Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Chuyên đề Khái quát văn học Việt Nam 1945 – 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.13 KB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 – 1954  Trong quá trình 30 năm phát triển của văn học cách mạng (1945-1975), giai đoạn 1945-1954 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ðây vừa là thời kỳ mở đầu, đắp nền cho văn học mới vừa là bước chuyển tiếp lịch sử ghi nhận nhiều thay đổi triệt để và sâu sắc, từ quan niệm nghệ thuật cho tới thực tế sáng tác. Vượt qua những thử thách khắc nghiệt của hoàn cảnh chiến tranh, văn học chín năm kháng chiến chống Pháp đã khẳng định sự tồn tại và phát triển với tầm vóc xứng đáng. Tuy những thành tựu còn ở mức độ ban đầu nhưng đóng góp chính của nó là mang đến một sắc thái độc đáo, làm bừng lên khí thế mới chưa từng có trong đời sống văn học dân tộc. I-Bối cảnh lịch sử -Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Ðình, Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ách nô lệ bị đập tan, con người Việt Nam được giải phóng; bừng lên một niềm hạnh phúc lớn lao đến thiêng liêng, như kết quả tất yếu từ khát vọng tự do và quyết tâm cứu nước của cả dân tộc. -Nhưng chính quyền cách mạng non trẻ, ngay lúc đó, đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn trên tất cả các phương diện của đời sống. Nền kinh tế hầu như kiệt quệ với hệ thống kho tàng trống rỗng, nông nghiệp lạc hậu, mất mùa vì lũ lụt; các ngành công thương nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn hoặc phá sản. (Hậu quả thảm khốc là nạn đói xảy ra, làm chết hơn hai triệu người, ngót 1/10 dân số nước ta bấy giờ). Trình độ dân trí, văn hóa giáo dục thấp kém với hơn 80% dân số mù chữ. Cùng lúc, các thế lực thù trong giặc ngoài lăm le chờ thời cơ để gây rối, hòng làm suy yếu và lật đổ nhà nước Cách mạng. Ðược Anh mở đường, thực dân Pháp trở lại gây căng thẳng ở Nam Bộ. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc. Trong nước, các tổ chức Việt Nam cách mệnh đồng minh của Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) và Việt Nam quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam (Việt Quốc) núp bóng quân Tưởng, bất hợp tác với Cách mạng, liên tục quấy phá ; lớp địa chủ, tư sản cũng ngóc dậy, ngấm ngầm chống đối. -Vượt qua mọi khó khăn, chính quyền dân chủ nhân dân không những được giữ vững mà còn ngày càng củng cố, mạnh mẽ hơn. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Ðảng và Hồ Chủ Tịch, bằng nhiều biện pháp kịp thời nhân dân ta đã chặn đứng nạn đói, phát động một cao trào bình dân học vụ diệt giặc dốt và phong trào tình nguyện nhập ngũ để bảo vệ nhà nước Cách mạng, bảo vệ sự toàn vẹn của tổ quốc. Ngày 6-1-1946, quốc hội đầu tiên được bầu qua tổng tuyển cử. Hiếp pháp được công bố. Những thế lực thù địch lần lượt bị khuất phục bằng chính sách ngoại giao kiên quyết về nguyên tắc nhưng uyển chuyển về sách lược của ta : hai trăm ngàn quân Tưởng Giới Thạch phải rút về nước kéo theo sự tán loạn của bọn phản động tay sai ; hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946) giúp nhân dân tranh thủ được thời gian hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng đương đầu lâu dài với thực dân Pháp. - Khi mọi biện pháp ngoại giao không còn hiệu quả trước dã tâm của Pháp nhằm áp đặt chế độ thuộc địa lên nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Ðáp lời kêu gọi ngày 19-12-1946 của Hồ Chủ Tịch, cả đất nước đã đứng lên, vừa đánh giặc vừa củng cố lực lượng, huy động sức mạnh dân tộc không chỉ ở hiện tại mà cả từ truyền thống quật khởi bốn nghìn năm.Từ năm 1947, liên tiếp những chiến thắng quan trọng đã làm thay đổi cục diện, tương quan lực lượng giữa ta và địch: chiến thắng Việt Bắc thu đông (1947) chặn đứng sức tiến công của giặc, chuyển cuộc kháng chiến từ thế phòng ngự sang cầm cự; chiến thắng Biên giới (1950) phá vỡ thế phong tỏa, mở đường thông với phe xã hội chủ nghĩa ; chiến thắng Hòa Bình (1952) mở rộng vùng giải phóng,... Cuối cùng, chiến thắng Ðiện Biên Phủ (7-5-1954) làm lịm tắt ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải chấp nhận thương lượng và ký kết hiệp định Giơnevơ về Ðông Dương (207-1954). -Cuộc kháng chiến chín năm đã kết thúc thắng lợi. Một nửa nước được giải phóng. Chính quyền kiểu mới ở các cấp từng bước được củng cố. Tổ chức Ðảng vững mạnh hơn nhiều. Ðại hội Ðảng lần 2 (1951) xác định đúng đắn đường lối cho kháng chiến. Năm 1953, Hồ Chủ Tịch ra sắc lệnh giảm tô và cải cách ruộng đất. Tuy có nơi có lúc còn cực đoan, thái quá nhưng về cơ bản cuộc Cách mạng phản phong này đã thực sự giải phóng đất đai và người nông dân, thủ tiêu triệt để quan hệ sản xuất cũ, đem lại cho kháng chiến một động lực mạnh mẽ. Nền kinh tế tự túc đảm bảo được những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân trong kháng chiến. - Trong hoàn cảnh chiến tranh hết sức khó khăn, văn hóa giáo dục vẫn không ngừng được nâng cao. Nạn mù chữ cơ bản được thanh toán (phổ cập cấp 1 trong toàn dân). Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> giảng dạy trong tất cả các cấp học. Một số trường Ðại học được mở ra để đào tạo nhân tài cho đất nước (y khoa, sư phạm)... Tất cả những phương diện của tình hình lịch sử - xã hội nêu trên đã có ảnh hưởng trực tiếp, tạo nên những thuận lợi và khó khăn riêng cho sự phát triển, quyết định diện mạo của văn học giai đoạn này. II.Tình hình văn học 1.Những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của văn học a/Những thuận lợi Trước hết, phải kể đến sự lãnh đạo và quan tâm giúp đỡ thường xuyên của Ðảng. Thông qua hoạt động của các tổ chức văn nghệ, Ðảng đã đề ra chủ trương chính sách tích cực, giúp chấn chỉnh kịp thời những lệch lạc ; phát động các cuộc thi để kích thích phong trào sáng tác, phát hiện tài năng mới ; động viên văn nghệ sĩ thâm nhập thực tế,... (Hội văn nghệ Việt Nam được thành lập, ra tạp chí Văn nghệ - năm 1948 ; tổ chức giải thưởng văn nghệ các năm 1951-1952, 1954-1955,...) -Cách mạng tháng Tám đã giải phóng dân tộc, đồng thời cũng giải phóng cho văn học khỏi những trói buộc của quan niệm cũ. Tính dân chủ được nâng cao, văn học không còn là sở hữu riêng của một lớp người mà thành giá trị chung cho tất cả mọi người. Quan niệm nghệ thuật tiến bộ được khẳng định, đưa văn học trở về với ngọn nguồn đích thực là đời sống rộng lớn của nhân dân, hứa hẹn một sự khởi sắc rực rỡ. -Lực lượng sáng tác được tập hợp đông đảo, có sự góp mặt đầy đủ và bổ sung lẫn nhau giữa các thế hệ. Dưới ngọn cờ của Ðảng, văn nghệ sĩ dù ở thế hệ nào cũng hướng về lý tưởng chung, soi sáng cuộc đời và công việc sáng tạo nghệ thuật. Mặc dù còn phải tiếp tục giải quyết nhiều vướng mắc về lập trường, quan điểm, về tư tưởng nghệ thuật nhưng nhìn chung ngay từ buổi đầu, đa số lớp trước Cách mạng đều phát huy tinh thần dân tộc, hăng hái đi theo kháng chiến bằng lương tâm và trách nhiệm cao nhất của người nghệ sĩ chân chính. Bên cạnh đó, phải kể đến lớp nhà văn trưởng thành từ quân đội, từ phong trào sáng tác quần chúng. Sáng tác của họ mang đậm đà hơi thở đời sống, tạo nên sức trẻ cho nền văn học, có sức động viên, khích lệ tinh thần nhân dân rất mạnh mẽ. -Trình độ học vấn, đời sống tinh thần, năng lực thẩm mỹ được nâng cao, quần chúng trở thành nhân tố quan trọng cho sự hồi sinh của văn học. Nhân dân là đối tượng phản ánh, là độc giả và cũng chính là người trực tiếp sáng tạo nghệ thuật. Giới văn chương được mở rộng, sinh hoạt văn nghệ sôi nổi hẳn lên. Mặt khác, chín năm kháng chiến khổ nhục mà vĩ đại - một hiện thực hoành tráng, giàu chất sử thi - là nguồn đề tài phong phú cho sáng tác. Cuộc sống mới, quan hệ xã hội mới với bao nhiêu cung bậc tình cảm của con người Việt Nam tự do đã gợi lên những cảm hứng mãnh liệt, điều kiện cần thiết trước hết cho sáng tác. -Tuy khởi đầu cho một thời kỳ mới nhưng văn học 1945-1954 không hoàn toàn tách rời mà gắn bó chặt chẽ, kế thừa những thành tựu của giai đoạn trước Cách mạng. Những năm 40 là thời kỳ khủng hoảng cao độ của chế độ thuộc địa, xã hội bế tắc, hoang mang, không tìm được hướng đi. Tình hình văn học, do đó hết sức phức tạp với nhiều khuynh hướng, nhiều giá trị biểu hiện khác nhau. Văn học kháng chiến chống Pháp có đầy đủ điều kiện để tiếp nhận phần tinh hoa, thành tựu cũng như loại trừ những yếu tố không có lợi cho sự nghiệp chung. Ðặc biệt, phải kể đến những cách tân về phương diện nghệ thuật của văn chương lãng mạn, giá trị hiện thực và nhân đạo của văn học hiện thực phê phán, tính chiến đấu mạnh mẽ của văn học Cách mạng (chủ yếu là thơ ca trong tù của Bác Hồ, Tố Hữu, Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ,...) b/Những khó khăn Trong bối cảnh chung thời chiến tranh, văn học chín năm chống Pháp phải đương đầu với những khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt : điều kiện in ấn, phát hành rất hạn chế, thời gian và công sức của văn nghệ sĩ dành cho sáng tác không nhiều, sự khủng bố của kẻ thù,... Nhiều cây bút đang độ sung sức đã ngã xuống, gây nên mất mát không gì bù đắp được (Trần Ðăng, Nam Cao, Thôi Hữu,...) Mặt khác, về phía chủ quan, tuy hầu hết văn nghệ sĩ đã tán thành quan niệm sáng tác mới, nhưng để biến nhận thức ấy thành xúc động nghệ thuật, thành hình tượng nghệ thuật có sức lay động lòng người thì quả không phải chuyện giản đơn một sớm một chiều. Tình cảm bao giờ cũng chuyển biến chậm hơn. Không ít lần, nhất là ở những khúc quanh của lịch sử (thời kỳ đầu kháng chiến, trong cải cách ruộng đất), hàng ngũ sáng tác có biểu hiện hoang mang, dao động. Ðây chính là lý do giải thích vì sao mãi đến gần cuối cuộc kháng chiến, văn học Cách mạng mới có được những thành tựu đáng kể. 2.Các chặng đường phát triển Có thể khảo sát quá trình phát triển của văn học giai đoạn này qua hai chặng cụ thể như sau : a/1945-1946 : Ðây là năm bản lề, văn học chuyển mình hòa vào dòng thác Cách mạng. Văn học Cách mạng dần trở thành trào lưu chủ đạo. Ðội ngũ sáng tác nòng cốt vẫn là những cây bút đã khẳng định tên tuổi Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> từ trước. Trừ một số ít tỏ ra lạc lõng, hầu hết tự nguyện đứng vào hàng ngũ văn nghệ sĩ mới với niềm hạnh phúc lớn lao : được hai lần giải phóng. (Hội văn hóa cứu quốc được thành lập). Nhìn chung, sáng tác thời kỳ này tập trung vào hai chủ đề lớn. Thứ nhất, ngợi ca thắng lợi vĩ đại của Cách mạng và bộc lộ niềm phấn khởi, tự hào tột độ của toàn dân (Vui bất tuyệt, Hồ Chí Minh - Tố Hữu, Ngọn quốc kỳ - Xuân Diệu, kịch Bắc sơn - Nguyễn Huy Tưởng). Thứ hai, tái hiện lại thực trạng xã hội tăm tối trước Cách mạng để tố cáo tội ác dã man của thực dân và tay sai, đánh tan những ảo tưởng cuối cùng vào sự lừa mị của chúng; từ đó, giáo dục ý thức trân trọng, thiết tha với chế độ mới (Mò sâm banh - Nam Cao, Lò lửa và địa ngục - Nguyên Hồng, Một lần tới thủ đô - Trần Ðăng, Chùa Ðàn - Nguyễn Tuân). Ðược viết do sự thôi thúc của nhiệt tình, trách nhiệm công dân mà chưa có độ sâu sắc, độ lắng đọng từ phía cảm xúc người nghệ sĩ nên phần lớn tác phẩm dễ rơi vào quên lãng. Nhiều văn nghệ sĩ còn quá bỡ ngỡ trước cuộc sống mới, yêu mến nhưng chưa hiểu Cách mạng bao nhiêu nên chưa thật sự gắn bó và đồng cảm với quần chúng. Một số vẫn chưa hết băn khoăn, đắn đo như Chế Lan Viên sau này tâm sự : Cách mạng làm tôi vui nhưng cũng làm tôi lo lắng. Tôi có còn được tự do? Văn học Cách mạng có phải là văn học? (Văn nghệ, 18-9-1976). b/1947-1949 : Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ðông đảo văn nghệ sĩ tự nguyện tham gia. Xuất hiện kiểu nhà văn - chiến sĩ, những người vừa trực tiếp chiến đấu vừa dùng ngòi bút như một thứ vũ khí để đấu tranh với kẻ thù và động viên, cổ vũ quần chúng. Có thể kể : Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng, Hồ Phương,... Tuy có thừa nhiệt tình và vốn sống thực tế nhưng do những cây bút trẻ này còn thiếu kinh nghiệm sáng tác nên chất lượng tác phẩm của họ thường không đồng đều. Dù sao, cũng đã có tín hiệu lạc quan của những phong cách mới, mang đậm đà hương sắc từ cuộc sống kháng chiến. Sự chuyển biến của văn nghệ sĩ lớp trước Cách mạng ở những năm đầu chặng này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của kháng chiến. Chưa đủ những điều kiện cần thiết (thời gian, thực tế kháng chiến) để họ gắn bó máu thịt, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của quần chúng. Do đó, những tác phẩm hay vẫn chưa nhiều. Tiêu biểu : thơ của Tố Hữu (Cá nước, Phá đường, Bà mẹ Việt Bắc, Bầm ơi) ; truyện ngắn Ðôi mắt - Nam Cao, Làng - Kim Lân, Thư nhà - Hồ Phương, truyện và ký sự của Trần Ðăng. Nhằm tạo bước phát triển đáng kể cho văn nghệ, Ðảng đã tiến hành hàng loạt biện pháp tích cực : tổ chức học tập, thảo luận những báo cáo quan trọng có tính định hướng (Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam Trường Chinh, 1948 ; Xây dựng nền văn nghệ nhân dân - Tố Hữu, 1949), tổ chức nhiều hội nghị tranh luận về các vấn đề văn nghệ (Hội nghị văn nghệ bộ đội- 4/1919, Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc3/1949). Tổ chức của văn nghệ sĩ từng bước được kiện toàn. Hội văn nghệ Việt Nam được thành lập (1948). Với phương châm Cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt, nhằm xây dựng một nền văn nghệ Dân tộc, khoa học, đại chúng, văn nghệ sĩ hăng hái xốc ba lô tham gia kháng chiến. Những đợt đi thực tế ra mặt trận được tổ chức trang nghiêm, tưng bừng đã gây ấn tượng rất sâu sắc đối với người cầm bút vốn xuất thân từ tầng lớp trí thức. Những tác động ấy đã giúp văn nghệ sĩ dần rũ bỏ những ám ảnh của nếp sống, nếp nghĩ cũ; tạo một thái độ chân thành, gắn bó máu thịt với cuộc sống; giúp giải quyết thỏa đáng những vấn đề còn vướng mắc về tư tưởng và phương pháp sáng tác như: viết cái gì? viết cho ai? viết như thế nào?. Trong khi bộ phận chuyên nghiệp còn đang loay hoay nhận đường thì, đặc biệt, phong trào văn nghệ quần chúng vốn manh nha từ những ngày đầu Cách mạng, giờ phát triển sôi nổi hẳn lên và giữ vai trò chủ yếu trong sinh hoạt văn nghệ kháng chiến. Không khí khẩn trương và hoàn cảnh đặc biệt của kháng chiến rất thích hợp với những hình thức tự biên tự diễn, phục vụ kịp thời như kịch lửa trại, vè độc tấu, ca dao diệt đồn, thơ báng súng.... Cho dù chất lượng nghệ thuật còn hạn chế nhưng không thể phủ nhận rằng vào thời điểm bấy giờ, văn nghệ quần chúng đã đáp ứng thỏa đáng nhu cầu đời sống tinh thần người Việt Nam trong kháng chiến. c/1950-1954: Ðây là những năm văn học gặt hái được nhiều thành tựu rực rỡ, nhất là thơ ca. Các nhà thơ: Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Trần Hữu Thung, Minh Huệ,... đều có tác phẩm hay. Ở lĩnh vực văn xuôi, tiểu thuyết đã có những thể nghiệm bước đầu đáng khích lệ với Con trâu (Nguyễn Văn Bổng), Xung kích (Nguyễn Ðình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm). Phong trào văn nghệ quần chúng sôi nổi và ngày càng sâu rộng vẫn là món ăn tinh thần chính yếu của nhân dân. Thơ bộ đội, thơ của các cây bút dân tộc ít người có một số tác phẩm nổi bật (Dọn về làng - Nông Quốc Chấn, Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui, Em tắm - Bạc Văn Ùi). Các loại hình sân khấu truyền thống cũng bước đầu được phục hồi tuy vẫn còn nặng về hình thức và hiếm kịch bản có giá trị văn học cao. III.Thành tựu văn học Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 1.Thơ ca Ðây là thể loại phát triển thành cao trào mạnh hơn cả với nhiều thành tựu nổi bật. Truyền thống yêu thơ của dân tộc và đặc điểm lịch sử cụ thể của chín năm kháng chiến đã quyết định thực tế ấy. Thơ ca tiếp tục gắn bó với đời sống buồn vui, lúc hạnh phúc cũng như khi gian lao, vất vả của con người Việt Nam. Nhà phê bình Hoài Thanh đã có nhận xét xác đáng: Hầu hết những người mang ba lô lặng lẽ đi trên các nẻo đường kháng chiến trong một quyển sổ tay nào đó thế nào cũng có ít bài thơ... Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ cùng hòa điệu. (Nói chuyện thơ kháng chiến). -Có thể nhận thấy sự khởi sắc của thơ giai đoạn này, trước hết, qua khảo sát phong trào và lực lượng sáng tác. Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ không còn là vương quốc riêng của các nhà thơ chuyên nghiệp. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp đồng thời cũng giải phóng cho nhà thơ, trong cuộc đời cũng như trong sáng tạo nghệ thuật. Sự gặp gỡ giữa lý tưởng Cách mạng và lý tưởng thẩm mỹ của dân tộc là điều kiện khách quan cho sự xuất hiện hình mẫu người nghệ sĩ kiểu mới. Có thể nói : không có thế hệ nhà thơ kiểu mới thì không có thơ ca Cách mạng. Giờ đây, anh cán bộ chính trị, anh cán bộ quân sự, anh công an, anh bình dân học vụ, anh thông tin, anh hỏa thực, các chị phụ nữ, các em thiếu nhi, hết thảy đều làm thơ. (Hoài Thanh - Nói chuyện thơ kháng chiến). -Không khí quần chúng sôi nổi một mặt tạo điều kiện thử thách và khẳng định các tài năng trẻ, mặt khác, góp sức cùng cao trào cách mạng tác động mạnh mẽ vào tâm tư tình cảm của các nhà thơ lãng mạn, giúp hồn thơ họ hồi sinh. Với kinh nghiệm và tài năng đã được khẳng định, đóng góp của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Huy Cận,... tuy chưa thật sự là hơi thở mãnh liệt của thời đại nhưng vẫn có ý nghĩa sâu sắc : khơi gợi lòng yêu nước, hào khí đấu tranh và lòng tự hào dân tộc. Việc hầu hết các nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới tìm đến với Cách mạng, tiếp tục phát huy năng lực sáng tạo, luôn có mặt ở vị trí hàng đầu trận tuyến văn nghệ Cách mạng là một hiện tượng đặc sắc. Ðiều đó chứng tỏ tính ưu việt, sức hấp dẫn mạnh mẽ của chế độ mới và đường lối văn nghệ Cách mạng. -Ở năm đầu sau Cách mạng, thơ tập trung thể hiện niềm vui lớn của dân tộc, ca ngợi Ðảng và Bác Hồ, ca ngợi con người mới, chế độ mới. Nổi bật nhất phải kể đến Tố Hữu với Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt, Hồ Chí Minh ;... Xuân Diệu với hai trường ca Ngọn quốc kỳ và Hội nghị non sông. -Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hòa vào lòng người hăm hở trên trận tuyến chung, có đội ngũ chỉnh tề, khỏe khoắn của các nhà thơ. Mấy năm đầu, nhiều thi sĩ còn gặp khó khăn. Tâm hồn họ chưa hòa nhịp kịp với đời sống kháng chiến sôi nổi, sống động. Các nhà thơ vẫn còn vương vấn với những thi đề quen thuộc, những tình cảm tiểu tư sản xốc nổi, đậm màu sắc anh hùng cá nhân ; cách biểu hiện sáo mòn,... Sương mù của bầu trời tinh thần cũ giờ vẫn còn lẩn quẩn trong vườn thơ Cách mạng, biểu hiện ở những Ðạo rớt, Mộng rớt, Buồn rớt,.... Giữa cảm xúc thơ trong Ngày về (Chính Hữu), Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Tây Tiến (Quang Dũng) với tình cảm chân chất, phơi phới lạc quan trong tư thế anh hùng thời đại mới của quần chúng - còn một khoảng cách nhất định. Bởi lẽ, một khi nhận thức lý trí chưa thật sự hóa thành rung động tình cảm chân thành thì hình tượng nghệ thuật khó có sức lay động mạnh mẽ. -Thực tế kháng chiến đã thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và củng cố lập trường tư tưởng của các nhà thơ, giúp họ ngày càng gần gũi, gắn bó với nhân dân. Lớp trước cách mạng dần bắt kịp và hòa nhập vào đời sống mới. Bên cạnh đó, các nhà thơ trẻ không ngừng tự khẳng định bằng sáng tác có giá trị. Những tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này : Việt Bắc (Tố Hữu) ; Nhớ, Ðất nước (Nguyễn Ðình Thi) ; Bài ca vỡ đất, Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông) ; Ðồng chí (Chính Hữu) ; Nhớ (Hồng Nguyên) ; Thăm lúa (Trần Hữu Thung) ; Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ) ; Dọn về làng (Nông Quốc Chấn) ; Nhớ máu (Trần Mai Ninh).... -Một trong những thành tựu thơ ca kháng chiến nổi bật là sáng tác của Bác Hồ. Người làm thơ vừa để cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân (Thơ tặng các cháu thiếu nhi, Khuyên thanh niên, Tặng các cụ du kích, Gửi nông dân), vừa nhằm thỏa mãn một phần nhu cầu đời sống tinh thần phong phú của mình (Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Nguyên Tiêu, Báo tiệp, Thu dạ, Ðăng Sơn). Những sáng tác này góp phần làm nổi rõ ở Bác một tâm hồn nghệ sĩ hết sức tinh tế, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và con người Việt Nam. a.Về nội dung tư tưởng, thơ ca 1945-1954 luôn gắn bó chặt chẽ, phản ánh chân thực và sinh động hiện thực kháng chiến hoành tráng. Lần giở những trang thơ, có thể gặp lại bước đường của lịch sử. Khác với thơ lãng mạn trước đó, thơ ca kháng chiến phát triển trên nền hiện thực tâm trạng của nhân dân. Từ chỗ thơ Mới chỉ bộc lộc cái Ðẹp trong từng con người riêng lẻ, trường cảm xúc giờ đây được mở rộng; phạm vi phản ánh cũng bao gồm từ nơi sâu kín tâm hồn người cho tới khoảng rộng bao la của cả đất nước, dân tộc. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Các thi sĩ đã đưa được không khí thời đại mới mẻ, khỏe khoắn vào thơ. Khuynh hướng sử thi ngày càng nổi rõ. Thơ tập trung thể hiện tâm tình phơi phới tin yêu, lạc quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng ; những ước mơ, khát vọng cháy bỏng ; những sắc thái tình cảm cao cả trong cuộc chiến đấu tuy gian khó nhưng vô cùng anh dũng. - Cảm hứng thơ chủ yếu hướng ngoại, chú ý nhiều đến tình cảm công dân nên ít nói tới con người trong đời sống riêng tư. Tình yêu lứa đôi cũng như mọi cung bậc tình cảm khác đều được cảm nhận thông qua tình đồng chí. Do đó, trong khi mặt chói sáng của hiện thực được phản ánh sinh động thì chiều sâu đời sống, ở đó có nỗi buồn mất mát, chia lìa - chất bi tráng - lại chưa được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, sự phiến diện ở đây là tự giác và cần thiết. Hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết hi sinh cái riêng tư, vì vận mệnh đất nước. Thơ ca không thể đứng ngoài sự hi sinh vĩ đại ấy. Không có gì quí hơn độc lập tự do, các nhà thơ sẽ chẳng được ngợi ca nếu chỉ chuyên tâm sáng tác nhiều thơ mà để nước mất, dân nô lệ một lần nữa. - Nhân vật trữ tình trong thơ kháng chiến nghĩ suy và hành động chủ yếu hướng về số phận tổ quốc. Các nhà thơ đặc biệt khơi gợi, đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức làm chủ và quyết tâm xả thân (Ðất nước - Nguyễn Ðình Thi ; Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông ; Bên kia sông Ðuống - Hoàng Cầm ; Ðôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng). -Tình yêu nước, trước hết, được thể hiện rất đậm nét qua tình cảm đối với những con người trong kháng chiến. Ðó là những con người vừa bình thường, chân chất vừa phi thường, chói sáng. Truyền thống cha ông và khí phách của giai cấp vô sản được kết tinh ở người anh hùng thời đại mới. Tiêu biểu hơn cả là hình ảnh người Vệ quốc quân. Tầm cao tư tưởng và chiều sâu tâm hồn của hình tượng người Việt Nam được tập trung làm nổi bật ở hai phương diện : phẩm chất cách mạng tốt đẹp và tình nghĩa quân dân thắm thiết. -Ðặc biệt, tình yêu nước còn được thể hiện đầy xúc động qua lòng kính yêu Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều bài thơ hay về Bác : Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm (Tố Hữu) ; Ảnh cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu) ; Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc Chấn); Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng cao đẹp về lãnh tụ, đó là một con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh mông và lối sống giản dị, khiêm tốn. b.Nghệ thuật biểu hiện của thơ ca 1945-1954 cũng có những vận động, biến chuyển mới - trên cơ sở phát huy thành tựu của thời kỳ trước - để tương ứng với nội dung tư tưởng, tình cảm mới. Dưới ánh sáng của quan niệm nghệ thuật cách mạng, yêu cầu về tính đại chúng, tính dân tộc được đặc biệt chú trọng. - Thể thơ ngày càng phong phú. Các thể thơ cổ (thất ngôn tứ tuyệt, bát cú, cổ phong) hiện diện bên cạnh những tìm tòi mới mẻ (thơ không vần, phá thể, hợp thể, tự do). Những thể truyền thống như lục bát, ngũ ngôn được sử dụng phổ biến. - Hình tượng thơ, cảm hứng thơ không còn màu sắc yêng hùng, lãng mạn của những năm đầu kháng chiến ; trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về người anh hùng thời đại mới. - Ngôn ngữ thơ chuyển dần từ tình trạng hoa mỹ, cầu kỳ, tượng trưng, ước lệ sang đời thường, tự nhiên, phong phú đến vô cùng. Lời ăn tiếng nói của quần chúng hàng ngày được chú ý vận dụng trong quan niệm thẩm mỹ mới mẻ.  Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Không ít tác phẩm sẽ bất tử với thời gian. Tuy nhiên, xét trên đại thể, vì là thời kỳ mở đầu của nền văn học mới, nên không thể tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Cảm xúc rất tinh nhạy, mãnh liệt nhưng đôi khi lại chưa sâu, chưa chín ; thành ra thơ thường có sức vang xa, ít vọng sâu. Mặt khác, nhiệt tình công dân và cảm xúc nghệ thuật ở người nghệ sĩ không phải lúc nào cũng đạt đến độ hài hòa cần thiết. 2. Truyện ký a. Hiện thực cách mạng là mảnh đất màu mỡ, vô tận. Mẫu người lý tưởng của thời đại mới dần khẳng định trên khắp các lĩnh vực đời sống. Truyện ký có điều kiện tốt để phát triển, vạm vỡ hẳn lên với hai chặng cụ thể như sau : -1946-1948 : thời kỳ nhận đường. Văn nghệ sĩ đang trong quá trình vận động, giải quyết dứt khoát những ám ảnh cũ để đến với nhân dân, với kháng chiến. Sáng tác chủ yếu là ký : Nhật ký (Nguyễn Huy Tưởng) ; Ở rừng (Nam Cao) ; Một đêm vào tề, Tháp Rùa giữa rừng (Nguyễn Tuân). Một số truyện ngắn nổi bật : Làng (Kim Lân) ; Ðôi mắt (Nam Cao). - 1949-1954 : thời kỳ được mùa, đánh dấu bằng nhiều tác phẩm đặc sắc, ở nhiều thể loại. Ký : Trận phố Ràng (Trần Ðăng) ; Voi đi (Siêu Hải) ; Ðường vui, Tình chiến dịch (Nguyễn Tuân) ; Ngược sông Thao (Tô Hoài) ; Ký sự Cao lạng (Nguyễn Huy Tưởng); Truyện ngắn : Thư nhà (Hồ Phương); Truyện Tây Bắc (Tô Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Hoài); Xây dựng (Nguyễn Khải) ;... Tiểu thuyết Xung kích (Nguyễn Ðình Thi) ; Vùng mỏ (Võ Huy Tâm) ; Con trâu (Nguyễn Văn Bổng);.... b. Truyện, ký thời kỳ này thể hiện một khuynh hướng tiếp cận, khám phá đời sống mới mẻ, cả ở bề rộng lẫn bề sâu. - Những năm đầu sau cách mạng, nhiều vấn đề có tính thời sự được đặt ra: sự đổi thay về quan niệm sống và sáng tác (Ngày đầy tuổi tôi cách mạng, Lột xác - Nguyễn Tuân) ; cuộc đấu tranh giằng co giữa hai khuynh hướng cũ - mới trong việc nhận đường (Ðôi mắt - Nam Cao). Một số tác phẩm trở lại với đề tài xã hội tăm tối trước 1945, nhằm đánh tan ảo tưởng vào trật tự cuộc sống cũ và giáo dục lòng yêu mến chế độ mới (Lò lửa và địa ngục - Nguyên Hồng ; Mò sâm banh - Nam Cao; Vợ nhặt - Kim Lân ; Truyện Tây Bắc - Tô Hoài). Càng về sau, đề tài của văn xuôi càng phong phú hơn, bao quát hầu hết các vấn đề nổi cộm của đời sống : chiến đấu và sản xuất, phản đế và phản phong, tiền tuyến và hậu phương, nỗi đau mất mát và niềm vui chiến thắng,... - Cuộc sống chiến đấu, nổi bật lên hình tượng người lính cụ Hồ là mảng đề tài tập trung nhiều tâm huyết của các nhà văn. Vẻ đẹp chân chính toát ra từ hình tượng là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. (Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị - Trần Ðăng; Ðường vui, Tình chiến dịch Nguyễn Tuân; Ký sự Cao Lạng - Nguyễn Huy Tưởng ; Xung kích - Nguyễn Ðình Thi ; Thư nhà - Hồ Phương). - Nông thôn và người nông dân kháng chiến được phản ánh trong tầm tư tưởng mới, vừa truyền thống vừa hiện đại. Con người mới trong sản xuất, xây dựng được chú ý phát hiện và đề cao (Làng - Kim Lân ; Con trâu - Nguyễn Văn Bổng). - Hình tượng con người mới trong văn xuôi 1945-1954 có những đặc điểm khá nổi bật. Lần đầu tiên trong văn học, lớp lớp con người bình thường, chân chất xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau (trí thức, nông dân, công nhân) được xây dựng thành nhân vật trung tâm. Họ tượng trưng cho sự quật khởi đầy ý thức của giai cấp và tiêu biểu cho sức mạnh, vẻ đẹp của dân tộc, thời đại. Thông qua hình tượng đám đông, văn học làm rõ những nét tính cách, tâm lý chung rất dân tộc và cách mạng : thủy chung tình nghĩa không chỉ với gia đình, người thân, làng xóm mà cả với đất nước, quê hương ; không chỉ yêu nước, căm thù giặc trên cơ sở tình dân tộc, nghĩa đồng bào mà còn mở rộng đến ý thức vô sản ở tầm quốc tế. Mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh đã khác trước. Con người không còn là nạn nhân đáng thương hoặc phản kháng tự phát trước hoàn cảnh mà đã xuất hiện trong tư thế chủ nhân chân chính, giác ngộ ngày càng sâu sắc, tự giải phóng mình và góp phần giải phóng dân tộc, giai cấp (Xung kích, Vùng mỏ, Con trâu, Truyện Tây Bắc). c. Thể loại của văn xuôi cũng có những phát triển đáng ghi nhận. Nếu trong mấy năm đầu, ký và truyện ngắn chiếm ưu thế, thì dần về sau, xuất hiện những thể loại dài hơi hơn như truyện vừa, tiểu thuyết. Theo đó, khả năng bao quát hiện thực - biểu hiện sự trưởng thành của văn xuôi kháng chiến - được khẳng định. IV.Kết luận Văn học Việt Nam 1945-1954 đã phát triển mạnh mẽ và độc đáo theo cách riêng, với phẩm chất mới về nội dung và hình thức. Văn học thực sự trở thành món ăn tinh thần, vừa thể hiện khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng vừa bồi đắp thêm niềm tin cho quần chúng cách mạng. Trong quá trình phát triển, văn học có sự kết hợp hài hòa giữa phổ cập và nâng cao, giữa truyền thống và sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật ngày càng phù hợp với cuộc sống chứng tỏ tính ưu việt của phương pháp sáng tác mới. Văn học vận động theo hướng dân tộc hóa, đại chúng hóa. Năm tháng qua đi với nhiều biến động lịch sử ảnh hưởng tới đời sống văn học nhưng, cho đến nay và chắc chắn nhiều năm nữa về sau, thơ văn kháng chiến chống Pháp vẫn còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn chúng ta. Bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động, văn học đã góp phần đắc lực vào sự nghiệp chung ; giáo dục tinh thần yêu nước và động viên ý chí chiến đấu, bảo vệ tổ quốc. Trong ý nghĩa của bước khởi đầu, giai đoạn 1945-1954 đặt được nền móng vững chắc, đảm bảo sự phát triển rực rỡ của văn học cách mạng những năm về sau.. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Hoàng Trung Thông BAO GIỜ TRỞ LẠI Các anh đi Ngày ấy đã lâu rồi Xóm làng tôi còn nhớ mãi Các anh đi Bao giờ trở lại Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong Làng tôi nghèo Nho nhỏ bên sông Gió bắc lạnh lùng Thổi vào mái rạ Làng tôi nghèo Gió mưa tơi tả Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi Các anh về mái ấm nhà vui Tiếng hát câu cười Rộn ràng xóm nhỏ Các anh về tưng bừng trước ngõ Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau Mẹ già bịn rịn áo nâu Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về Từ lưng đèo Dốc núi mù che Các anh về Xôn xao làng tôi bé nhỏ Nhà lá đơn sơ Nhưng tấm lòng rộng mở Nồi cơm nấu dở Bát nước chè xanh Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau Anh giờ đánh giặc nơi đâu Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên Làng tôi thắng lợi vụ chiêm Lúa thêm xanh ngọn, khoai lên thắm vồng Giảm tô hai vụ vừa xong Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường Dẫu rằng núi gió đèo sương So anh máu nhuộn chiến trường thấm chi Bấm tay tính buổi anh đi Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ? Lúa xanh xanh ngắt chân đê Anh đi là để giữ quê quán mình Cây đa, bến nước, sân đình Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường Hoa cau thơm ngát đầu nương Anh đi là giữ tình thương dạt dào Các anh đi Khi nào trở lại Xóm làng tôi Trai gái vẫn chờ mong Chờ mong chiến dịch thành công Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ Lop11.com. Anh đi chín đợi mười chờ Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?. -------------BÀI CA VỠ ĐẤT Chúng ta đoàn áo vải Sống cuộc đời rừng núi bấy nay. Đồng xanh ta thiếu đất cày, Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng. Tháng ngày ta góp sức chung. Vun từng luống đất cuốc từng gốc cây. Đường xa ta tới đây Trên đồi cây khát nắng, Giữa hai dòng suối vắng Đoàn ta vui cấy cày. Bàn tay lao động Ta gieo sự sống Trên từng đất khô. Bàn tay cần cù. Mặc dù nắng cháy. Khoai trồng thắm rẫy Lúa cấy xanh rừng, Hết khoai ta lại gieo vừng. Không cho đất nghỉ, không ngừng tay ta. Suối chảy quanh ta Tiếng suối ngân nga Hòa theo gió núi. Ta đào mương mở suối Tuổi ta là những tuổi đấu tranh. Cho dù bạc áo nông binh Vẫn còn vỡ đất cấy xanh núi đèo. Chim reo trong lá Hòn đã cheo leo. Chúng ta một lớp người nghèo. Giữa chiều nắng gió Đào cây cuốc cỏ, Tỉa đỗ trồng khoai. Ngày còn dài Còn dai sức trẻ. Cuốc càng khỏe, Càng dễ cày sâu. Hát lên ta cuốc cho mạu Nhanh tay ta cuốc ta đào đất lên. Bàn tạy ta làm.nên tất cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. Ta vui mùạ lúa thơm, Ta mừng ngày quả chin, Gửi ra người tiền tuyến Diệt quân thù, gối đất nằm sương. Máu ai nhuộm thắm sao vàng Mồ hôi ta đổ xuống hang rau tươi. Rừng xanh xanh cả máu người. Còn mùa lúa tốt còn tươi áo chàm. -----------------------.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Nguyễn Đình Thi. Lòng bàn tay Khắc ấn chuỗi dao găm. Chân bọc sắt, Mắt khoét thủng đêm dày. NHỚ Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người. -------------Trần Mai Ninh. Túi chứa cả Nha Trang… họ bước Vương Gia Ngại… Cung Giũ Nguyên Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa! Cả một đàn chó ghẻ Sủa lau nhau Và lần lượt theo nhau Chết không ngáp! Dao găm để gáy, Súng màng tang. NHỚ MÁU Ơ cái gió Tuy Hoà… Cái gió chuyên cần Và phóng túng. Gió đi ngang, đi dọc, Gió trẻ lại - lưng chừng Gió nghỉ, Gió cười, Gió reo lên lồng lộng. Tôi đã thấy lòng tôi dậy Rồi đây Còn mấy bước tới Nha Trang - A, gần lắm! Ta gần máu, Ta gần người, Ta gần quyết liệt. Ơi hỡi Nha Trang! Cái đô thành vĩ đại Biết bao người niệm đọc tên mi. Và Khánh Hoà vĩ đại! Mắt ta căng lên Cả mặt Cả người, Cả hồn ta sát tới Nhìn mi! Ta có nhớ Những con người Đã bước vào bất tử! Ơ, những người! Đen như mực, đặc thành keo Tròn một củ Hay những người gầy sắt lại Mặt rẹt một đường gươm Lạnh gáy,,,. Ồng ộc xối đầy đường máu chó. Chúng nó rú. Cả trại giặc kinh hoàng ------------Hồng Nguyên. NHỚ Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi "một hai" Súng bắn chưa quen Quân sư mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến. Lột sắt đường tàu Rèn thêm dao kiếm Áo vải chân không Đi lùng giặc đánh Ba năm rồi gửi lại quê hương Mái lều gianh Tiếng mõ đêm trường Luống cày đất đỏ Ít nhiều người vợ trẻ Mòn chân bên cối gạo canh khuya Chúng tôi đi Nắng mưa sờn mép ba lô Tháng năm bạn cùng thôn xóm Nghỉ lại lưng đèo Nằm trên dốc nắng Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa - Đằng nớ vợ chưa? - Đằng nớ? Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> - Tớ còn chờ độc lập! Cả lũ cười vang bên ruộng bắp Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu... Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng Tôi nhớ bờ tre gió lộng Làng xuôi xóm ngược, mái rạ như nhau Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau Có tiếng gà gáy xóm Có "khai hội, yêu cầu, chất vấn" Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa Trăng lên tập hợp hát om nhà... Tôi nhớ Giường kê cánh cửa Bếp lửa khoai vùi Đồng chí nứ vui vui Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ Đồng chí mô nhớ nữa Kể chuyện Bình Trị Thiên Cho bầy tôi nghe ví Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí - Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri! Đêm đó chúng tôi đi Nòng súng nghiêng nghiêng Đường mòn thấp thoáng... Trong Điếm nhỏ mươi người trai tráng Sờ chuôi lựu đạn Ngồi thổi nùn rơm Thức vừa rạng sáng Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi... Chúng tôi đi nhớ nhất câu ri Dân chúng cầm tay lắc lắc: "Độc lập nhớ rẽ viền chơi với chắc"! ------------------Trần Hữu Thung THĂM LÚA Mặt trời càng lên tỏ Bông lúa chín thêm vàng Sương treo đầu ngọn gió Sương lại càng long lanh. Bay vút tận trời xanh Chiền chiện cao cùng hót Tiếng chim nghe thánh thót Văng vẳng khắp cánh đồng Đứng chống cuộc em trông Em thấy lòng khấp khởi Bởi vì em nhớ lại Một buổi sớm mai ri Anh tình nguyện ra đi Chiền chiện cao cùng hót Lúa cũng vừa sẫm hột Lop11.com. Em tiễn anh lên đường Chiếc xắc mây anh mang Em nách mo cơm nếp Lúa níu anh trật dép Anh cúi sửa vội vàng Vượt cánh đồng tắt ngang Đến bờ ni anh bảo "Ruộng mình quên cày xáo Nên lúa chín không đều Nhớ lấy để mùa sau Nhà cố làm cho tốt" Xa xa nghe tiếng hát Anh thấy rộn trong lòng Sắp đến chỗ người dông Anh bảo em ngoái lại Cam ba lần ra trái Bưởi ba lần ra hoa Anh bước chân đi ra Từ ngày đầu phòng ngự Bước qua kì cầm cự Anh có gửi lời về Cầm thư anh mân mê Bụng em giừ phấp phới Anh đang mùa thắng lợi Lúa em cũng chín rồi Lúa tốt lắm anh ơi Giải thi đua em giật Xoè bàn tay bấm đốt Tính cũng bốn năm ròng Ai cũng bảo đừng mong Riêng em thì vẫn nhớ Chuối đầu vườn đã lổ Cam đầu ngõ đã vàng Em nhớ ruộng nhớ vườn Không nhớ anh răng được Mùa sau kề mùa trước Em vác cuốc thăm đồng Lúa sây hạt nặng bông Thấy vui vẻ trong lòng Em mong ngày chiến thắng. (1-1-1950) ----------------Chính Hữu. NGÀY VỀ Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội Bao giờ trở lại? Phố phường xưa gạch ngói ngang đường Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa Mái đầu xanh thề mãi đến khi già Phơi nắng gió. Và hoa ngàn cỏ dại Nghe tiếng gọi của những người Hà Nội Trở về, trở về, chiếm lại quê hương Nguy nga sao cái buổi lên đường Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc A ha! nhà xiêu mái sập Xác oan cừu ngập lối chân đi Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly Bước căm giận xéo quân thù lớp lớp Mịt mù khói ngợp Cờ máu huy hoàng Phất nắng Ôi bài chiến thắng reo vang. 1947 ---------------Hữu Loan MÀU TÍM HOA SIM Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê… Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng. Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa… Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường đông bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da diết Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu Áo anh nát chỉ dù lâu… (1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh) -----------------------Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Quang Dũng. Hoan hô! Hoan hô! Nhìn không chớp mắt. Có cả người mũi lõ tóc quăn, Hai con mắt màu gio như lính Pháp (3) Lại có Cụ Già chân đi đất, Mặc bộ quần áo Nùng, Tay cầm cái gậy mây rừng, Miệng ngậm một điếu can không khói, Bộ râu dài vừa trắng vừa đen, Chân tay nhanh nhẹn như thanh niên... Cụ Già cười, vẫy chào người đứng đón Dân chúng rỉ tai nhau: Bộ đội gì toàn những người lạ lạ? Có lẽ đây là người "Gốc trỏ" (4). Khi ăn cơm chiều, Bộ đội đếm: một, hai... ngồi trật tự. Cụ đi từng bàn xem bát đũa. Cho thổi còi, rồi Cụ ăn sau. Mọi người rủ nhau Đốt đuốc đến xem quân Ông Cụ. Người già đến, Cụ mời ngồi niềm nở, Trẻ con lại, Cụ bế xoa đầu. Cụ nói, dân nghe rõ từng câu "Muốn cách mệnh thành công mau! Ta phải đoàn kết như bó đũa...!" Gà đã gáy lượt đầu, Nhưng tiếng vỗ tay còn như nứa nổ. Còn vang vang tiếng hát của thiếu nhi. Hôm sau, Cụ rời bản lên đường, Cho bộ đội xếp hàng, Cụ cảm ơn, Cụ trả tiền - dù chủ nhà không nhận; Cụ bắt tay từng người. Cụ đi khỏi rồi, Ai cũng thương nhớ, Người hỏi người không ai biết rõ: "Tên Cụ Già là chi? Tóc bạc vẫn còn đi, "Nhất định đây là người "Pỏ cốc (5)"! "Dân ta sắp tới ngày Độc lập". Bước sang rằm tháng bảy, Nhận được một tin mừng: "Giải phóng quân đã vào Hà Nội" "Khắp nơi mở hội tưng bừng...! Có nhiều ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh! Nhìn đôi mắt, bộ râu, ta nhớ nhớ Giống Cụ Già trước đến bản ta! Đúng! Đích đúng! Đây là Ông Cụ! Sung sướng thay! Bản ta toàn nam nữ Lần đầu tiên đã được đón Bác Hồ Chúng ta xin gửi một bức thư. Đôi Mắt Người Sơn Tây Em ở thành Sơn chạy giặc về Tôi từ chinh chiến cũng ra đi Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì Vừng trán em vương trời quê hương Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm Em đã bao ngày em nhớ thương ? Mẹ tôi, em có gặp đâu không ? Bao xác già nua ngập cánh đồng Tôi nhớ một thằng con bé dại Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông ! Từ độ thu về hoang bóng giặc Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn ! Đất đá ong khô nhiều suối lệ Em đã bao ngày lệ chứa chan ? Đôi mắt người Sơn Tây U ẩn chiều lưu lạc Buồn viễn xứ khôn khuây Tôi gửi niềm nhớ thương Em mang giùm tôi nhé Ngày trở lại quê hương Khúc hoàn ca rớm lệ Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng Bao giờ tôi gặp em lần nữa Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ Còn có bao giờ em nhớ ta ----------Nông Quốc Chấn. Bộ đội ông cụ Đồ ăn đã sắm đủ rồi Măng vầu, phiắc pàn (1) nõn chuối, Lợn bò, gạo nếp, gạo nương... Các bản người người đưa tới, Làng như sắp đám cưới! Lần này nhộn nhịp hơn mọi khi. Tại sao? Ta sẽ đón người gì? Ai cũng mong để được xem bộ đội. Cơm trưa xong, nắng lui về ngọn núi Anh giao thông đến đưa gói thư Tin bay đi bản trên xóm dưới Già già trẻ trẻ đợi hoan hô, Lớp học tan, tiếng ríu rít của học trò, Tiếng của đồng bào gọi nhau tập hợp. Bộ đội đã đến kia! A lúi! Những người là người (2)! Đeo súng ngắn, súng dài, súng dóp... Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Rằng: "Cả bản mường vẫn nhớ lời Người nói". (1)Tên một loại rau trong rừng, thường ăn độn với nõn chuối.. (2) "A lúi" là tiếng trầm trồ khi thấy cái gì lạ. (3) Mấy người Mỹ (danh nghĩa đồng minh) cùng đánh Nhật. (4) "Gốc trỏ" nghĩa là ông tổ. (5) Nghĩa là người đứng đầu. Hình tượng người lính trong thơ kháng chiến chống Pháp Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân tộc. Chiến tranh đã đi qua trên mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa thu nay tươi đẹp của hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng người bao chiến công của những chiến sĩ mùa thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng chiến chống Pháp với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã dựng nên tượng đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ Cách mạng. Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân tộc. Chiến tranh đã đi qua trên mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa thu nay tươi đẹp của hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng người bao chiến công của những chiến sĩ mùa thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng chiến chống Pháp với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã dựng nên tượng đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ Cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, người trai lên đường ra chiến trận theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ chủ tịch kính yêu – lời kêu gọi của non sông. Lòng người không khỏi luyến tiếc cảnh thanh bình cũ khi bước chân lên đường vào mặt trận. Đó là mùa thu Hà Nội đầy lưu luyến : Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác heo may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi ) Hay một làng quê Kinh Bắc trù phú, tươi đẹp, nay đã chìm trong máu lửa của quân thù : Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. ( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm ) Quê hương càng tươi đẹp thì lòng người càng xót xa nhớ tiếc và quyết ra đi để dẹp tan kẻ thù giày xéo quê hương. Cảm hứng lãng mạn với khí khái “tráng sĩ” là cảm hứng chủ đạo về hình tượng người lính những ngày đầu cách mạng. Người chiến sĩ mang dáng dấp của chàng Kinh Kha năm xưa khi bước chân vào mặt trận : Thôi hãy lên đường tráng sĩ ơi ? Quê hương mong đợi đã bao đời Biên thùy nghe dậy niềm ai oán Gươm hận mài chưa ? Khát máu rồi. ( Biết gửi đưa ai – báo Vệ Quốc ) Đó là tâm trạng của những ngày đầu xung trận còn vương lại chút mơ mộng của thời thanh bình đã mất Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa Mái đầu xanh thề mãi đến khi già Phơi nắng gió hoa ngàn cỏ dại. ( Ngày về – Chính Hữu ) Họ đi vào chiến trường với những hình ảnh đẹp nhất, anh dũng nhất và cũng đầy chất lãng mạn nhất : Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. ( Tây Tiến – Quang Dũng ) Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Đó là hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân đầy gian khổ : ăn đói, mặc rét, sốt rét đến xanh da trụi tóc. Người chiến sĩ vô danh ấy vẫn tiếp bước trên đường với lòng yêu nước khôn nguôi, cho dù có phải nằm lại nơi chiến trường : Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. ( Tây Tiến – Quang Dũng ) Nhưng rồi bom đạn, chết chóc, chiến tranh ngày càng ác liệt hơn. Hiện thực cuộc sống đã khiến cho họ không còn những mơ mộng của ngày đầu nhập ngũ. Hình tượng thơ có sự vận động đi từ lãng mạn đến hiện thực. Điều đó cũng là điều phù hợp với những vận động biến đổi trong tâm hồn người chiến sĩ. Như chính Chính Hữu tâm sự : “ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, là chính trị viên, hằng ngày tôi phải chăm nom chôn cất những đồng đội của tôi đã hy sinh và tôi có nhận xét : bạn tôi, không có người nào chết trong động tác nằm ngủ, trong tư thế nghỉ ngơi. Họ đều hy sinh trong khi đang bắn, hoặc ôm bộc phá xông lên. Nhận xét này đã trở thành sự day dứt, âm ỉ, nó trở thành một vấn đề trách nhiệm. Và một lúc nào đó, từ trong kỷ niệm, một cách bất ngờ nhất, nó đã hiện lên thành những câu trọn vẹn : Bạn ta đó Chết trên dây thép ba từng Một bàn tay chưa rời báng súng Chân lưng chừng nửa bước xung phong Ôi những con người mỗi khi nằm xuống Vẫn nằm trong tư thế tiến công Đó là hình ảnh đeo đuổi suốt đời tôi về những cái chết, chỉ có tác dụng thôi thúc chúng ta đứng lên”. Có lẽ vì vậy mà hình ảnh người chiến sĩ không còn gắn với “bụi trường chinh” và “áo hào hoa” nữa, mà đã trở thành người Vệ quốc quân trong tình đồng chí, đồng đội, cùng chiến đấu vì lòng yêu tổ quốc : Anh với tôi, đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, Súng bên súng, đầu gác bên đầu, Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ Đồng chí ! ( Đồng chí – Chính Hữu ) Từ khắp mọi miền đất nước, những con người yêu nước tụ hội với nhau trong cuộc kháng chiến gian khổ. Họ là những thanh niên trí thức Hà thành, lên đường theo tiếng gọi nhập ngũ : Kháng chiến bùng lên biệt thủ đô Lên đường dẻo bước khoác ba lô ( Tự thuật – Tú Mỡ ) Hay những người nông dân chân chất, “chưa biết chữ”, “súng bắn chưa quen”, “quân sự mươi bài”. Tất cả người con đất Việt đã đến và chiến đấu vì đất mẹ yêu thương : Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi “một hai” Súng bắn chưa quen, Quân sự mươi bài, Lòng vẫn cười vui kháng chiến. ( Nhớ – Hồng Nguyên ) Phần lớn họ ra đi từ những làng quê nghèo khó : Quê hương anh đất mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá ( Đồng chí – Chính Hữu ) Họ bỏ lại đó là cả quãng đời chìm trong đói khổ, là cuộc sống nông thôn đầu tắt mặt tối mà không đủ no : Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay ( Đồng chí – Chính Hữu ) Hay : Mái lều gianh, Tiếng mõ đêm trường, Luống cày đất đỏ Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Ít nhiều người vợ trẻ Mòn chân bên cối gạo canh khuya ( Nhớ – Hồng Nguyên ) Bản thân họ thì thiếu thốn, cực khổ trăm bề, bệnh tật khổ sở : Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán đẫm mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày ( Đồng chí – Chính Hữu ) Ngay cả đến trang bị họ cũng phải “Lột sắt đường tàu, Rèn thêm đao kiếm”. Từ chỗ nghèo khó họ trở thành những người tri kỷ, cùng chung chí hướng “cùng nhau chung sống căm thù giết Tây”. Họ chia nhau từng hơi ấm đôi bàn tay Thương nhau tay nắm lấy bàn tay rồi lại : Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa ( Nhớ – Hồng Nguyên ) Những mất mát của họ thật là to lớn. Không biết bao nhiêu đồng đội của họ đã lần lượt hy sinh, vĩnh viễn nằm lại chiến trường : Hôm qua còn theo anh Đi ra đường quốc lộ Hôm nay đã chặt cành Đắp cho người dưới mộ ( Viếng bạn – Hoàng Lộc ) Kể sao cho hết nỗi đau của người chiến sĩ khi hay tin những người thân yêu của mình đã mất dưới bom đạn của kẻ thù. Tuy có bi thảm, đau thương, nhưng chính điều đó lại càng tố cáo mạnh mẽ hơn tội ác của kẻ thù, càng nung nấu mãnh liệt hơn ý chí “căm thù giặc” nơi người Vệ quốc quân. Hình ảnh của những người em gái, những người yêu mãi mãi nằm xuống đi vào thơ ca như những hình ảnh xúc động nhất. Đó là người vợ trẻ nơi hậu phương ngã xuống : Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người em nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương…tàn lạnh vây quanh. ( Màu tím hoa sim – Hữu Loan ) Hay người em gái chết anh dũng nơi quê nhà : Mới đến đầu ao, tin sét đánh Giặt giết em rồi, dưới gốc thông Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa Em sống trung thành, chết thủy chung. ( Núi đôi – Vũ Cao ) Đó là nỗi căm hận họ đành chôn kín vào lòng : Ai biến tên em thành liệt sĩ Bên những hàng bia trắng giữa đồng Nhớ nhau anh gọi : em, đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. ( Núi đôi – Vũ Cao ) Những đau thương mất mát đó như tiếp thêm sức mạnh cho họ nơi chiến tuyến để tìm câu trả lời cho những đau thương của họ và cả dân tộc. Họ lao vào chiến dịch với thế tiến công như nước vỡ bờ như Nguyễn Đình Thi kể lại : “Hình ảnh những đoàn dân công tới tấp đến chiến trường, bộ đội ào ào đi vào chiến dịch gợi lên một cái gì rất mạnh mẽ của không khí tức nước tràn bờ Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi ) Tôi viết : “Người lên như nước vỡ bờ!” chính là nói đến sức mạnh ấy của quân đội ta, của quần chúng cách mạng”. Đó là khí thế hừng hực đấu tranh của những ngày khói lửa : Những đồng chí, thân chôn làm giá súng Đầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão, Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Những đồng chí chè lưng cứu pháo Nát chân nhắm mắt còn ôm Những bàn tay xẻ núi, lăn bom Nhất định, mở đường, cho xe ta lên chiến trường tiếp viện. ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu ) Những ngày chiến đấu anh dũng đã bộc lộ một cách rực rỡ hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ cụ Hồ: kiên trì vượt qua mọi nguy hiểm, anh dũng quên mình vì nhiệm vụ. Càng gian khổ, đau thương càng thắp sáng trong họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng, họ vẫn tiếp tục chiến đấu với tâm thế lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi trước mắt của dân tộc. Hình tượng người lính càng về giai đoạn sau càng tỏa sáng vẻ đẹp của một quân đội trưởng thành về việc quân cũng như càng thể hiện tinh thần “vì nước quên thân” của anh bộ đội. Đó là cuộc sống người lính chịu cực khổ nơi chốn rừng sâu vẫn bám trụ với làng bản, với dân, giữ vững tinh thần của người dân sau khi sự tàn phá của giặc đã đi qua : Có đêm gió bấc lạnh lùng Áo quần rách nát lá dùng che thân Khó khăn đau ốm muôn phần Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi Có phen giặc chạy tơi bời -----------------------------------------Bài 1:. TÂY TIẾN (Quang Dũng). I. Tác giả Quang Dũng (1921 - 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm (tức Dậu).Quê ở Đan Phượng, Hà Tây. Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc...Năm 2001, được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.Tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ - 1986), Mùa hoa gạo, Tuyển thơ văn Quang Dũng (1988). II. Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến - Thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng là đại đội trưởng. Thành phần: đa số là thanh niên Hà Nội, trong đó có sinh viên và học sinh. - Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở Thượng Lào, miền Tây Bắc bộ Việt Nam, góp phần bảo vệ biên giới Lào - Việt. - Địa bàn hoạt động: khá rộng, gồm Sơn La, Hòa Bình, Sầm Nứa (Lào) vòng về miền tây Thanh Hóa. - Điều kiện chiến đấu gian khổ: núi cao, vực thẳm, rừng dày, thú dữ, sốt rét hoành hành.. III. Hoàn cảnh ra đời bài thơ Năm 1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52.Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh Quang Dũng sáng tác bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi tên thành Tây Tiến.. IV. Phân tích Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn là niềm lạc quan, yêu đời, đạp bằng tất cả những gian khổ, hi sinh mất mát, hướng về tương lai hi vọng. Cảm hứng bi tráng (bi hùng): vừa bi thương lại vừa hào hùng, anh dũng. 1.Khổ 1 ( Sông Mã ... nếp xôi) a/ Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi -Vần "ơi", kết hợp từ láy "chơi vơi" là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt, câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con sông. - Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh, vất vả của người lính Tây Tiến. Gọi tên Tây Tiến là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè. -Điệp từ "nhớ" được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào. Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả: Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> -Ca dao có câu: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than -Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương -Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả - nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ. Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa. b/Nhớ cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây hùng vĩ -Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu... gợi bao cảm xúc mới lạ, tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa hạt heo hút, hoang dại để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính. -6 câu thơ tiếp theo "Sài khao....xa khơi" diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi rừng miền Tây. 6 câu thơ này là bằng chứng đặc sắc của thi trung hữu họa (trong thơ có họa): +Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm: Sài Khao sương...... Mường Lát......... + Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng: đi trong sương, trong hoa đêm hơi. Dốc lên...... Heo hút... Ngàn thước... Nhà ai... + Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình khúc khuỷu (quanh co khó đi), thăm thẳm (diễn tả độ cao, độ sâu), heo hút (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm (bảy chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh. + Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: "súng ngửi trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!". Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức. + Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống", làm câu thơ như bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ - chiến sĩ. + Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn. + Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do  Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương. Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> + Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu: "Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" "Chiều chiều..." rồi "đêm đêm" nhưng âm thanh ấy, thác gầm thét, cọp trêu người, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn. - Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào: "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" + "Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến "đoàn binh không mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản Mường với "cơm lên khói", với "mùa em thơm nếp xôi" có bao giờ quên? Hai tiếng "mùa em" là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. + "Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.  Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...". 2. Khổ 2 ( Doanh trại...đong đưa) a/Bốn câu đầu: đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân. -Từ bừng lên gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành đuốc hoa (Đuốc hoa là hoa chúc - cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn.)gợi không khí ấm cúng. Bừng chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. -Từ kìa em thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục xiêm áo lộng lẫy cùng dáng vẻ e ấp rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng e ấp, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn man điệu đã xây hồn thơ trong lòng các chàng lính trẻ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Họ càng yêu đời hơn, yêu đất bạn hơn " Nhạc về..." -Không chỉ thế người lính còn mải mê, say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ. b/ Bốn câu sau: Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng :hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. -Thời gian: chiều sương ấy, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. -Sông nước hoang dại, bên bờ lau lách, hoa rừng đong đưa. Hình ảnh hoa đong đưa là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái dáng người trên độc mộc trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền chiều sương ấy. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. -Dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc hay dáng người hùng dũng, hiên ngang của người lính đang đưa con thuyền tiến về phía trước càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng. -Có nhớ, có thấy luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi. -Nghệ thuật: ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa. 3. Khổ 3: Hình tượng người lính Tây Tiến bi thương, hào hùng, lãng mạn. a/ Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật kì dị: Quang Dũng đã dùng những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính. -Bi thương: Ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị: " Tây Tiến đoàn binh...oai hùm".Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá. Dẫn chứng minh họa thêm: Hình ảnh người lính trong thơ: Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Tố Hữu: Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế. - Chính Hữu Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi. -Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập, giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn mạnh mẽ: Đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá, tương phản với dữ oai hùm. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những Vệ tếu, Vệ trọc một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà dữ oai hùm làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Đoàn binh gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường của "Quân đi điệp điệp trùng trùng", của "tam quân tì hổ khí thôn ngưu" (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu). Ba từ dữ oai hùm, gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm, người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. mắt trừng dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ. -Tâm hồn lãng mạn: Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về quê hương. b/4 câu cuối ngời lên vẻ đẹp lí tưởng: +Câu " rải rác..." toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh mọc lên vô danh nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. +Tinh thần chiến đấu Chiến trường.... Ba từ chẳng tiếc đời xanh vang lên vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc. Dẫn chứng thêm: Tình yêu đất nước trong thơ Chế Lan Viên Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng. Ôi tổ quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà, mỗi ngọn núi bờ sông. Hình ảnh ấy làm ta liên tưởng tới vẻ đẹp của những tráng sĩ thời xưa ví như Thái Tử Kinh Kha sang đất Tần hành thích Tần Thủy Hoàng cũng mang tinh thần:Tráng sĩ một đi không trở về. Không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà ở người lính Tây Tiến còn phảng phất vẻ đẹp của tinh thần hiệp sĩ coi nhẹ cái chết: " Áo bào............độc hành". Hiện thực: Người lính chết không có manh vải liệm chỉ có manh chiếu bọc thân nhưng vẫn xem cái chết nhẹ như lông hồng. Câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là về với đất mẹ "Người hi sinh đất hồi sinh/ Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời". Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Sông Mã tiễn đưa bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc. +Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng. 4. Khổ cuối: Lời thề son sắt thể hiện tinh thần Nhất khứ bất phục hoàn. Bốn câu thơ khép lại một cảm xúc bâng khuâng làm lòng ta nao nao khó tả. Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Vì vậy cái Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> chết với họ nào có là gì khi Hồn ta hoà vào hồn thiêng của toàn dân tộc, bay lên, bay lên mãi, "chẳng về xuôi". "Không hẹn ước" rồi lại "thăm thẳm một chia phôi". Quang Dũng khẳng định cái ý niệm "nhất khứ bất phục hoàn" trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Đã nói nhiều điều về Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỷ niệm về Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu nhất, bền vững nhất về Tây Tiến là cái tinh thần ấy. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn, nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng. "Tây Tiến mùa xuân ấy" đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở gian khổ và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy. ---------------------------------Đề 1: Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn: " Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ..... Sông Mã gầm lên khúc độc hành" (Quang Dũng - Tây Tiến) Tìm hiểu đề - Đề bài thuộc dạng phân tích tác phẩm văn học. Cụ thể là phân tích một đoạn thơ. - Để có thể phân tích sâu sắc đoạn thơ này, cần phải có cái nhìn tổng quát về cả bài thơ Tây Tiến. Bài thơ có hai đặc điểm nổi bật, bao trùm : cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cả hai đặc điểm ấy đều được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ cần phân tích. - Đoạn thơ này, về thực chất khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến. Vì thế, khi phân tích, cần phải làm sáng tỏ vẻ đẹp của hình tượng này. Gợi. ý. I.. làm. Đặt. bài. vấn. đề. :. - Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. - Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên. - Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng. II. 1.. Giải Vẻ. đẹp. quyết lãng. mạn. vấn của. người. đề lính. Tây. : Tiến. :. Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc. - Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ : Tây .... Tiến Đêm. đoàn mơ. binh Hà. không Nội. dáng. mọc. tóc. kiều. thơm. - Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ ... - Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ. 2.. Chất. bi. tráng. của. hình. tượng. người. lính. Tây. Tiến. :. - Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng: Rải ....Sông. rác. biên Mã. cương. gầm. mồ. lên. khúc. viễn độc. xứ hành.. - Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã : Áo Sông. bào Mã. thay. chiếu. gầm. lên. anh khúc. về độc. đất hành.. Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. - Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại. III.. Kết. thúc. vấn. đề. :. - Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại. - Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.. 1.Tây Tiến – một cuộc vạn lý trường chinh Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×