Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.73 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

--------/--------

-----/-----

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ VĂN CƯỜNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HẢI AN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2018


Luận văn được hồn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

Phản biện 1:

PGS.TS.Vũ Trọng Hách

Phản biện 2:

TS.Nguyễn Đức Cường

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn,
Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp D. Nhà A. Học viện Hành chính Quốc gia
Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
Thời gian: vào hồi 9h45 ngày 12 tháng 11 năm 2018

Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web của Ban Quản lý Đào tạo Sau đại học,
Học viện Hành chính Quốc gia

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường, giải
phóng mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều trường hợp,
người dân do khơng đồng tình với phương án bồi thường của Nhà nước đã
không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi cơng cơng trình, ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực đến môi

trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi thường, người
bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người và khiếu kiện
vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an tồn xã hội v.v... Để khắc phục
tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung các quy
định về bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, hiệu quả của những giải pháp này chưa
được như mong muốn; nhiều quy định mới được ban hành dường như chưa phù
hợp với thực tiễn. Các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ gay
gắt, phức tạp về nội dung.
So với các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hải Phịng thì quận Hải An
có vị trí chiến lược quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của
Thành phố. Đặc biệt, kể từ năm 2003 quận Hải An chính thức được thành lập,
sau gần 15 năm đến nay quận đã và đang trên đà phát triển để trở thành khu
trung tâm kinh tế lớn mạnh của thành phố Hải Phòng. Hiện nay trên địa bàn
Quận Hải An có 49 dự án lớn nhỏ đang được triển khai đồng loạt, với nhu cầu
sử dụng đất hiện tại là 120 ha. Đồng nghĩa với đó là số người dân, chủ yếu là các
hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất cho các dự án lên đến hơn 9000 hộ.
Thực tế đó cho thấy, Quận Hải An, thành phố Hải Phịng cũng đã và đang phải
đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện việc bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Việc nghiên cứu các quy định pháp luật để thấy được nhu cầu của việc thu
hồi đất cũng như những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật khi thu
hồi, bồi thường mà những điều đó đã và đang trở thành rào cản, trở ngại trong
thực tiễn áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng.
Trong bối cảnh đó, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài: "Thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An - Thành phố Hải Phịng" để nghiên cứu
trong chương trình tốt nghiệp Thạc sĩ chun ngành Luật Hiến pháp và luật hành
chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định quan trọng
của pháp luật đất đai. Liên quan tới việc nghiên cứu đề tài luận văn đã có một số
cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn và
được thể hiện ở những góc độ nhất định.
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý
giá để tác giả Luận văn kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về vấn đề “bồi thường, hỗ
trợ khi thu hồi đất” trên các bình diện: cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật
1


và trong thực tiễn thi hành. Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu kể trên đã tiếp
cận từ nhiều góc độ khác nhau để phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật
Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phịng.
Do đó, đề tài khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và quy
định của pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Thực trạng thực
hiện quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa
bàn quận Hải An, thành phố Hải Phịng; nghiên cứu đưa ra các giải pháp hồn
thiện pháp luật và tổ chức thực hiện đảm bảo hài hồ lợi ích của chủ thể thu hồi
đất và người bị thu hồi đất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn
đề chủ yếu sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ và khi nhà nước thu hồi đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các quy định của Pháp luật
Việt Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực trạng thực hiện các
quy định này trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Tập trung nghiên cứu vào việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
- Phạm vi thời gian: từ 2013 đến năm 2018
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu
thập chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân quận Hải An và các cơ quan
liên ngành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Nguồn thông tin này
được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Đồng thời, tơi cũng thông qua các quyết định, báo cáo, ý kiến
chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, các cơ quan liên ngành, Ban
2


chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố, Uỷ ban nhân dân quận Hải An và thơng
qua các cơng trình, bài viết, tạp chí, internet…để lấy thơng tin, số liệu liên quan

đến pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất tại địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phịng từ khi Luật Đất
đai năm 2013 có hiệu lực đến nay.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp này được được sử dụng
để tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất, cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng. Phương pháp
này còn được sử dụng để có được các nhận xét, đánh giá trình bày trong luận
văn.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý các
tài liệu, các số liệu mà tơi thu thập trong q trình khảo sát thực tiễn thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đó, tơi có được
các số liệu, thơng tin tin cậy trình bày trong luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này chủ yếu được thực
hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo Uỷ ban nhân dân
quận Hải An, các cán bộ tham gia trực tiếp lập phương án bồi thường, hỗ trợ của
Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố
Hải Phịng và Ban bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quận Hải An, một số chuyên
gia trong lĩnh vực pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất,
người bị thu hồi đất, nhà đầu tư…
Ngồi ra, tơi cịn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so sánh,
logic...để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Hệ thống hố và góp phần phát triển, bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực hiện pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam, đặc biệt, phân tích, làm rõ cơ chế điều chỉnh
của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân tích làm rõ bản chất
của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Luận văn đã phân tích nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất, đánh giá thực trạng thi hành lĩnh vực pháp luật này và chỉ

ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Trên cơ sở đó, đề cập yêu cầu, định hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể
hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà hoạch
định chính sách, pháp luật đất đai, các nhà quản lý đất đai mà cịn là tài liệu
chun khảo cho cơng tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý
đất đai ở các cơ sở đào tạo luật của nước ta.
7. Cơ cấu luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương ngoài phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo
Chương 1: Một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất.
3


Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Phương hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện việc thực hiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải
An, thành phố Hải Phòng.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH,
CÁ NHÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và các điều kiện bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1 Khái niệm bồi thường, hỗ trợ
Đề cập khái niệm này Khoản 12, Điều 3, Luật đất đai năm 2013 đưa ra
cách giải thích như sau: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị

quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất”.
“Hỗ trợ” là việc khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có chính sách giúp
đỡ, tạo điều kiện cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống sản xuất, vượt qua
khó khăn khi bị thu hồi đất. Các khoản hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất bao gồm:
hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất nơng nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ
gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp
thu hồi đất ở của hộ gia đình cá nhân người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà
phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho hộ
gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất; hỗ trợ khác (quy định tại Điều 83,
84 Luật đất đai 2013).
1.1.2.. Mục đích và yêu cầu của bồi thường, hỗ trợ
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được xem xét trên cơ sở hàng
loạt các yếu tố về cơ chế, pháp luật và con người, cùng những điều kiện kinh tế,
xã hội khác nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác thu hồi đất
của các cấp, các ngành. Đây cũng sẽ là cơ hội cho các nhà chuyên môn, các nhà
lãnh đạo địa phương nâng cao khả năng sắp xếp lại dân cư, xây dựng kết cấu hạ
tầng, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc
làm, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng
trên địa bàn địa phương.
1.1.3. Các điều kiện về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.3.1. Điều kiện để được bồi thường
Theo quy định tại Điều 75 Luật đất đai 2013, người bị Nhà nước thu hồi
đất có một trong những điều kiện sau đây thì được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất:
- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Pháp luật đất
đai.
- Có quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật đất đai.

4


- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã,
phường, trị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận khơng
có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:
Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai bao gồm: giấy tờ do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 trong q trình
thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ
Địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài
sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; Giấy tờ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất trước ngày 15 tháng
10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất sử dụng trước
ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền
với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc
chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong những loại giấy tờ
quy định được kể trên mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ
về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan,
nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển
nhượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân cấp
xã xác nhận khơng có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú
tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải
đảo, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nới có đất xác nhận là người đã sử dụng
đất ổn định, không có tranh chấp.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các loại giấy
tờ quy định như đã kể trên nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15
tháng 10 năm 1993, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó khơng
có tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất theo bản án hoặc quy định
của tòa án, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai của nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các loại giấy
tờ kể trên nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời
điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy
hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các cơng trình, được cấp có thẩm quyển
phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc, không phải là đất lấn chiếm trái phép
và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất đó khơng có
tranh chấp.
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước
đã có quyết định quản lý trong q trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá nhân đó
vẫn sử dụng.
5


- Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các cơng trình là đình, chùa, đền
miếu, am, tư, hương, nhà thờ họ, được Ủy ban nhân dân cấp xã có đất đai bị thu hồi
xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và khơng có tranh chấp.
Ngồi ra, Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây cũng được
bồi thường:
- Đất được Nhà nước giao cho có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất
đã nộp khơng có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
- Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả
việc chuyển nhượng khơng có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;

- Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.
1.1.3.2. Điều kiện để được hỗ trợ
- Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi đang sử dụng đất thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 77 của Luật đất đai.
- Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán đất
sử dụng vào mục đích nơng nghiệp, lâm nghiệp, ni trồng thủy sản (khơng bao
gồm đất rừng đặc dụng, rừng phịng hộ) quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1
Điều này thì phải có hợp đồng giao khốn sử dụng đất.”
- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các
điểm a, b, c khoản 1 Điều 19 của Nghị định này khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất
quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định này (trừ trường
hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, cơng nhân viên của nông, lâm trường quốc
doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các nông, lâm trường
quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp)
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề
và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây:
- Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong
bảng giá đất của địa phương đối với tồn bộ diện tích đất nơng nghiệp thu hồi;
diện tích được hỗ trợ khơng vượt q hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa
phương theo quy định tại Điều 129 của Luật đất đai.
- Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều
kiện thực tế của địa phương.
- Người được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho th đất
khơng thơng qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất mà ứng trước kinh phí bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư thì được tham gia trong quá trình tổ chức thực hiện

việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”
- Đối với dự án đầu tư đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhưng đến trước ngày 01-7- 2014 chưa thực hiện chi trả tiền bồi thường
thì việc xử lý bồi thường chậm thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai
trước ngày 01 -7- 2014.
6


- Đối với dự án đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước ngày 01-7- 2014 nhưng địa
phương chưa phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà chính sách
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau ngày 01 tháng 7 năm 2014 có thay đổi so
với khung chính sách đã được phê duyệt thì bộ, ngành có dự án đầu tư có trách
nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bộ, ngành có dự án đầu tư phối
hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án tổ chức thực hiện sau khi có
quyết định của Thủ tướng Chính phủ.”
1.1.4. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất:
Việc bồi thường đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai,
kịp thời và đúng pháp luật sẽ giải quyết triệt để, hài hoà quan hệ lợi ích giữa Nhà
nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi, đảm bảo cho pháp chế xã hội chủ nghĩa
được thực thi, niềm tin và sự đồng thuận của người dân bị thu hồi đất với Nhà nước
sẽ được củng cố, đảm bảo ổn định xã hội, phát triển kinh tế
Thứ hai, nguyên tắc bồi thường về tài sản, ngừng sản xuất, kinh
doanh khi Nhà nước thu hồi đất:
Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với
đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
Theo đó, để được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất thì
tài sản đó phải gắn liền với đất thuộc về chủ sở hữu hợp pháp là người bị thu

hồi đất và tài sản đó phải xác định bị thiệt hại do hành vi thu hồi đất của Nhà
nước gây ra. Đây là nguyên tắc rất cần thiết, bởi lẽ khi Nhà nước thu hồi đất, tài
sản mà họ đầu tư trên đất sẽ khơng cịn tồn tại, khơng được bảo tồn và bị thiệt
hại, do đó trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi thu hồi đất là tất yếu.
1.2. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1.1. Khái niệm
Thực hiện pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà
nước, được thực hiện thơng qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc
các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy
phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thế đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Từ những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước htu hồi đất có thể
thấy rằng, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ là loại hoạt động mang tính
tổ chức - quyền lực Nhà nước, đó là việc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
căn cứ vào quy định của pháp luật (Hiến pháp, Luật đất đai, Luật khiếu nại) về
bồi thường, hỗ trợ về giá trị quyền sử dụng đất căn cứ vào mục đích sử dụng khi
thu hồi mà hậu quả pháp lý và giá trị hiệu lực của quyết định đó sẽ làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật về đất đai.
1.2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất là hành vi hợp pháp của các chủ thể thực hiện pháp luật.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
7


đất được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất được thực hiện bởi nhiều hình thức khác nhau.

1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất
1.2.2.1. Thực hiện ban hành các văn bản pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất
Để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước
đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013 như: Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành Luật đất
đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 01/2017/NĐCP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định 43/CP-NĐ; Nghị định số
45/CP-NĐ/2014; Nghị định số 47/CP-NĐ/2014; Thông tư 30/2014/TT-BTNMT
ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; Thông tư 37/2014/TTBTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường quy định chi tiết về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 63/2015/QĐTTg ngày 10/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ đào tạo
nghề và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
Trên cơ sở những văn bản do chính phủ và Bộ ngành liên quan ban hành,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền ban
hành các văn bản áp dụng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ như quy
định về giá đất, áp dụng các phương pháp định giá đất, làm trung gian cho việc
thỏa thuận giá đất để bồi thường giữa nhà đầu tư với người có đất bị thu hồi v.v
1.2.2.2 Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
a. Trách nhiệm của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
b. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
- Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện
- Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã:
c. Trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh
- Sở Tài nguyên và Môi trường
- Sở Tài chính
- Sở Kế hoạch và Đầu tư
- Sở Xây dựng

- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Trung tâm phát triển quỹ đất
d. Trách nhiệm của tổ chức (chủ đầu tư) được giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.2.3 Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Thủ tục bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đấ

ợc
thực hiện qua nhiều bướ

ững tiêu cự
8


ật từ việ
ểm đếm đất đai đến việc chi chả chậm, không
đầy đủ cho người dân được bồi thường, hỗ trợ. Điều này không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp đến thiệ
ủa Nhà nước, của người dân có đất bị thu hồi mà về lâu
dài còn gây khiếu kiện, mâu thuẫn, bất ổn, mất lịng tin của người dân đối với
chính quyền. Vì vậ
ực hiệ
ồi thường, hỗ trợ
đối với người dân có đất bị thu hồi ln cần có sự kiể
ặt chẽ.
Mọi quy trình, thủ tục cần có sự

định củ

ật để bảo đảm sự kiể

đoàn thanh tra nhà nước mà cần bảo đả
ế dân chủ, sự
của người dân, kịp thời giải quyế
ế


ử lý
khắc phụ
m đồng thời có hình thức xử
minh đối vớ

ễu trong thực thi nhiệm vụ bồi
thường, hỗ trợ người dân khi Nhà nước thu hồi đất.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Yếu tố chính trị
Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hồn thiện
chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.
Thứ hai, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
1.3.2. Yếu tố kinh tế
Cơ chế quản lý kinh tế cũng có những tác động nhất định đến pháp
luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Trong điều kiện kinh tế thị trường cơ
chế quản lý đất đai có sự thay đổi: Nhà nước thừa nhận Q u y ề n s ử d ụ n g
đ ấ t là loại hàng hoá đặc biệt và được trao đổi trên thị trường. Việc thu hồi
đất gặp nhiều khó khăn do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương
án bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện
vượt cấp, phức tạp, kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định xã hội, vì

vậy, pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất thường xun được rà
sốt, sửa đổi, bổ sung và hồn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của quản lý đất đai
trong điều kiện kinh tế thị trường.
1.3.3. Yếu tố tâm lý xã hội, nhận thức xã hội
Công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng chịu tác động
không nhỏ của tâm lý và nhận thức xã hội của người có đất bị thu hồi, tổ chức
cá nhân sử dụng đất sau khi thu hồi bởi với truyền thống văn hóa, các quan
niệm được hình thành trong đời sống xã hội như quan niệm về phong thủy, tâm
lý số đông đã tác động trực tiếp đến công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất.
1.3.4. Yếu tố hội nhập quốc tế
Quá trình hội nhập quốc tế cũng có những tác động khơng nhỏ tới pháp
luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Để gia nhập các tổ chức Thương
mại thế giới, các hiệp định song phương, đa phương…nước ta cam kết tuân
thủ và thực thi nghiêm chỉnh các quy định, luật lệ của Tổ chức này.

9


Chương 2
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIẾN QUẬN HẢI AN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Hải
An, thành phố Hải Phịng có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.1. Khái quát chung về quận Hải An, thành phố Hải Phịng
Tổng diện tích đất tự nhiên của quận Hải An là 10.484,29ha, với tổng số
dân là 104.070 người. Quận Hải An nằm ở phía Đơng Nam thành phố Hải
Phịng, có vị trí địa lý như sau:

- Phía Tây Bắc giáp quận Ngơ Quyền.
- Phía Bắc giáp huyện Thủy Ngun dọc theo sơng Cấm.
- Phía Nam giáp huyện Kiến Thụy dọc theo ranh giới sơng Lạch Tray.
- Phía Đơng giáp huyện đảo Cát Hải theo ranh giới là cửa biển Nam Triệu.
Với vị trí đó, quận Hải An là đầu mối giao thơng quan trọng của thành
phố Hải Phịng với đầy đủ các tuyến đường bộ, đường sông, đường biển, đường
sắt và đường hàng không. Chạy qua địa bàn quận Hải An có trục đường giao
thơng liên tỉnh quan trọng nhất là quốc lộ 5 nối liền Hà Nội - Hải Phịng, có Sân
bay quốc tế Cát Bi, hệ thống cảng trải dài…
Cơng tác đền bù giải phóng mặt bằng đạt nhiều kết quả cao và hoàn thành
khối lượng lớn. Nhiều dự án trọng điểm của quốc gia, thành phố, một số tập
đoàn kinh tế lớn trong nước, quốc tế được khởi cơng, hồn thành và đi vào hoạt
động, như: đường ơ tơ cao tốc Hà Nội – Hải Phịng; Dự án ngã 5 – Sân bay Cát
Bi; đường World Bank ; cầu và đường Tân Vũ – Lạch Huyện, hệ thống cảng
contener Đình Vũ, Chùa Vẽ; Cảng hàng khơng quốc tế Cát Bi, nhà máy sản xuất
lốp ô tô của Tập đoàn Bridgestone; khu du lịch sinh thái Đảo Vũ Yên, hệ thống
cầu vượt đô thị Lê Hồng Phong, đường 356...Kết nối hạ tầng giao thông, kinh tế,
đô thị được tăng cường, tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế của địa phương
được phát huy, bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới theo hướng văn minh, hiện đại.
2.1.2. Những dự án lớn cần thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An,
thành phố Hải Phòng (từ năm 2013 đến nay)
Từ năm 2013 đến nay có 33 dự án lớn triển khai trên địa bàn quận Hải
An, tất cả các dự án thu hồi đất đều vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng theo Điểm a, Khoản 1, Điều 16 Luật
đất đai 2013. Hầu hết các dự án thu hồi đất đều đúng tiến độ và được sự đồng tình,
ủng hộ cao của các tầng lớp nhân dân, tuy nhiên một số dự án thu hồi đất cịn gặp
một số khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân: giá đất bồi thường chưa tương
xứng, các chính sách hỗ trợ chưa thỏa đáng, cá biệt có những dự án các hộ dân bị
các phần tử xấu kích động, xúi giục đòi hỏi quyền lợi, khiếu kiện các cấp gây phức
tạp tình hình an ninh trật tự tại địa phương, điển hình như: Dự án đầu tư cải tạo,

nâng cấp đường 356 đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ, Dự
án đầu tư mở rộng Cảng hàng không quốc tế Cát Bi...
Từ năm 2004 đến năm 2017, quận Hải An thực hiện kiểm kê và giải
phóng mặt bằng 172 dự án với diện tích 4.167,2 ha, tương đương 39,75% tổng
10


diện tích đất tự nhiên, liên quan đến 9.351 tổ chức và cá nhân.
2.2. Thực trạng thực hiện áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
trên địa bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
2.2.1. Về ban hành các quy định hướng dẫn thi hành Luật đất đai về
bồi thường, hỗ trợ
Ngay sau khi Hội đồng nhân dân thành phố ban hành Nghị quyết số
29/NQ- HĐND ngày 10/12/2014 về việc thơng qua bảng giá đất thành phố Hải
Phịng 05 năm (2015 – 2019) thì Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành Quyết
định 2970/2014QĐ-UBND ngày 25/12/2014 quy định về bảng giá đất thành phố
Hải Phòng 05 năm (2015 - 2019); Quyết định: số 2680/2014QĐ-UBND ngày 03
tháng 12 năm 2014 Quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định
số 58/2015/QĐ-UBND ngày 12/01/2015 về việc ban hành tập đơn giá cây trồng,
vật ni thủy sản, chi phí đầu tư vào đất nuôi trồng thủy sản phục vụ công tác
bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hải Phòng; Quyết định số 325/2015/QĐ-UBND ngày 05/2/2015 về
việc ban hành bộ đơn giá vật kiến trúc phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ khi
nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số
01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng
về việc điều chỉnh bảng giá các loại đất trên địa bàn 7 quận nội thành Hải Phịng
2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ cho tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn quận khi bị thu hồi đất
2.2.2.1. Về thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ

Căn cứ quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố, Uỷ ban nhân dân quận
thành lập Hội đồng bồi thường hỗ trợ quận Hải An gồm:
- Đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận làm chủ tịch Hội đồng
- Các thành viên hội đồng gồm: Đại diện lãnh đạo các phòng ban, ngành
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ có trách nhiệm chỉ đạo tổ cơng tác tiếp nhận,
thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ theo chức năng, nhiệm vụ được giao,
tổng hợp kết quả thẩm định trình Hội đồng bồi thường, hỗ trợ phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ theo quy định của Pháp luật.
2.2.2.2. Về bồi thường đối với những dự án thu hồi
Kể từ khi thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng của
quận đã thực hiện cơng tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi giải phóng mặt
bằng với những số liệu cụ thể như sau:
Bảng 2.1. Tình hình giải phóng mặt bằng Quận Hải An
Số dự
Số diện tích
Số đơn vị
Số tiền
Gia đình
Năm
2
án
thu hồi (m )
Gia đình (tỷ đồng) được bố trí nhà
2013
7
855.625,7
350
510
210
2014

6
6.778.621,41
480
850
260
2015
3
105.478,8
220
120
160
2016
6
122.419
198
240
120
2017
8
239.984,58
340
480
250
2018
3
48.565,49
125
250
95
(nguồn: Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận Hải An - năm 2018)

11


Trong hơn 5 năm từ 2013 đến năm 2018, Ban bồi thường giải phóng mặt
bằng của quận đã thực hiện cơng tác giải phóng mặt bằng cho 33 dự án lớn được
triển khai trên địa bàn quận. Trong đó năm 2017 thực hiện nhiều dự án nhất (08
dự án), năm 2014 là năm số dự án ít hơn nhưng lại là năm có diện tích thu hồi
lớn nhất (hơn 6 triệu mét vng) chiếm ¾ tổng số diện tích đất thu hồi trong 5
năm. Năm 2014 cũng là năm có số hộ gia đình và đơn vị được bồi thường lớn
nhất (480 hộ và đơn vị) cũng là năm có số tiền bồi thường lớn nhất. Năm 2018
là năm có số dự án và diện tích thu hồi ít nhất (03 dự án, hơn 48 nghìn mét
vng đất phải thu hồi)
Theo đó việc bồi thường về đất:
- Giá đất tính bồi thường: Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục
đích sử dụng tại thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, do Uỷ ban nhân dân thành phố Hải phòng quyết định và công bố công
khai vào ngày 01/01 hàng năm (đối với đất nông nghiệp). Hiện nay, quận Hải
An thực hiện việc bồi thường giá đất theo Quyết định số 01/2017/QĐ-UBND
ngày 16/6/2017 và Quyết định số 2970/2014/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phịng. Ngồi ra đất ở bồi thường theo giá đất
cụ thể thành phố có quyết định theo từng dự án, không bồi thường theo giá đất
sẽ được chuyển mục đích sử dụng.
Trường hợp trong một dự án có thu hồi đất nơng nghiệp ở các vị trí có
mức giá đất và mức hỗ trợ khác nhau thì áp dụng chung một mức giá bồi thường
(do Ủy ban nhân dân thành phố quyết định nhưng không thể áp dụng đối với
những tuyến đường đi qua các quận, huyện khác nhau),
- Bồi thường tài sản, cây trồng vật nuôi
Nội dung bồi thường về tài sản, cây trồng: Bao gồm nhà cửa, cơng trình
xây dựng, cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi Nhà nước
thu hồi đất mà bị thiệt hại thì được bồi thường theo quy định.

Đối với tài sản, vật kiến trúc trên đất không đủ điều kiện bồi thường thì
tuỳ trường hợp được hỗ trợ bằng 80% giá bồi thường. (Uỷ ban nhân dân thành
phố quy định hỗ trợ khác nhưng không quá 100% giá trị)
- Đơn giá bồi thường về tài sản, cây trồng:
Đơn giá bồi thường về tài sản, cây trồng thực hiện theo quy định của Uỷ
ban nhân dân thành phố và Uỷ ban nhân dân quận. Cụ thể:
+ Căn cứ Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của Ủy
ban nhân dân thành phố về việc ban hành quy định chi tiết một số nội dung về
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố
Hải Phòng;
+ Căn cứ Điều 2; phụ lục số 01 Quyết định số 58/2015/QĐ-UBND ngày
12/01/2015 của Uỷ ban nhân dân thành phố về việc ban hành Tập đơn giá cây
trồng, vật nuôi thủy sản, chi phí đầu tư vào đất ni trồng thủy sản phục vụ cơng
tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hải Phòng;
+ Căn cứ Quyết định số 1333/QĐ-UBND ngày 20/6/2018 của Ủy ban
nhân dân quận Hải An về việc phê duyệt đơn giá bồi thường, hỗ trợ đối với một
số loại cây khơng có trong tập đơn giá cây trồng phục vụ công tác bồi thường,
12


hỗ trợ thực hiện cơng tác giải phóng mặt bằng các dự án trên địa bàn quận Hải
An, thành phố Hải Phòng;
- Bồi thường hỗ trợ về vật kiến trúc: Các căn cứ để thực hiện
+ Căn cứ Điều 89 Luật đất đai 2013 về Bồi thường thiệt hại về nhà, cơng
trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất;
+ Căn cứ các quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng số
2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 về việc ban hành Quy định chi tiết một
số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Hải Phòng; số 324/2015/QĐ-UBND ngày 05/12/2015 quyết định

về việc ban hành Bộ đơn giá vật kiến trúc phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố Hải Phịng;
+ Căn cứ Cơng văn số 601/UBND-TH ngày 29/4/2016 của Uỷ ban nhân
dân thành phố Hải Phòng về việc hỗ trợ khác đối với diện tích đất nơng nghiệp
bị thu hồi vượt hạn mức giao đất ở mới phải thu hồi, giải phóng mặt bằng và hỗ
trợ cơng trình vật kiến trúc.
2.2.2.3. Chính sách hỗ trợ của quận cụ thể được áp dụng như sau:
a. Hỗ trợ di chuyển:
Khi Nhà nước thu hồi đất ở mà hộ gia đình, cá nhân phải tháo dỡ nhà và
di chuyển đến nơi ở mới, thì được xét hỗ trợ di chuyển. Mức hỗ trợ di chuyển
căn cứ theo Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của Ủy ban
nhân dân thành phố Hải Phòng, cụ thể:
- Tại khoản 1, Điều 20, Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày
03/12/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định " Hỗ trợ đối với
nhân khẩu có tên trong sổ hộ khẩu và thực tế ăn ở trong hộ gia đình có đất ở bị
thu hồi tại thời điểm có quyết định thu hồi đất được hỗ trợ ổn định đời sống là
3.000.000 đồng/khẩu".
- Tại Điều 25, Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của
Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định:
+ Việc hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia
đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở
theo khoản 2 Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP thì được thực hiện theo quy
định sau: Người có đất ở bị thu hồi đủ điều kiện bồi thường về đất ở, nhà ở được
bố trí tái định cư mà có văn bản cam kết tự lo chỗ ở được hỗ trợ một khoản tiền
bằng 30% tiền bồi thường về đất của hộ đủ điều kiện khi bị thu hồi nhưng tối đa
không quá 400.000.000đ/hộ và tối thiểu không dưới 180.000.000đ/hộ đối với
khu vực quận, tối đa không quá 250.000.000đ/hộ và tối thiểu không
dưới 100.000.000đ/hộ đối với khu vực huyện.
+ Hộ gia đình, cá nhân khi thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở trong
phạm vi thành phố được hỗ trợ di chuyển (đến nơi tạm lánh và từ nơi tạm lánh

đến khu tái định cư) là 5.000.000 đ/hộ; trường hợp di chuyển sang tỉnh khác
hỗ trợ bằng 7.000.000 đ/hộ.
+ Người bị thu hồi đất ở, nhà ở mà khơng cịn chỗ ở nào khác thì trong
thời gian chờ tạo lập chỗ ở mới (bố trí vào khu tái định cư) được bố trí vào nhà ở
tạm lánh hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm lánh bằng 12.000.000,00 đ/hộ.
13


+ Hộ gia đình, cá nhân được giao đất tái định cư, nhà ở tái định cư được
hỗ trợ để ổn định cuộc sống tại khu tái định cư bằng 6.000.000,00đ/hộ.
b. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp trên địa bàn quận được hỗ trợ như sau:
- Chỉ hỗ trợ đối với thu hồi đất nông nghiệp giao theo quyết định số 03 của Uỷ
ban nhân dân thành phố Hải Phịng. Đất vườn, ao bồi thường theo mục đích sử dụng
khơng có hỗ trợ.
- Tại điểm a khoản 3 Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định:
+ Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nơng nghiệp đang sử dụng thì
được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.
+ Đối với trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nơng nghiệp đang sử
dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và
trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển
đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng;
(Đơn giá gạo theo thông báo từng quý của Ủy ban nhân dân quận).
- Tại khoản 1 Điều 21 Quyết định số 2680/2014/QĐ-UBND ngày

03/12/2014 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định “hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp”. Mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
theo khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được tính bằng 05 lần giá
đất nơng nghiệp cùng loại, cùng vị trí trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân
thành phố ban hành đối với toàn bộ diện tích đất thu hồi; diện tích hỗ trợ khơng
vượt q hạn mức giao đất nơng nghiệp tại địa phương. (Gía đất nông nghiệp
hàng năm Uỷ ban nhân dân thành phố xác định cụ thể).
2.2.2.3. Việc Thanh tra, kiểm tra giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An
- Các trường hợp cưỡng chế, giải quyết khiếu nại
Trong số các dự án thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An từ năm 2013 đến
nay có một số dự án trong quá trình thu hồi đất gặp phải một số vướng mắc phải
thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất, như: Dự án đầu tư xây dựng Khu bay,
Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường 356
đoạn 2A từ ngã 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ, Dự án xây dựng Khu
vui chơi giải trí, nhà ở và cơng viên sinh thái tại đảo Vũ n…
- Tình hình, kết quả Thanh tra, kiểm tra giám sát, giải quyết khiếu nại, tố
cáo về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Hải An
Từ năm 2013 đến nay Uỷ ban nhân dân quận Hải An đã nhận được hơn
2000 đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cơng dân trên tồn quận, trong đó
phần lớn là đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, tập trung chủ
yếu là khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.
14


Công tác giải quyết khiếu tố về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất trên địa
bàn quận Hải An trong 05 năm qua đạt được những kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2.4 Tình hình giải quyết khiếu nại
Tổng số vụ

Số vụ đủ điều
Số vụ đã
Đạt tỷ lệ
Năm
khiếu nại
kiện thụ lý
giải quyết
%
2013
04
04
04
100
2014
04
04
04
100
2015
05
04
04
80
2016
09
05
01
20
2017
37

22
16
72

Năm
2013
2014
2015
2016
2017

Bảng 2.5. Tình hình giải quyết kiến nghị
Tổng số vụ
Số vụ đủ điều
Số vụ đã
Kiến nghị
kiện thụ lý
giải quyết
520
510
433
542
530
496
455
450
343
429
429
366

344
344
312

Đạt tỷ lệ
%
84
93
76
85
90

Bảng 2.6. Tình hình giải quyết tố cáo
Tổng số vụ
Số vụ đủ điều
Số vụ đã
Đạt tỷ lệ
Năm
Tố cáo
kiện thụ lý
giải quyết
%
2013
08
08
08
100
2014
01
01

01
100
2015
01
01
01
100
2016
0
0
0
0
2017
05
03
01
33
(Nguồn: Báo cáo kết quả công tác Thanh tra quận Hải An 2013 đến 2017) [24],
[25], [26], [27], [28].
Nội dung khiếu nại, kiến nghị, tố cáo tập trung vào các vấn đề sau:
- Khiếu nại, kiến nghị việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, bố trí
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, cơng dân tụ
tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơi thu hồi diện tích đất lớn để bố trí
phát triển các dự án. Nội dung khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường không thoả
đáng, chưa làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật, thực hiện khơng
đúng quy hoạch, khơng đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không đáp ứng
yêu cầu ổn định cuộc sống. Ngồi ra, cịn một số khiếu nại: địi thực hiện chính
sách bồi thường về đất đai do trước đây chưa được thực hiện trong việc trưng
dụng, thu hồi đất; giải toả hành lang an tồn giao thơng…

2.2.3. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên địa
bàn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
15


Thứ nhất, về công tác ban hành văn bản pháp quy
Thứ hai, chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
Thứ ba, nhiều dự án lớn khi đi vào hoạt động đã giải quyết công ăn, việc
làm cho hàng ngàn lao động địa phương;
2.2.4. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn thấp, chưa sát với
giá thị trường:
Thứ hai, liên quan đến trình tự, thủ tục bồi thường khi thu hồi đất vẫn
còn tồn tại tình trạng thiếu cơng khai, minh bạch và ở mức độ nào đó là sự áp
đặt, tùy tiện của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu hồi, bồi thường.
Thứ ba, vướng mắc về phía người dân bị thu hồi đất khi được bồi thường
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN
HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
3.1. Nhu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn quận Hải An, thành phố Hải Phòng
Thứ nhất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cũng bộc lộ
những tồn tại, yếu kém trong quản lý nhà nước về đất đai của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền như sự thiếu dân chủ, thiếu công bằng, thiên vị,
tham nhũng, tiêu cực v.v... trong việc áp dụng các quy định về bồi thường, hỗ
trợ. Để góp phần khắc phục những yếu kém này, pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ phải xây dựng các quy định cụ thể, dự liệu và đưa ra những phương án
phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, thiếu dân chủ và không công bằng v.v... trong

thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền. Hơn nữa, pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ cần phải xây dựng các chế tài pháp lý nghiêm minh, đủ sức răn
đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ. Xem xét
các yêu cầu này vào các quy định hiện hành cho thấy pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ dường như chưa xác lập được một cơ chế pháp lý hữu hiệu để ngăn
ngừa và xử lý có hiệu quả các hành vi tham nhũng, tiêu cực v.v. trong bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đây cũng là một lý do lý giải cho việc tiếp
tục hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này.
Thứ hai, Đảng ta xác định giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất là vấn đề nhạy cảm do "đụng chạm" trực tiếp đến lợi ích của người bị thu hồi đất.
Do vậy vấn đề này thường tiềm ẩn nguy cơ trở thành điểm nóng, gây mất ổn định
chính trị nếu khơng giải quyết công bằng và ổn thỏa các xung đột về lợi ích giữa Nhà
nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất được thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật. Do vậy hoàn thiện pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết góp phần vào việc duy trì
ổn định về chính trị và chống lại những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá
của các thế lực thù địch.
16


Thứ ba, trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; chúng ta phải thực hiện việc thu hồi một diện tích đất khơng nhỏ
(trong đó phần lớn là đất nơng nghiệp) để triển khai các dự án đầu tư hệ thống
cơ sở hạ tầng; khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới v.v... Điều này
đặt ra việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho hàng vạn hộ gia đình, cá nhân bị
thu hồi đất. Việc giải quyết tốt vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt chính
trị góp phần duy trì sự ổn định chính trị mà cịn tạo điều kiện thuận lợi để thực
hiện triển khai các dự án đầu tư đúng tiến độ, đúng thời gian và nâng cao tính
hấp dẫn của mơi trường đầu tư ở nước ta. Với ý nghĩa đó, tiếp tục hồn thiện

các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc làm cần
thiết.
Thứ tư, xét về bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước ta không ngừng quan tâm và chăm lo
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Vì vậy khi người sử dụng
đất bị Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích chung thì Nhà nước
phải thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ cho họ trên cơ sở quy định của pháp
luật. Việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
là một minh chứng sinh động và cụ thể nhằm thể hiện bản chất nhân dân của
Nhà nước ta
Thứ năm, hiện nay, Quốc hội chủ trương rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật
Đất đai năm 2013 nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quản lý và
sử dụng đất đai. Việc này được Chính phủ giao cho Bộ Tài ngun và Mơi
trường thực hiện. Tổng cục Quản lý đất đai là đơn vị chịu trách nhiệm
trước Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Mơi trường tiến hành rà sốt, xây dựng dự
thảo sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Đất đai năm 2013. Thực tiễn thi
hành Luật Đất đai năm 2013 cho thấy các quy định về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất thường gặp phải những khó khăn, vướng mắc về cách thức
áp dụng giá đất để xác định bồi thường; điều kiện để được bồi thường v.v...
Do vậy việc rà soát, sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Đất đai năm
2013 nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quản lý và sử dụng đất
hiện nay không thể không xem xét đến việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
những nội dung về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất
3.2.1. Giải pháp chung
- Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất
Thứ nhất, vấn đề “bồi thường, hỗ trợ” khi Nhà nước thu hồi đất đã được
quy định trong Luật đất đai và quá trình thực hiện trong thực tế nhiều năm qua.

Xét về bản chất pháp lý “bồi thường, hỗ tợ” đặt ra khi một chủ thể xâm phạm tới
những lợi ích của một chủ thể khác và đảm bảo những điều kiện pháp luật quy
định như: Có thiệt hại xảy ra, có lỗi, có hành vi trái pháp luật và có mối quan hệ
nhân quả. Việc Nhà nước thu hồi đất dựa trên cơ sở những căn cứ pháp lý và
trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Vậy, pháp luật quy định “bồi thường, hỗ
trợ” có thỏa đáng hay khơng.
17


Mặt khác, nhìn nhận dưới góc độ người sử dụng đất không phải là chủ sở
hữu mà chỉ được quyền sử dụng, nên khi Nhà nước thu hồi mang tính chất mệnh
lệnh và hệ quả là người sử dụng đất được bồi thường. Nhìn nhận dưới khía cạnh
này thực sự chưa thấy giá trị của quyền sử dụng dất và tài sản trên đất. Mặc dù,
cá nhân, hộ gia đình có quyền sử dụng nhưng trong các giao dịch dân sự thì
quyền sử dụng đất xác định là tài sản, đối tượng của các giao dịch (hợp đồng,
thừa kế). Do đó theo tơi cần hiểu và quy định đúng vấn đề này.
Tôi đề xuất sửa đổi quy định “bồi thường khi thu hồi đất” thành chế định
“trưng mua quyền sử dụng đất”. Theo quy định của Hiến pháp 2013 thì tài sản
hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hố. Trong trường hợp thật
cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng
mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời
giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do Luật định.
Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được
pháp luật bảo hộ; còn theo Bộ luật Dân sự 2005, 2015 thì quyền tài sản là tài
sản, do đó có đầy đủ các quyền như mua, bán, tặng, cho, thế chấp. Vì vậy, khi
Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân thì quyền sử dụng đất
cần được bảo hộ và trường hợp cần thiết vì lý do phát triển kinh tế Nhà nước sẽ
trưng mua lại quyền sử dụng đất đã giao cho tổ chức, cá nhân sử dụng trước đó.
Mặt khác, doanh nghiệp và người dân đều là những chủ thể trong quan hệ pháp
luật đất đai. Vì vậy, các chủ thể này phải được đối xử bình đẳng trước pháp luật,

cả về quyền lợi và nghĩa vụ, nếu chúng ta chỉ quy định thu hồi đất thì rõ ràng
chúng ta đang có cách nhìn khơng cơng bằng với người bị thu hồi đất, lợi ích
chính đáng của họ trước pháp luật chưa được tôn trọng và bảo vệ, người dân vẫn
sống trong cảnh thụ động với tâm lý có thể bị tước đoạt tài sản bất cứ lúc nào.
Ngồi quyền sử dụng đất, cịn có tài sản gắn liền với đất như nhà ở, các cơng
trình kiến trúc, đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người sử dụng đất. Nếu
quy định trưng mua hoàn toàn không trái với vấn đề đất đai thuộc sở hữu toàn
dân bởi lẽ:
Một là, việc trưng mua là trưng mua quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với quyền sử dụng đất.
Hai là, những trường hợp được trưng mua là vì mục đích an ninh, quốc
phịng, mục đích quốc gia và mục đích kinh tế.
Ba là, chủ thể trưng mua là Nhà nước và Nhà đầu tư. Đối với mục đích an
ninh quốc phịng Nhà nước quy định chặt chẽ điều kiện, cịn mục đích phát triển
kinh tế thì nhà đầu tư là chủ thể phải cân nhắc thật kỹ hiệu quả đầu tư tránh tình
trạng “bồi thường với giá không hợp lý” xong không tiến hành đầu tư gì để giữ
đất.
Bốn là, cơ chế giá trưng mua tùy theo từng mục đích khác nhau. Nếu Nhà
nước trưng mua vì mục đích an ninh, quốc phịng theo cơ chế giá theo Luật
trưng mua; còn nhà đầu tư dựa trên sự thỏa thuận theo mức giá tối thiểu do Nhà
nước ấn định và mức giá tối đa sát giá thị trường.
Thứ hai, tiếp tục thiết lập khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn định tương đối cao.
18


Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần quy định cụ thể trách nhiệm
pháp lý đối với các trường hợp người bị thu hồi đất không thi hành quyết định
thu hồi đất nhằm phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Đồng thời,
đẩy mạnh các giải pháp thường xun rà sốt, hệ thống hóa các quy định của

pháp luật về thu hồi đất nhằm kịp thời phát hiện sai sót, bất cập và chồng chéo
giữa các quy định về thu hồi đất theo Luật Đất đai 2013 với các văn bản luật
chuyên ngành khác như Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xử
lý vi phạm hành chính,…
Hình thức bồi thường theo pháp luật hiện hành nên tạo sự đồng thuận của
người dân đang dẫn đến khiếu kiện về đất đai ngày càng nhiều. chia sẻ lợi ích để
tạo nguồn vốn phát triển cho địa phương, tạo quan hệ đối tác dài hạn giữa nhà
đầu tư và cộng đồng dân cư địa phương, các nước thường áp dụng cơ chế chia sẻ
lợi ích. Do sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế sâu rộng nên các quy định về thu hồi đất theo Luật Đất đai
2013 vừa mới áp dụng thực tiễn trong thời gian ngắn đã có nhiều điểm hạn chế,
bất cập là chuyện đương nhiên. Song, việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy
định pháp luật về thu hồi đất đảm bảo tính kịp thời, đúng pháp luật, phù hợp với
thực tiễn phát triển đất nước là điều hết sức quan trọng, nó quyết định hiệu quả,
hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai cũng như điều tiết các mối
quan hệ sở hữu và hơn nữa làm hạn chế các tranh chấp, khiếu nại kéo dài, gây
mất an ninh, chính trị ở địa phương.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về giá đất
Trên cơ sở Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về giá
đất và Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 quy định về khung giá
đất của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng và quy định (điều
chỉnh) cụ thể về giá đất, khung giá đất (Thông tư hướng dẫn), Quyết định Số:
01/2017/QĐ-UBND ngày 16/6/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng
về việc điều chỉnh bảng giá các loại đất trên đị bàn 7 quận nội thành Hải Phòng
5 năm (2015- 2019).
Cần trao quyền cho người bị thu hồi đất có quyền yêu cầu cơ quan định
giá đất xác định giá đất và giá do cơ quan định giá đất đưa ra là giá để tính đền
bù. Theo quy định hiện hành, hiện đang tồn tại cơ chế 2 giá đất: Gía đất do Nhà
nước quy định áp dụng tính bồi thường trong trường hợp Nhà nước ra quyết
định thu hồi đất và giá đất do doanh nghiệp tự thỏa thuận với người sử dụng đất

thơng qua hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận góp vốn
bằng quyền sử dụng đất để tạo quỹ đất. Việc song song tồn tại 2 loại giá đất là
một trong những nguyên nhân gây khiếu nại về giá đất trong bồi thường, giải
phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án sử dụng đất bằng hình thức Nhà
nước thu hồi đất.
Do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường của
Nhà nước đã phát sinh khiếu kiện kéo dài làm cho dự án không triển khai đúng
tiến độ và làm lỡ cơ hội đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Để khắc phục hạn chế này, giải pháp hồn thiện chính sách về giá đất
được đưa ra là :
- Giá đất được xác định phải dựa trên sự thỏa thuận với người sử dụng đất;
19


- Trường hợp khơng thỏa thuận được về giá thì người bị thu hồi đất có
quyền yêu cầu cơ quan thẩm định giá xác định giá, giá bất động sản xác định
theo giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra. Trường hợp một bên không đồng ý
với giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra có quyền yêu cầu tổ chức khác thẩm
định lại giá, giá của cơ quan tổ chức đưa ra là giá để tính đền bù. Để đảm bảo
giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra là khách quan, độc lập Nhà nước cần
nghiên cứu thành lập cơ quan định giá chuyên nghiệp, độc lập với địa vị pháp lý
rõ ràng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động định giá.
Như vậy, cần quy định cụ thể khung pháp luật của hoạt động dịch vụ định
giá đất và các trường hợp khi nào thì dịch vụ định giá đất là bắt buộc; cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định về giá đất phải độc lập với các cơ quan có
thẩm quyền quản lý đất đai để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định giá
đất, tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương vừa có thẩm quyền thu hồi đất vừa có thẩm quyền
xác định bảng giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất; thiết nghĩ hợp
lý nhất là quy định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về giá đất

được thành lập theo hệ thống ngành “dọc” trực thuộc trung ương.
Thứ ba, hồn thiện các quy định về đơn giá tính bồi thường, hỗ trợ về tài
sản (nhà, cơng trình, cây trồng, hoa màu…) và các chính sách hỗ trợ.
Cần quy định và áp dụng đúng cụ thể hơn nữa việc người sử dụng đất khi.
Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường còn được Nhà nước xem xét
hỗ trợ; việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và
đúng quy định của pháp luật..
Thứ tư, bồi thường cho người bị thu hồi đất gắn với an sinh xã hội, bảo
đảm đời sống lâu dài
Định hướng tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai đã xác định
rõ yêu cầu trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là phải “bảo đảm ổn định
đời sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi”.
- Nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện áp
dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Về phương thức: Thực hiện theo phương thức kiểm tra chéo. Đối với mỗi
dự án có ít nhất hai tổ công tác khác nhau kiểm tra tực địa và đối chiếu kết quả
đảm bảo sự chính xác tương đối.
Đối với đội ngũ cán bộ này cần phải tăng cường cả về chuyên môn lẫn
phẩm chất đạo đức, nhất là các cán bộ triển khai đo đạc, kiểm đếm tài sản và lập
phương án bồi thường.
- Giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và chủ đầu
tư khi Nhà nước thu hồi đất
Về phía Nhà nước: Nhà nước sẽ thực hiện vai trò điều tiết các lợi ích kinh
tế của các chủ thể liên quan đến việc thu hồi đất chủ yếu thơng qua các chính
sách tài chính về đất đai nhằm đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Về phía người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất (nhà đầu tư, các tổ chức,
cá nhân khác…): có thể nói những chủ thể này ít nhiều đều được hưởng lợi ích
nhất định từ hoạt động thu hồi đất của Nhà nước. Do đó, lợi ích này cần phải tính
toán và giải quyết một cách hài hịa, để đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư.
20



Về phía người bị thu hồi đất: cần nhận thức đầy đủ về lợi ích chung mang
lại cho cộng đồng từ việc thu hồi đất của Nhà nước, do đó khi Nhà nước đã thực
hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo đúng quy định của pháp luật thì họ
phải có trách nhiệm bàn giao mặt bằng đúng thời hạn.
- Thanh tra, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm trong thực hiện pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ
Thực hiện quy trình cơng khai, minh bạch, dân chủ trong công khai các
dự án đầu tư, bồi thường khi thu hồi đất.
Một trong những nguyên nhân lớn làm phát sinh các tranh chấp, khiếu
kiện về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền khơng cơng khai, minh bạch trong q trình tổ chức thực hiện nên không
nhận được sự đồng thuận của người dân. Ở nhiều nơi, việc thu hồi, bồi thường
diễn ra không rõ ràng, minh bạch; yếu tố công khai, minh bạch dường như chỉ
dừng lại ở quy định pháp luật, hiệu quả thực tế thấp. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thường khơng thực hiện đúng các quy định, quy trình về thơng báo cho
người sử dụng đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án
tổng thể về bồi thường.
Phát huy dân chủ, cơng khai minh bạch chính là định hướng chung về cải
cách hành chính, tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, quá trình thực hiện
quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cần đảm bảo minh
bạch, công khai ở tất cả các khâu, các công đoạn. Yêu cầu công khai, dân chủ,
minh bạch địi hỏi phải xun suốt từ q trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất; thông báo thu hồi đất; phương án bồi thường; quyết định thu hồi đất; giải
quyết khiếu nại, tố cáo….
Ở thành phố Hải Phòng, trong thời gian qua đã ban hành các văn bản triển
khai thực hiện các quy định của pháp luật nhưng vấn đề thực thi cần được quan
tâm hơn. Vấn đề phản biện xã hội đối với các dự án đầu tư (nhất là các dự án
phát triển kinh tế) cần được cơng khai trước khi phê duyệt để đảm bảo tính hợp

lý, tính đồng thuận của người bị thu hồi đất.
- Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các khiếu nại, khiếu kiện về đất đai của
người sử dụng đất khi bị thu hồi
Khiếu nại, tố cáo của người dân khi bị thu hồi đất đang diễn ra phức tạp
và phổ biến tại các dự án có thu hồi đất, nhất là các dự án phát triển kinh tế, thu
lợi nhuận cho nhà đầu tư. Khiếu nại, tố cáo trong thu hồi đất có thể xuất phát từ
nhận thức, địi hỏi vơ lý từ người dân; cũng có thể xuất phát từ bất cập của cơ
chế, năng lực của cán bộ thực hiện hay tiêu cực, tham nhũng trong các cơ quan
chức năng…Cần thống nhất nhận thức là một mặt phải hoàn thiện pháp luật,
tuyên truyền tốt, thực hiện tốt để hạn chế đơn thư khiếu nại tố cáo; đồng thời
tránh tâm lý né tránh khiếu nại, tố cáo làm cho vấn đề ngày càng phức tạp, khó
giải quyết.
Ở quận Hải An, thành phố Hải Phòng cần tăng cường sự phối hợp các cơ
quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong đó cơ quan thanh tra là chủ
chốt thực hiện giải quyết kịp thời các khúc mắc của người bị thu hồi đất.
- Nâng cao nhận thức của người dân trong việc bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất
21


Tăng cường tuyên truyền Luật Đất đai 2013 và các quy định pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Để tạo sự đồng thuận từ phía người dân đối với cơng tác thu hồi đất nói
chung và thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế nói riêng thì vấn đề quan trọng
đầu tiên chính là xóa bỏ những nghi ngại của người dân trong công tác thu hồi
đất phục vụ cho việc phát triển kinh tế nước nhà. Hay nói cách khác cần phải
thay đổi nhận thức của người dân thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thu hồi đất.
Ở quận Hải An, thành phố Hải Phòng, để thực hiện được nội dung này thì
cần phải áp dụng những biện pháp như:

- Tổ chức các buổi tuyên truyền, giảng dạy pháp luật trực tiếp nhằm nâng cao
hiểu biết cho người dân
- Hợp tác với các cơ quan báo chí để phổ biến pháp luật (báo Hải Phòng,
báo An ninh Hải Phịng, Đài Phát thanh truyền hình Hải Phịng, Truyền hình An
ninh ti vi…) cần có các chun mục định kỳ về pháp luật đất đai.
- Lập nên các trang thông tin điện tử phổ biến pháp luật về đất đai. Phát
hành các tài liệu hướng dẫn pháp luật phù hợp với trình độ nhận thức của người
dân ở từng vùng, địa phương khác nhau và hợp tác với các tổ chức xã hội để phổ
biến đến tận tay người dân;
- Tổ chức hệ thống trợ giúp pháp lý miễn phí hoặc chi phí thấp để giúp đỡ
cho người dân khi họ có nhu cầu.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai trong đó có pháp luật thu
hồi đất phục vụ cho phát triển kinh tế không những nâng cao được hiệu quả
pháp luật, giúp cho pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống mà còn tạo điều kiện cho
họ nhận thức được mục đích, ý nghĩa cũng như lợi ích về nhiều mặt từ việc thu
hồi đất. Từ đó, để mọi người dân hiểu và chấp hành pháp luật, làm tốt công tác
di dân về khu tái định cư, đảm bảo các nguyên tắc, thể chế quy định, tăng cường
hiệu lực quản lý Nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thơng qua đó nhằm
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân, giúp cho người dân tin tưởng vào sự cơng bằng và
tính đúng đắn của pháp luật về thu hồi đất.

22


KẾT LUẬN
Bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp và
mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của tồn xã hội; có ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tâm lý của người dân và tác động không nhỏ
đến sự ổn định chính trị. Với mục tiêu đẩy mạnh tồn diện công cuộc đổi

mới, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
phát triển theo hướng hiện đại thì chúng ta khơng thể khơng thực hiện cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để giải quyết bài tốn đất đai đáp ứng u
cầu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì việc thu hồi đất là việc làm tất
yếu. Tuy nhiên, việc làm này gây ra nhiều hậu quả mà nếu không giải quyết
dứt điểm, kịp thời sẽ phát sinh tranh chấp, khiếu nại kéo dài và tiềm ẩn nguy cơ
mất ổn định chính trị. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện thu hồi đất và giải quyết hài
hồ lợi ích của các bên liên quan: Lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị
thu hồi đất và lợi ích của người sử dụng đất sau thu hồi. Trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất ở Chương 1; đánh giá thực trạng t h ự c h i ệ n pháp
luật và thực tiễn tại quận Hải An, thành phố Hải Phòng ở Chương 2 và đề
xuất giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về Bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất tại Chương 3 của Luận văn, tôi rút ra một số kết luận chủ yếu
sau đây:
1. Việc thu hồi đất được thực hiện để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng là một tất
yếu khách quan trong quá trình xây dựng phát triển xã hội, được quy định tại
Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan.
2. Việc nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh,
để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng của đất nước
không do lỗi của người sử dụng đất gây ra mà xuất phát từ nhu cầu khách quan
của xã hội. Do đó, Nhà nước với tư cách là tổ chức chính trị quyền lực do xã
hội thiết lập nên thay mặt xã hội có trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ cho người
bị thu hồi đất. Đây không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là trách nhiệm xã
hội của Nhà nước.
3. Việc nhà nước thu hồi đất gây ra những hậu quả năng nề cho người
sử dụng đất. Cuộc sống của nhân dân bị đảo lộn do phải thay đổi nơi ở, thay
đổi thói quen sinh hoạt; đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp, họ còn bị

mất tư liệu sản xuất, trở thành những người khơng có cơng ăn việc làm, thu
nhập bị giảm sút, cuộc sống rơi vào khó khăn. Để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị thu hồi đất, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất ở Việt Nam không chỉ đề cập đến việc bồi thường về đất (bồi
thường diện tích đất thực tế bị thu hồi), bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền
với đất bị thu hồi mà cịn có các quy định về hỗ trợ cho người trực tiếp sản
xuất nông nghiệp bị mất đất sản xuất, hỗ trợ việc đào tạo, chuyển đổi nghề
nghiệp, hỗ trợ đời sống gặp khó khăn do việc bị mất đất sản xuất gây ra.
23


×