ,giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con. Điều đầu tiên phải nói đến đó là tấm lòng đôn hậu , rất mực yêu thương con của Lão Hạc .Vợ chết sớm một mình sống trong cảnh ngộ gà trống nuôi con. Khi con đến tuổi trưởng thành ,vì nhà nghèo nên làm lỡ mất duyên con khiến lão ân hận và cảm thấy mình có lỗi. Vì thế ,con trai lão phẫn uất đi đồn điền cao su , để lại một mình lão thui thủi ở nhà một mình với cậu Vàng - như cách gọi của lão .Nó là một hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con trai độc nhất .Hơn thế nữa ,cậu Vàng còn là niềm an ủi của một lão già cô đơn không nơi nương tựa.Lão cho cậu ăn trong bát sứ,chia sẻ thức ăn chăm sóc trò. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 chuyện với cậu như một người bạn tâm giao.Bởi thế ,cái ý định "có lẽ tôi bán con chó đấy" của lão Hạc bao lần chần chừ không thực hiện nhưng rồi cuối cùng cậu Vàng cũng được bán đi với giá năm đồng bạc. Cậu Vàng bán đi ! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất của đời lão.Năm đồng bạc Đông Dương kể ra cũng là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo, đói dắt như thế này. Nhưng lão Hạc bán cậu Vàng không phải vì tiền, bởi "gạo thì cứ kém mãi đi", " mà mỗi ngày lo ba hào gạo" thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng nhưng bán cậu rồi, lão Hạc lại đau khổ, dày vò chính mình trong tâm trạng năng trĩu . Khoảnh khắc " lão cố làm ra vẻ vui vẻ" cũng không giấu được với khuôn mặt " cười như mếu và đôi mắt lão ầng ầng nước". Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đ ắc dĩ, khiến ông Giáo là người báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. Ông Giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận cứ đeo đuổi, giày vò lão Hạc tạo nên sự đột biến trên khuôn mặt " mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại với nhau , ép cho ra nước mắt. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão huhu khóc".Bản chất của một con người lương thiện, tính chất của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, nghĩa tình, trung thực và giàu lòng vị tha đã được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn này. Lão Hạc chỉ vì bán một con chó mà tự oán trách mình đau khổ đến thế. Liệu Binh Tư ,vợ ông Giáo và bao người khác nữa, họ có hiểu không, hay họ chỉ thấy Lão gàn dở, ngu ngốc.Ta cảm thương số phận của lão, ta cảm phục trước đức hi sinh và lòng nhân hậu của lão - một con người cao đẹp. Trong cuộc sống đói khổ, cùng cực ấy của lão Hạc phải ăn củ chuối, củ ráy ... ông Giáo đã mời lão Hạc ăn khoai, uống nước chè nhưng lão xin khất "ông Giáo để cho khi khác". Vì trận ốm kéo dài, lão Hạc đã suy sụp hẳn, lão không đủ sức để làm và cũng chẳng có gì để ăn nhưng lòng tự trọng của lão không cho phép mình xâm phạm đến số tiền của con. Từ lúc đó , lão Hạc bắt đầu cuộc lựa chọn tàn khốc nhưng rồi lão đã chọn cái chết.Trước khi chết lão đã nhờ ông Giáo giữ tiền làm ma và trông hộ mảnh vườn để đỡ làm phiền hàng xóm.Tám lòng của lão thật trong sáng lỡ may khi lão chết ông Giáo sẽ lấy mảnh vườn đó thì sẽ sao? Laõ không nghĩ đến điều đó, lão luôn nghĩ mọi người đều tốt cả . Nói đến lòng tự trọng thì có lẽ đó cũng là một điều đáng quý ,lòng tự trọng của lão Hạc đẹp biết bao ,lão từ chối sự giúp đỡ của mọi người kể cả ông Giáo nữa.Kết cục của lão đã được báo trước .Lão đã trải qua những chua chát , tủi cực của một kiếp người , khi phải đối mặt với hiện thực nghiệt ngã đó là phải đứt ruột tiễn đưa người con trai ra khỏi vòng tay của lão , cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi cậu Vàng. Suy cho cùng việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha yêu thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc , tương lai của con sau này . Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông Giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu nó cũng là những lời trăng trối cuối cùng của lão Hạc .Tuy cái chết đã được báo trước nhưng mọi người cũng vẫn bất ngờ , thương cảm cho lão Cái chết của lão thật giữ dội , lão chết " vật vã ở trên giường , đầu tóc rũ rượi ...; khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái nảy lên" Lão Hạc tượng trưng cho người nông dân bước tới đ ường cùng, không còn lối thoát đành phải tìm đến cái chết - cái chết đó cũng không thanh thảnh như bao người. Nếu lão Hạc muốn đứng vững trên bờ lương thiện thì cái chết là giải pháp cuối cùng để lão khỏi ngã quỵ giữa vực sâu của sự tha hoá . Kết thúc bi kịch cũng là sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão .Cái đẹp và cái xấu xa bao giờ cũng là cánh tay của một thân thể .Không vì cánh tay trái xấu xa mà đem tay phải chặt đứt cánh tay trái đi thì chính thân thể này sẽ đau đớn chứ không phải là cánh tay trái . Cũng như nhân vật Chí Phèo ở làng Vũ Đại trong tác phẩm " Chí Phèo" Nam Cao đã dựng lên hình ảnh của những người thuộc tầng lớp thấp cùng của xã hội phong kiến , họ có đ ời sống bần cùng nhưng lại có phẩm chất cao đẹp .Lão Hạc thương con đứt ruột nhưng lại bất lực khi thấy con ra đi "thẻ của nó người ta giữ ,hình của nó người ta đã chụp rồi .Nó lại đã lấy tiền của người ta rồi nó là của người ta chứ đâu còn là con tôi nữa".T ừng lời nói của lão Hạc là những tiếng nấc nghẹn ngào bật ra từ con tim , từ tận đáy lòng của người cha dường như không còn chút uất ức , cam chịu . Lòng tự trọng của lão đã bị vắt kiệt , xoá sạch nỗi cao ngạo đối với một con chó và đầy ắp nỗi cưu mang đối với giá trị nhân phẩm của niềm luân lí Á Đông . Thời gian cứ thế trôi qua ,nhưng hình ảnh người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám vẫn luôn thắm đượm trong mỗi ch úng ta những hình ảnh về một Lão Hạc với bao phẩm chất tốt đẹp ............. Văn bản Lão Hạc và Tức nước vỡ bờ Qua đoạn trích tức nước vỡ bờ (trích tắt đèn của Ngô Tất Tố ) và truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao ta thấy hiện lên một bức tranh về những người nông dân sống trong trong xã hội thưc dân nửa phong kiến . Họ là những con người lao động nghèo khổ , bị đẩy vào con đường bế tắc nhưng vẫn ngời sáng lên những phẩm chất tốt đẹp. Trước hết , hai tác phẩm đã tái hiện cho người đọc cho thấy tình cảnh nghèo khổ , bắc tế của người nông dân bần cùng trong xã hội một cổ hai tròng áp bức . Chị Dậu nghèo thuộc hàng cùng đinh nhất nhì trong làng . gia cảnh đã nghèo lại phải đóng sưu cho cả người em trai đã chết từ năm ngoái khiến cho gia cảnh đã nghèo lại càng nhèo hơn . cái xã hội ấy đâu còn nhân tính , chỉ biết dồn con người vào chỗ chết , vào đường cùng chỉ biết bóc lột họ đến chết vẫn không tha .Còn lão Hạc cũng có hơn gì chị Dậu . sau đợt ốm số tiền dành dụm của Lão cũng tiêu hết làng mất mùa nên cả củ chuối , rau má sung luộc ... kiếm được gì , Lão ăn nấy . lão không muốn tiêu vào tiền của con . Và đến lúc , lão không còn đủ khả năng để nuôi nổi mình nữa , lão đành phải bán chó . cuộc sống của người nông dân nghèo trong xã hội lúc bấy giờ thật bế tắc . Để kiếm được miếng ăn nuôi sống mình qua ngày đâu có gì dễ dàng gì ,cuộc sống tuy nghèo khổ là thế nhưng vẻ đẹp tâm hồn của họ luôn ngời sáng . họ điều là những con người hết lòng tận tụy hi sinh vì người thân . chị dậu là mọt người phụ nữ hiền hậu nhưng hết mực thương chồng , thương con . khi anh dậu dở chết dở sống được khiêng về nhà , chị hết sức chăm lo cho chồng . chị nhẹ nhàng bưng bát cháo đến bên chồng , động viên chồng "thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ sót ruột". trước tấm lòng của người vợ ,anh dậu cũng cố gắng ngồi dậy . nhưng lính đã rầm rầm xông vào , lo sợ , chị dậu đã ra sức van nài mong. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 chúng để cho chồng chị ăn hết bát cháo . chị đã cúi mình xin chúng , ra sức giãi bày cho chúng hiểu , mong chúng động lòng thương . chị đã xưng cháu . chị đã tự hạ mình để nâng chúng lên . nhưng mặc chị van xin chúng vẫn quyết trói anh dậu , chị dã đứng lên ngang hàng với chúng khi xưng tôi -ông . và cuối cùng chị đã đe dọa , thách thức chúng :"mày trói chồng bà đi bà cho mày xem 'chị đã nâng mình lên đứng trên chúng .chị đã lấy đâu ra sức mạnh đó ?đó chính là lòng yêu thương chồng ,chị sẵn sàng đối đầu với bọn tay sai nhà ông Lý -đại diện cho bộ máy chính quyền . lúc này trong chị chỉ còn quyết tâm bảo vệ chồng đang thôi thúc ,nó tạo thành sức mạnh ,tiếp thêm cho chị lòng dũng cảm để chị đánh ngã cả hai tên tay sai .còn lão hạc lại là lòng thương con , hết lòng vì con . lão yêu thương cậu vàng như đứa con của mình vì cậu vàng chính là kỉ vật của đứa con trai trước khi bỏ nhà đi đồn điền cao su . lão vẫn luôn day dứt khi không lo đủ được tiền cưới vợ cho con . và trong lòng người cha già vẫn luôn mong có ngày người con trai trở về ,lão cố gắng dành dụm tiền cho con lão giữ cho con mảnh vườn . tóm lại cả hai tác phẩm điều làm bật lên hình ảnh người nông dân Việt Nam tuy nghèo khổ nhưng luôn giữ cho tâm hồn mình trong sáng . nếu như chị dậu có sức mạnh phản kháng dám đứng lên chống lại cường quyền để bảo vệ chồng thì lão hạc lại là người nông dân đôn hậu giàu lòng tự trọng -hai con người , hai nhân cách để đáng chúng ta khâm phục. ------------------------------------------------, TB: *Ld 1: Giải thích về giai cấp nông dân:Một giai cấp trong XH, sống bằng nghề nông.... *Luận d 2: Người nông dân trong xã hội cũ ( thời xưa) - Hầu hết đều là những con ng` chất phác, hiền lành, gắn bó với nghiệp trồng lúa. - Cuộc sống nghèo nàn, khó khăn. - Thường chịu nhiều bi kịch khi xã hội phong kiến có biến chuyển. Khi đó, một số cam chịu số phận, một số là nòng cốt trong các phong trào đấu tranh. *Ld3: Ng` ND ngày nay ( phải nói qua về giai đoạn chuyển biến Cách Mạng) - Cuộc sống dần được cải thiện nhờ phương tiên KT, XH ổn định... - Chịu tác động mạnh mẽ của Công Nghiệp hoá Ng` nông dân chịu ảnh hưởng từ lối sống mới, tốt( tiến bộ, ko lạc hậu...), xấu ( tha hoá đạo đức, mất nét đẹp VH, môi trường nông thôn, một bộ phận muốn kiếm sống ở TP, để lại gánh nặng gia đình...) - Nhiều năm gần đây, nhiều nông dân mới đã có thành tích trong công cuộc đổi mới, góp phần xây dựng hình ảnh đất nước, Tuy nhiên một số khác bảo thủ. không muốn thay đổi, còn nhiều hủ tục... *Ld4: Ng` nông dân ngay` nay cần làm gì: - Tiến bộ, sáng tạo, cải tiến, hội nhập.... -Bài trừ thói lạc hậu, tệ nạn XH -Gìn giữ nét VH tốt đẹp. - Nhà Nước, Chính phủ, Địa phương cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích ... để GC NDân là một bộ phận ko thể thiếu giúp đất nc đi lên... 3, KB... Trên đây là dàn ý chung chung thôi, còn các bạn có thể phát triển thêm các ý khác sáng tạo hơn để bàn luận, đưa thêm các dẫn chứng Văn học -----------------------------------------------------Cảm nghĩ về nhân vật lão Hạc và ông giáo trong Lão Hạc của Nam Cao "Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời lương thiện. Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc. Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo “ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình trong tâm trạng nặng trĩu. Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão.Ông giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”.Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này.Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người – kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ đâu cũng là những lời trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ. Xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật tôi là người bạn, là chỗ dựa tinh thần của lão Hạc. Những suy nghĩ của nhân vật này giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người lão Hạc. Nhân vật lão Hạc đẹp, cao quý thực sự thông qua nhân vật tôi. Cái hay của tác phẩm này chính là ở chỗ tác giả cố tình đánh lừa để ngay cả một người thân thiết, gần gũi với lão Hạc như ông giáo vẫn có lúc hiểu lầm về lão. Sự thật nhân vật tôi cố hiểu, cố dõi theo mới hiểu hết con người Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bã chó, ông giáo ngỡ ngàng, chột dạ: “Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có cái ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày lại thêm đáng buồn”.Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm. Nó đánh lừa chuyển ý nghĩ tốt đẹp của ông giáo và người đọc sang một hướng khác: Một con người giàu lòng tự trọng, nhân hậu như lão Hạc cuối cùng cũng bị cái ăn làm cho tha hoá, biến chất sao? Nếu Lão Hạc như thế thì niềm tin về cuộc đời về ông giáo sẽ sụp đổ, vỡ tan như chồng ly thủy tinh vụn nát. Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn dữ dội vì ăn bã chó của lão Hạc, ông giáo mới vỡ oà ra: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Đến đây truyện đi đến hồi mở nút, để cho tâm tư chất chứa của ông giáo tuôn trào theo dòng mạch suy nghĩ chân thành, sâu sắc về lão Hạc và người nông dân... “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dỡ, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa bỉ ổi ... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”. Có lẽ đây là triết lý sống xen lẫn cảm xúc xót xa của Nam Cao. Ở đời cần phải có một trái tim biết rung động, chia xẻ, biết yêu thương, bao bọc người khác, cần phải nhìn những người xung quanh mình một cách đầy đủ, phải biết nhìn bằng đôi mắt của tình thương. Với Nam Cao con người chỉ xứng đáng với danh hiệu con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương. Muốn làm được điều này con người cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ cụ thể của người khác để hiểu đúng, thông cảm thực sự cho họ. Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện cho nên ta có cảm giác đây là câu chuyện thật ngoài đời đang ùa vào trang sách. Thông qua nhân vật tôi, Nam Cao đã thể hiện hết Con người bên trong của mình. Đau đớn, xót xa nhưng không bi lụy mà vẫn tin ở con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, túng quẫn của bản thân nhưng lại khóc cho tình người, tình đời. Ta khó phân biệt được đâu là giọt nước mắt của lão Hạc, đâu là giọt nước mắt của ông giáo: Khi rân rân, khi ầng ực nước, khi khóc thầm, khi vỡ oà nức nỡ. Thậm chí nước mắt còn ẩn chứa trong cả nụ cười: Cười đưa đà, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu ... Việc tác giả hoá thân vào nhân vật tôi làm cho cách kể linh hoạt, lời kể chuyển dịch trong mọi góc không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và tả, hồi tưởng với bộc lộ cảm xúc trữ tình và triết lý sâu sắc... Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời, bi kịch của đời thường đã trở thành bi kịch vĩnh cửa. Con người với những gì cao cả, thấp hèn đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi tác giả đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong con lũ cuộc đời sẵn sàng xoá bỏ mạng sống và đạo đức. Cho nên chúng ta nên đặt nhân vật tôi ở một vị trí tương xứng hơn khi tìm hiểu tác phẩm. TẮT ĐÈN I. Hoàn cảnh sáng tác Ngô Tất Tố viết Tắt đèn năm 1937, vào năm này lụt lội xảy ra liên miên gây nên mất mùa đói kém, nhân dân lâm vào cảnh lầm than, bế tắc đặc biệt là người nông dân. Vì vậy, vấn đề nông dân đấu tranh chống lại chính sách sưu thuế, áp bức bốc lột của bọn thực dân, quan lại, địa chủ, cường hào, đòi cải thiện đời sống cho người dân cày là một vấn đề lớn, trọng tâm của cách mạng. Đó là một đề tài lớn, phổ biến của văn học, nơi để lại những thành tựu nghệ thuật sáng giá trong văn nghiệp của những nhà văn tên tuổi: Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…tuy vậy, không một cây bút nào đề cập đến vấn đề nông dân một cách thiết tha, tập trung như Ngô Tất Tố. Lòng yêu nước, thương dân, tình cảm gắn bó với số phận người nông dân lao động vốn như một nội lực của ngòi bút Ngô Tất Tố.. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 II. Tóm tắt tác phẩm Mở đầu tác phẩm là không khí căng thẳng, ngột ngạt của làng Đông Xá trong những ngày sưu thuế. Cổng làng đóng lại, công việc cày bừa đình đốn, bọn Lý trưởng, trương tuần chửi bới, quát tháo om sòm; mấy tên cai lệ, lính cơ tay thước, roi song, dây thừng đi tróc nã những người thiếu thuế. Tiếng trống, mõ, tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc thảm thiết vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại "nhất nhì trong hạng cùng đinh" nên chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Bọn nhà giàu chẳng những không cho chồng chị vay mượn mà còn nhiếc móc, đe doạ. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp. Chị đành phải rứt ruột đem bán cái Tí, đứa con gái đầu lòng bảy tuổi cho lão Nghị Quế bên thôn Đoài. Vợ chồng lão giàu có mà keo kiệt, tàn ác, đã lợi dụng tình cảnh khốn cùng của chị, mua cái Tí và cả một ổ chó mà chỉ trả hai đồng bạc! Cộng với mấy hào bán gánh khoai, chị tưởng vừa đủ nộp suất sưu và chồng sẽ được tha về; ngờ đâu, bọn lý dịch lại bắt chị phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật là cùng đường. Giữa đình làng, tiếng kêu uất ức của chị vang lên thảm thiết. Đêm hôm ấy, người ta cõng anh Dậu rũ rượi như một xác chết ở ngoài đình về trả cho chị. Gọi mãi anh không tỉnh, chị vô cùng hoảng sợ, đau đớn. May sao, nhờ bà con xung quanh xúm đến cứu giúp, anh Dậu đã tỉnh lại. Một bà lão hàng xóm ái ngại cảnh nhà chị nhịn đói suốt từ hôm qua, mang đến cho chị bát gạo để nấu cháo. Sáng sớm hôm sau khi anh Dậu vừa cố ngồi dậy cầm bát cháo, chưa kịp đưa lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ lý trưởng lại xộc vào định trói anh mang đi. Van xin thiết tha cũng không được, chị Dậu đã liều mạng chống lại quyết liệt, đánh ngã cả hai tên tay sai vô lại. Chị bị bắt lên huyện. Lão quan phủ Tư Ân lợi dụng tình cảnh của chị, cho chị tiền và giở trò bỉ ổi. Chị đã kiên quyết cự tuyệt, giằng nắm bạc ném vào mặt hắn và du hắn ngã kềnh. Cuối cùng, để có tiền nộp thuế cho chồng, chị đành gửi con, nhận lời lên tỉnh đi ở vú. Chủ của chị là một quan phủ già, dâm đãng, trong một đêm "tắt đèn" đã mò vào buồng chị…Chị Dậu gạt mạnh bàn tay của lão, vùng chạy ra ngoài sân, giữa lúc trời tối đen như mực "tối như cái tiền đồ của chị"… III. Bình luận tác phẩm “Tắt đèn” Trước Cách Mạng tháng Tám, thuế má là tai họa khủng khiếp nhất đối với người nông dân. Xoáy sâu vào thuế thânmột thứ thuế vô nhân đạo trong chính sách thuế khóa dã man của chế độ thuộc địa, tắt đèn đã phơi bày đến tận cùng bản chất bóc lột xấu xa, bẩn thỉu của chế độ thực dân nữa phong kiến Việt Nam.Tắt đèn từ từ mở ra tấn bi kịch căng thẳng, ngột ngạt ngay từ phút đầu: nông thôn trong những ngày đóng thuế. Làng Đông Xá dường như bị phong tỏa, bị đặt trong tình trạng “báo động”. Từ mờ sáng, cổng làng đã bị đóng kín, nội bất xuất, ngoại bất nhập và suốt trong năm ngày liền “mõ thét đánh” rùng rợn. Ngô Tất Tố đã đặt các nhân vật của mình vào một hoàn cảnh điển hình, một không khí ngột ngạt, oi bức, nông dân trong làng cứ như “kiến bò trong chảo lửa” , chạy phía nào cũng bị bao vây bởi bọn thống trị bóc lột. Trong hoàn cảnh điển hình như thế, những mâu thuẩn cơ bản của xã hội, những tính cách của các nhân vật sẽ có điều kiện bột lộ một cách toàn vẹn. Tắt đèn tập trung tố cáo chính sách thuế khóa nặng nề - vốn là một tai họa khủng khiếp nhất đối với người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt là thuế thân – một thứ thuế bất nhân. Tắt đèn làm nổi bật mâu thuẩn giai cấp gay gắt trong lòng nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Tác phẩm tố cáo, lên án gay gắt bản chất tàn ác, xấu xa của bọn thống trị: bọn địa chủ độc ác (vợ chồng nghị quế) keo kiệt; bọn cường hào gian tham, thô lỗ; bọn quan lại dâm ô (quan phủ Tư Ân), bỉ ổi; bọn lính tráng, tay sai đầu trâu mặt ngựa tàn ác. Tất cả hùa nhau lại cấu kết với thực dân, thi nhau hà hiếp, bóp đàu, bóp cổ, đẩy người nông dân khốn khổ đến bước đường cùng. Mặt khác Tắt đèn còn phơi bày thực trạng cùng quẫn, thê thảm của người nông dân lao động. đồng thời khẳng định phẩm giá tốt đẹp, tình cảm nhân hậu, dùm bọc của họ. 1. Bao trùm toàn bộ tác phẩm là lời tố cáo xã hội một cách sâu sắc. Tất cả cũng chỉ bởi cái nạn sưu cao thuế nặng. Bởi nó mà những người nông dân Việt Nam nói chung, cũng như gia đình chị Dậu nói riêng lâm vào cảnh bước đường cùng. Đồng thời cũng cái nạn ấy chính là đối tượng mà tác giả hướng đến, là công cụ đắc lực cho bọn cường hào trực tiếp và gián tiếp lộng hành. Mỗi lần sưu thuế là mỗi lần bọn quan lại, cường hào sâu mọt tìm cách đục khoét, hà hiếp, đánh đập. Những cảnh ấy diễn ra hàng ngày và ở mọi nơi. “ Không còn gì hết, đứa nào mà trái ý, đánh luôn”. Thứ thuế vô nhân đạo, đó là nguyên nhân trực tiếp đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Người nông dân bị đánh đập tàn bạo, bóp chẹt từng xu, từng hào. Đây lại chính là cơ hội cho bọn tay sai, tha hồ đánh đập, cường hào tha hồ đục khoét. Càng đục khoét, càng đào sâu thì càng mở đường thuận lợi cho bọn địa chủ (Nghị Quế), “Lên mặt” tha hồ giở các trò, các thủ đoạn cho vay nặng lãi. Qua đó, mà làm nổi lên bộ mặt của bọn địa chủ gian ác, góp phần cho lời lên án tố cáo cả một bộ máy thống trị ở nông thôn lúc bấy giờ: quan lại, nghị viên, địa chủ, cường hào gian ác dâm dục. Nghị Quế nhân vật điển hình cho địa chủ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Là tên địa chủ dốt nát, bủn xỉn, luôn chờ cơ hội đục nước thả câu. Lời lẽ thì đay nghiến, độc ác, xem mạng người dân không bằng con chó: “Tôi mướn nó để nó coi nhà. Nuôi chó còn hơn là nuôi đứa ở”. Ngoài giai cấp địa chủ, tay sai đắc lực, bức tranh xã hội Viêt Nam trước Cách mạng sẽ thiếu hoàn thiện nếu không nhắc đến những quan phụ mẫu có bộ râu “đen như hắc ín, cong như lưỡi liềm, dưới thì vành khăn xếp nhiễu tay, mặt thì phèn phẹt, luôn hầm hầm như sắp đánh rơi xuống sông cái huỵch”. Với không biết bao nhiêu thủ đoạn ti tiện, hách dịch, cái triết lý sống “quan chỉ vớ thằng có tóc, ai vớ chi thằng trọc đầu”. Nhưng cái lối vừa đánh vừa xoa ấy của các quan lại ai còn lạ gì. Bộ mặt quan lại thực dân cùng những cái râu ria, tổng lý, cai lệ của nó, chúng đều là thứ rắn hổ mang, rắn cạp nong có hai đầu và đầu nào cũng đốt chết người cả. Tội cái của chúng bành ra khắp nơi từ làng – xã, khắp thôn thậm chí trong từng căn buồng của từng ngôi nhà tranh lụp xụp.. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 Lý trưởng, cường hào, địa chủ, quan phụ mẫu hành hạ bóc lột thân xác người nông dân chưa hết họ còn róc thịt sống, đánh dập xác người chết. Chưa dừng lại ở đó, lời tố cáo sâu sắc, cái roi thép của tác giả còn một lần nữa quất mạnh vào bọn tri phủ (Tư Ân) thứ quan già bợm gái thừa cơ đục nước béo cò. Cảnh chị Dậu xô xát với lão tri phủ Tư Ân ấy tại phòng riêng của hắn. Bức tranh hiện thực xã hội như sinh động thêm khi sự áp bức bóc lột thống trị của quan lại, đại chủ, cường hào lên đến đỉnh điểm. Sự chịu đựng của người nông dân khi không còn sức để chịu, họ nổi dậy chống đối một cách quyết liệt bằng cách phá tung cái tồi tàn áp bức để kiếm tiền một con đường sống. Cụ cố “năm nay cụ gần 80 tuổi, cái tuổi mà trời bắt cả hai hàm răng không còn cái nào, để cho bao nhiêu cao lương mỹ vị đều không có hân hạnh được vào cái mồm móm mép của cụ”, tuy vậy bản tính không thể thay đổi. Cuốn tiểu thuyết “tắt đèn” thật sự thành công khi giá trị hiện thực của nó đạt đến đỉnh ao là lời phê phán một xã hội đen tối trước Cách mạng. Là lời mạt sát lên án một cách sâu cay chế độ thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Qua đó mà giá trị nhân đạo được biểu hiện cụ thể, tăng thêm phần lớn sự thành công của “Tắt đèn”. tấm lòng cảm thông trước những cảnh đời éo le, sự tiếc thương cho những kiếp người bị dồn vào bước đường cùng của lề xã hội. Đến đây có thể khẳng định ngòi bút của Ngô Tất Tố chính là một ngọn roi sắt quất thẳng vào bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị và xã hội đương thời trước Cách mạng. 2. Phơi bày thực trạng cùng quẫn của người nông dân Trong tác phẩm “tắt đèn” ngoài tố cáo tội ác của bọn quan lại thực dân phong kiến thì Ngô Tất Tố còn miêu tả cuộc sống cùng quẫn của người nông dân Việt Nam lúc bấy giờ. Mỗi lân sưu thuế, là mỗi lần bọn quan lại tìm mọi cách đục khoét, hà hiếp, là mỗi lần người nôn g dân lại lâm vào cảnh cùng quẫn hơn. Mở đầu tác phẩm, Ngô Tất Tố miêu tả cảnh những người nông dân làng Đông Xá bị phong tỏa không cho ra đồng. Lý do được đưa ra là do quan trên chưa thu đủ thuế thân. Mặc cho sự van xin năn nỉ, chúng vẫn không mở cổng làng. Qua nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố đã miêu tả sâu sắc tình cảnh khốn khổ của những người nông dân. Chị Dậu là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chung thủy, giàu lòng hi sinh. Nhưng chị phải một mình lo việc đóng góp, chi tiêu cho một gia đình 5 miệng ăn, phải lo suất sưu cho chồng, cho cả người em chồng đã chết năm ngoái. Để có tiền, người đàn bà nghèo khổ phải sạc người đi, phải bán cả con, cả chó. nhưng cũng không thể giúp anh Dậu ra khỏi cảnh tù tội. Đọc “tắt đèn” ta không khỏi bồi hồi xúc động trước tiếng khóc xé ruột của chị Dậu hòa lẫn với tiếng van lơn tha thiết của cái Tí. Cũng như những người bần cố nông chị Dậu phải bán con, bỏ làng đi ở vú cho lão quan phủ 80 tuổi. Nhưng chị lại gặp một lão già mất nết, nửa đêm còn mò vào phòng chị giở trò. Có nhiều người đàn bà khác rơi vào tình cảnh quẫn bách như chị Dậu có khi đành chịu buông tay khuất phục, nhắm mắt trước cuộc đời trôi theo số mệnh. Nhưng người đàn bà nông dân này cứ lăn xả vào bóng tối, tìm cách phá tung để tìm đường sống. Hành động quyết liệt đó là một hành động đấu tranh tự phát đơn độc chưa có ý thức, chưa có phương hướng. Hình ảnh “trời tối đen như mực như cái tiền đồ của chị” cuối tác phẩm cũng nói lên được vần đề giải phóng con người nông dân. những người nông dân bần cùng đang tự tìm tòi từng bước đi cho mình, những bước đi chưa có một tia sáng hi vọng. Qua hình ảnh, cuộc sống của những người nông dân ở làng Đông Xá, Ngô Tất Tố đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của ông. 3.Tắt đèn đồng thời khẳng định phẩm giá tốt đẹp, tình cảm nhân hậu, biết đùm bọc chở che của người nông dân trong cảnh khốn cùng. Về phẩm giá, đó là một trong những giá trị đặc sắc của tiểu thuyết mà tác giả đã xây dựng được ở đó, chị Dậu là điển hình cho sự chân thật, khỏe khoắn với những phẩm chất tốt đẹp. Khi anh Dậu bị bọn tay chân cai lý đánh, chị đã hạ mình van xin, nài nỉ. để cứu chồng chị phải đợ con, bán chó, làm được như vậy chị Dậu ray rứt từng khúc ruột. Chị sẵn sàng vùng dậy đánh nhau với người nhà lý trưởng để đỡ đòn cho chồng. Người đàn bà mà Ngô Tất Tố gọi là “chị chàng nhà quê” ấy đã không ngần ngại làm tất cả để bảo vệ cài gia đình khốn khổ của chị. Với cá tính mạnh mẽ, lúc cứng lúc mềm. Ở con người ấy đã hội tụ đần đủ bản chất của người phụ nữ đôn hậu, đảm đang và thủy chung. Chị đã phản kháng quyết liệt khi bị quan phủ Tư Ân giở trò mèo mỡ. Chị dùng hết sức mình để phản kháng với sự bức bách cao độ. Đến khi đi ở vú, chị bị ông cụ 80 lợi dụng, chị đã vùng dậy chạy thoát trong giữa trời “tối đen như mực” với sự sợ hãi và ghê rợn. Bên cạnh sự “cạn tàu ráo máng” của bọn quan lại và tay sai thì vẫn còn có những trái tim nhân hậu, biết đùm bọc chở che cho nhau. Hình ảnh bà lão, người đàn bà luôn đứng ra giúp đỡ gia đình chị Dậu, chị đã nói: “đó là ân nhân số một trong cuộc đời mình”. Ở đây tác giả cũng muốn nói với người đọc trong cái khổ đau ta vẫn tìm thấy hạnh phúc dù cho nó có ít ỏi đi chăng nữa. Tình người quan tâm đến nhau trong cuộc sống lam lũ khó khăn là điều quý giá nhất. 4. Đọc “Tắt đèn” ta thấy được hai vấn đề mà Ngô Tất Tố muốn gửi gắm trong tác phẩm. Thứ nhất, Tắt đèn là một bản tố cáo những cái xấu xa trong xã hội lúc bấy giờ. Thứ hai, qua tác phẩm ta còn thấy được tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Tiểu thuyết Tắt đèn không tả cảnh nông thôn bị cướp đoạt ruộng đất, bị bót lột tài sản. tắt đèn chỉ tập trung tố cáo cái thứ thuế của bọn thực dân đánh vào đầu người hàng năm, đẩy những người nông dân vào cảnh bần cùng phải bán con bỏ làng đi kiếm sống, ăn mày rồi chết đường chết chợ. Mỗi lần tới kì thuế là bọn quan lại tìm mọi cách dục khoét, dánh đạp nông dân để họ phải chạy vạy bán đồ đạc, ruộng đất để có tiền nộp thuế. Thừa lúc đó, thì bọn địa chủ nghị viện dùng mọi thủ ddaonj. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Tài liệu bồi dưỡng H.S.G môn ngữ văn 8 để chu vay cắt cổ hoặc mau rẻ đồ đạc, ruộng đất của nông dân. Ngô Tất Tố đã tố cáo hình thức bót lột bằng sưu thuế hết sức dã man cảu bọn thực dân, ông tố cáo chế độ thực dân vô nhân đạo và đòi hủy bỏ chế độ ccho vay nặng lãi của chế đọ phong kiến. “Tắt đèn” đã vạch trần sự bưng bít che giấu của giai cấp thống trị về cuộc sống khốn khổ, bần cùng ở nông thôn. Tắt đèn còn lên án một bộ máy thống trị ở nông thôn: quan lại, nghị viên, địa chủ, tàn nhẫn vô nhân đạo. chúng chỉ chờ cơ hội đẻ đục khoét, cướp đoạt của cải của nhân dân. Từ những tố cáo của Ngô tất Tố, ta thấy sự mâu thuẩn giai cấp đã đến độ gay gắt và vấn đè được đặt ra chính là phải nhanh chóng giải quyết đời sống nhân dân và muốn giải phóng nhân dân thì không có con đường nào khác là đánh đổ chế độ thực dân, đánh đổ bọn quan lại, địa chủ. Trong Tắt đèn chân dung của bọn thống trị xấu xa chính là cái nền làm nổi bật hình tượng tốt đẹp của ngươi nông dân. Từ đó, ta sẽ thấy được vấn đề thứ hai trong tác phẩm đó là tinh thần nhân đạo sâu sắc của Ngô Tất Tố. ông đã xây dựng được hình tượng ngưòi nông dân rất sinh động, đẹp đẽ. Từ chị Dậu đến chồng chị và những người khác. Nhưng tiêu biểu nhất là chị Dậu, đây là người phụ nữ đảm đang, chung thủy, giàu lòng hi sinh, hiền lành nhưng lúc cần thiết vẫn cương quyết đấu tranh với kẻ thù, đây là hình ảnh rất thật về người phụ nữ nông thôn Việt Nam thời Pháp thuộc. Đối với nhân vật này, Ngô Tất Tố có một tình thương sâu sắc. Trong cả hai lần suýt bị làm nhục, Ngô Tất Tố đều cố tình bảo vệ nhân vật của mình. Ông bảo vệ chị Dậu một phần vì thái đọ nhân hậu và sự đồng cảm của ông với sự khốn khổ của người nông dân, phần khác vì việc chị Dậu bị làm nhục sẽ làm giảm đi rất nhiều vẻ đẹp lý tưởng của nhân vật này trong tác phẩm. Một điểm mới khi Ngô Tất Tố xây dựng nhân vật chị Dậu đó là vị trí của người phụ nữ trong xã hội. Trứơc đó, văn học chỉ đặt vấn đề giải phóng phụ nữ khỏi những ràng buộc lễ giáo phong kiến. Còn Ngô Tất Tố đã cho thấy người phụ nữ còn có sức mạn để chiến đấu với kẻ thù, họ có thể vùng lên khi cần thiết. Từ đây, ta thấy một vấn đề được đặt ra là việc giải phóng phụ nữ chỉ có thể được thực hiện khi đại đa số quần chúng nhân dân và nông dân lao động đã được giải phóng. Có giải phóng được giai cấp thì phụ nữ mới được giải phóng. IV. Đặc sắc về nghệ thuật Trong Tắt đèn của NTT lại chỉ chứa đựng thời gian rất ngắn và không gian rất hẹp. Một sự dồn nén cao độ về không gian và thời gian; các biến cố, sự kiện bị dồn nén , hết sức căng thẳng. Nếu không kể những trang cuối cùng chị dậu lên tỉnh ở vú thì toàn bộ biến cố, sự kiện của tiểu thuyết tắt đèn chỉ diễn ra trong bốn ngày, bốn đêm trong bốn không gian nhỏ bé. Chỉ trong mấy mấy ngày mà liên tiếp xảy ra biết bao sự kiện, biến cố, tạo nên một nhịp điệu trần thuật nhanh, gấp gáp. Đúng là nhịp điệu căng thẳng dồn dập của nông dân trong mùa sưu thuế. Trong không gian và thời gian nghệ thuật được dồn nén cao độ này, NTT đã tập trung phản ánh sâu sắc mâu thuẩn, xung đột gay gắt trong lòng nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám. Có thể xem làng Đông Xá trong mùa sưu thuế là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn lúc bấy giờ và tình cảnh của Chị Dậu là tình cảnh chung của người nông dân cùng khổ trong xã hội cũ. V. Tổng kết Tóm lại, Tắt đèn là một bản tố khổ chân thực sâu sắc, chan hòa nước mắt và lòng căm phẩn của hàng triệu nông dân nghèo bị bóc lột. Giá trị của Tắt đèn không chỉ là tiểu thuyết hiện thực phê phán tố cáo xã hội mà Tắt đèn còn thấm thía tinh thần nhân đạo sâu sắc của Ngô Tất Tố. Ông đã nhìn thấy sự khốn cùng của nhân dân, ông đồng cảm và thương xót cho họ. điều này được thể hiện một cách rõ nét qua tình cảm ông dành cho nhân vật chi Dậu trong tác phẩm. “Tắt đèn” đã trở thành một tác phẩm không chỉ có tính nhân đạo sâu sắc trong dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách Mạng tháng Tám mà “Tắt đèn” còn chính là cái mà tác giả muốn thay lời của nhân dân để kêu lên những tiếng kêu thống thiết là luac bấy giờ vẫn chưa có ai đứng ra giúp họ. Họ vẫn chưa tìm ra ánh sáng trong cái đêm “trời tối đen như mực ây”. Phân tích nhân vật Lão Hạc Trong các nhà văn hiện thực Việt Nam .Nam Cao là một trong những cây bút sáng giá đã để lại cho đời những tác phẩm xuất sắc sống mãi với thời gian ,với bạn đọc .Những nhân vật của ông như đang hiện diện trước mắt chúng ta những cuộc sống gian truân, trắc trở , éo le .Với nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của ông đã bộc lộ rõ điều đó.Tác phẩm này được coi là một trong những truyện ngắn mang đậm giá trị hiện thực xuất sắc trong trào lưu hiện thực phê phán của thời kì 1930-1945.Trước xã hộ suy tàn đó nổi bật lên là hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của một con người đôn hậu ,giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con. Điều đầu tiên phải nói đến đó là tấm lòng đôn hậu , rất mực yêu thương con của Lão Hạc .Vợ chết sớm một mình sống trong cảnh ngộ gà trống nuôi con. Khi con đến tuổi trưởng thành ,vì nhà nghèo nên làm lỡ mất duyên con khiến lão ân hận và cảm thấy mình có lỗi. Vì thế ,con trai lão phẫn uất đi đồn điền cao su , để lại một mình lão thui thủi ở nhà một mình với cậu Vàng - như cách gọi của lão .Nó là một hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con trai độc nhất .Hơn thế nữa ,cậu Vàng còn là niềm an ủi của một lão già cô đơn không nơi nương tựa.Lão cho cậu ăn trong bát sứ,chia sẻ thức ăn chăm sóc trò chuyện với cậu như một người bạn tâm giao.Bởi thế ,cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão Hạc bao lần chần chừ không thực hiện nhưng rồi cuối cùng cậu Vàng cũng được bán đi với giá năm đồng bạc. Cậu Vàng bán đi ! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất của đời lão.Năm đồng bạc Đông Dương kể ra cũng là một món tiền to, nhất là giữa buổi đói deo, đói dắt như thế này. Nhưng lão Hạc bán cậu Vàng không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi. GV : VŨ NGỌC QUANG. 11 Lop8.net. T.H.C.S HOÀNG HOA THÁM.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×