Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Công tác trưng bày trong các bảo tàng ở thành phố hồ chí minh thực trạng và giải pháp công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.34 MB, 52 trang )

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2008

-----

Tên cơng trình:

CƠNG TÁC TRƯNG BÀY TRONG CÁC
BẢO TÀNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINHTHỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Thuộc nhóm ngành:

KHOA HỌC XÃ HỘI 2b (XH2b)
Người hướng dẫn : TS. Đặng Văn Thắng
Nhóm thực hiện
Đồn Lê Thanh Giang : chủ nhiệm
Tham gia:
Đỗ Thiên Kim
Trần Thị Cẩm Lưu
Lê Thị Bích Ngọc
Nguyễn Lê Thành Thái

Tp. Hồ Chí Minh, 2008


TĨM TẮT CƠNG TRÌNH
Luật di sản văn hóa Việt Nam năm 2001 nêu rõ: Bảo tàng là nơi bảo quản
và trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ nhu cầu
nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Và công tác


trưng bày bảo tàng là tất cả các hình thức để giải thích, giới thiệu trọn vẹn khơng
chỉ bản thân các hiện vật mà cịn có bối cảnh, ý nghĩa lịch sử, tầm quan trọng của
hiện vật. Trưng bày là cầu nối giữa quần chúng với hiện vật bảo tàng, giữa hiện tại
với lịch sử. Nếu không có trưng bày thì bảo tàng đơn thuần chỉ là một kho bảo
quản các hiện vật sưu tầm được, nghiên cứu và hệ thống lại một cách khoa học mà
thôi. Hơn thế nữa, cơng tác trưng bày cịn là khâu chủ yếu trong toàn bộ hoạt động
của bảo tàng và là dấu hiệu quan trọng để phân biệt bảo tàng với các cơ quan khoa
học khác. Qua trưng bày, bảo tàng có thể thực hiện được hai nhiệm vụ, chức năng
cơ bản, đó là nghiên cứu khoa học và giáo dục, phổ biến tri thức khoa học.
Bên cạnh đó, cùng với những thay đổi về kinh tế – xã hội, nhu cầu về
thưởng thức văn hóa, tìm hiểu về cội nguồn lịch sử của người dân Việt Nam cũng
ngày một tăng cao. Đây là một điều kiện thuận lợi để các bảo tàng có thể mở rộng
cánh cửa đón chào du khách. Thông qua công tác trưng bày, bảo tàng có thể
truyền tải được những thơng điệp của mình, do đó địi hỏi các bảo tàng trong cả
nước nói chung và các bảo tàng tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng phải ngày
càng cải tiến và phát triển, hồn thiện cơng tác trưng bày để có thể đáp ứng, thỏa
mãn nhu cầu của người dân, thu hút khách tham quan đến với bảo tàng.
Vì thế, chúng tơi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Công tác trưng bày trong
các bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp”.
Công tác trưng bày tại các bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, tuy
đã có những bước phát triển nhưng do nhiều nguyên nhân vẫn cịn tồn tại các hạn
chế.
Ngồi một số bảo tàng thu hút một lượng khách tham quan khá lớn hàng
năm (như Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Chứng
1


tích chiến tranh), các bảo tàng khác gần như đóng kín cửa với du khách, đặc biệt
là khách trong nước (như Bảo tàng Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh).
Một hạn chế điển hình nhất là hầu như các bảo tàng tại thành phố nói riêng

và các bảo tàng ở Việt Nam nói chung đều trưng bày hiện vật nhằm “minh họa và
diễn giải lịch sử”. Khi đến với một bảo tàng, người xem muốn hiểu thêm về đặc
trưng của vùng đất, con người nơi ấy, thế nên khi có sự trùng lặp trong trưng bày
giữa các bảo tàng (vì ở đâu cũng nêu lên các sự kiện nổi bật trong lịch sử dân tộc)
sẽ gây ra sự nhàm chán cho khách tham quan. Bên cạnh đó, nhiều hiện vật được
chú thích một cách sơ sài tạo nên sự khó hiểu cho người xem, cũng như việc tiếp
nhận các thông tin về hiện vật khơng được đầy đủ, từ đó khó có thể cảm nhận hết
giá trị của hiện vật.
Do vậy, một giải pháp cần thiết nhất là các bảo tàng nên trưng bày các sưu
tập hiện vật, cùng với việc áp dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, hỗ trợ cho
việc chú thích hiện vật, khuyến khích người xem tự tìm hiểu, khám phá giá trị lịch
sử của hiện vật. Đồng thời, nên có sự luân chuyển hiện vật, thay đổi cách thức
trưng bày sau một thời gian hoạt động để có thể tạo sự hứng thú cho du khách đến
tham quan lần sau. Ngồi ra, cịn một số giải pháp khác như: xuất bản sách, báo,
đĩa CD giới thiệu hoạt động của bảo tàng cho du khách; xây dựng các trung tâm
thông tin để khách tham quan có thể dễ dàng tra cứu các tài liệu, hình ảnh liên
quan đến bảo tàng; v.v… Đặc biệt là nên tăng cường sự hợp tác giữa các bảo tàng
trong nước với nhau, chia sẻ hiện vật trưng bày, hoặc có sự giao lưu trao đổi về
công việc, các kỹ thuật trưng bày… có như vậy sẽ làm cho số lượng hiện vật và
hoạt động của bảo tàng thêm phong phú, hấp dẫn khách tham quan.
Đề tài “Công tác trưng bày trong các bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh –
Thực trạng và giải pháp” với những giải pháp đề ra, hy vọng sẽ góp phần hồn
thiện cho cơng tác trưng bày tại các bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh, để thu hút
nhiều hơn khách tham quan và họ sẽ không chỉ đến một lần với bảo tàng.

2


MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của đề tài

Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa là một lĩnh vực quan tâm đặc biệt
của Chính phủ Việt Nam. Ngay từ năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh
số 65/SL ngày 23/11 về “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam”. Đây là văn bản
pháp lý đầu tiên của Nhà nước Việt Nam về bảo tồn các di sản văn hóa. Suốt từ đó
đến nay, những tư tưởng cơ bản của bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa Việt
Nam ngày càng được cụ thể hóa và phát triển. Luật di sản văn hóa (2001) là văn
bản pháp lý cao nhất trong cả nước. Luật nêu rõ: “Bảo tàng là nơi bảo quản và
trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ nhu cầu nghiên
cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân dân”.
Sau hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của
Đảng và Nhà nước đã thực sự đem lại cho đất nước một bước chuyển mình lớn,
dẫn đến những đổi thay về kinh tế, văn hóa, xã hội, và cuộc sống của người dân
ngày càng được cải thiện, nâng cao hơn nữa. Vì thế, nhu cầu thưởng thức văn hóa
và nhu cầu giải trí của người dân cũng ngày một tăng lên. Chính nhu cầu này là
một điều kiện thuận lợi để bảo tàng có thể mở rộng cánh cửa của mình đón chào
du khách. Thơng qua cơng tác trưng bày, bảo tàng có thể truyền tải được những
thơng điệp đến người xem. Do vậy địi hỏi bảo tàng ngày càng phải cải tiến và
phát triển để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu của người dân, đa dạng hóa các hoạt động
để thu hút du khách.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, các bảo tàng chưa phải nghĩ nhiều đến
việc “tự ni sống mình”. Trong các hoạt động của bảo tàng thì mục tiêu phục vụ
cơng chúng chưa được coi trọng. Cách trưng bày chủ yếu để tuyên truyền và hoàn
toàn được bao cấp. Sự bao cấp đã dẫn đến tình trạng trì trệ của các bảo tàng, làm
mất đi tính năng động trong các hoạt động của bảo tàng. Bảo tàng ngày nay không

3



thể coi nhẹ đối tượng phục vụ của mình mà phải ln vận động và tìm cách lơi kéo
cơng chúng đến thăm bảo tàng vì chính họ mang lại nguồn thu quan trọng cho bảo
tàng.
Như vậy, do nhu cầu khách quan (nhu cầu thưởng thức văn hóa của cơng
chúng) và nhu cầu chủ quan (nhu cầu nâng cao nguồn thu để nuôi dưỡng các hoạt
động nghiệp vụ) mà bảo tàng cần phải có những giải pháp mới để cải tiến và đa
dạng hóa các hoạt động của mình với chất lượng cao nhất, trong đó có cơng tác
quan trọng nhất của mỗi bảo tàng – công tác trưng bày.
Trong trưng bày bảo tàng thì hiện vật ln là vấn đề nổi cộm đối với bất cứ
bảo tàng nào ở Việt Nam. Đa phần hiện nay các hiện vật trong các bảo tàng đang ở
trong tình trạng hư hỏng, bị xuống cấp, ảnh hưởng đến chất lượng của hiện vật,
trong khi đó vẫn phải được đem ra trưng bày thường xuyên, ít được phục hồi bởi
nhiều bảo tàng của ta hiện nay vẫn chưa đảm bảo được đầy đủ các điều kiện kỹ
thuật về quản lý nhiệt độ, độ ẩm cũng như các kỹ thuật trưng bày.
Hiện nay, trong công tác trưng bày của hầu hết các bảo tàng, tổ chức trưng
bày chuyên đề còn chưa chú ý đến nhu cầu của cơng chúng hay nói cách khác là
cịn chưa nghiên cứu để thỏa mãn nhu cầu của công chúng đối với mỗi cuộc trưng
bày. Phương pháp trưng bày ở nhiều nơi cịn đơn điệu, kém hấp dẫn và ít thơng
tin, việc sử dụng ánh sáng trong trưng bày chưa làm tôn lên hết giá trị của các hiện
vật. Hầu hết các bảo tàng cịn chưa có chương trình giáo dục riêng cho học sinh,
thiếu những hoạt động đa dạng… tất cả điều đó làm cho giá trị của hiện vật bảo
tàng ít được phát huy tác dụng.
Hai từ “bảo tàng” nói chung đã được hiểu theo những nghĩa mới, đó không
chỉ là nơi để lưu giữ cái đã qua, những cái cũ, những cổ vật … mà công chúng
ngày nay tìm đến các bảo tàng để trải nghiệm, để học hỏi những kiến thức mới và
để có những phút giây thoải mái. Và như đã nói ở trên, cơng chúng giữ vai trò
sống còn đối với bảo tàng nên việc tìm hiểu nhu cầu của cơng chúng là điều khơng
thể thiếu.


4


Chính vì những lí do nêu trên mà nhóm chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề
tài “Công tác trưng bày trong các bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh – Thực
trạng và giải pháp” để đi sâu hơn vào các hoạt động của bảo tàng, đặc biệt là công
tác trưng bày.
2.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
 Khái quát được thực trạng công tác trưng bày ở các bảo tàng thành phố

Hồ Chí Minh hiện nay. Từ đó rút ra những ưu khuyết điểm trong công tác trưng
bày.
 So sánh công tác trưng bày của các bảo tàng tại thành phố Hồ Chí
Minh với các bảo tàng khác trong nước và thế giới.
 Nhận thức được tầm quan trọng của công tác trưng bày đối với sự phát
triển của các bảo tàng.
 Đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trưng bày trong
các bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh.

3.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp truyền thống là sưu tầm, tổng hợp và hệ thống
các tư liệu có được. Ngồi ra còn sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn, điều tra
xã hội học (khách tham quan, cán bộ công tác bảo tàng). Đặc biệt khơng thể thiếu
đó là những chuyến khảo sát thực tế các bảo tàng tại thành phố Hồ Chí Minh để
làm nổi bật được vấn đề mà mục tiêu đã đề ra.


4.

Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Đề tài sẽ là một tài liệu về công tác trưng bày trong các bảo tàng tại thành
phố Hồ Chí Minh. Và những giải pháp trong trưng bày được nêu ra sẽ góp phần
giúp cho phần trưng bày của các bảo tàng trong thành phố được hồn thiện hơn, để
từ đó có thể thu hút được nhiều du khách đến tham quan bảo tàng.

5.

Tình hình nghiên cứu đề tài
5


Những cơng trình xuất bản về cơng tác bảo tàng đến những năm 60 cịn rất
ít, có thể kể đến “Bảo tàng xã” của Hồng Hưng, Hà Nội, Văn hóa, 1964; “Bước
đầu tìm hiểu khoa học bảo tàng” của Đào Duy Kỳ, Hà Nội, Viện Bảo tàng cách
mạng, 1969 – đây là cơng trình viết về tồn bộ các khâu cơng tác bảo tàng, trong
đó về tổ chức và cơng tác trưng bày chỉ được trình bày sơ lược.

Đến những năm 80, do sự bùng nổ các bảo tàng không thể thiếu cơ sở lý
luận và phương pháp công tác, một số cơng trình có tính hướng dẫn được xây
dựng, và một số cuộc hội nghị bàn về công tác bảo tàng được tổ chức. Đáng chú ý
nhất là cuốn “Sổ tay công tác bảo tàng” của nhà xuất bản Hà Nội năm 1980 của
các tác giả Lâm Bình Tường, Phạm Xanh biên soạn – đây là cơng trình đầu tiên về
công tác bảo tàng được phát hành rộng rãi, về cơng tác trưng bày, các tác giả đã
trình bày phương pháp tổ chức trưng bày và kinh nghiệm thực tiễn trưng bày bảo
tàng ở nước ta những năm qua. Tuy vậy, như tên sách quy định, ở đây không thể

đi sâu những vấn đề chi tiết của công tác trưng bày cũng như các cơng tác khác.
Tiếp đó các tạp chí chuyên trang, kỷ yếu hội nghị đã tải đăng một số bài viết
về công tác trưng bày bảo tàng. Đáng chú ý là tập “Kỷ yếu hội nghị bảo tàng khảo
cứu địa phương” in năm 1981 có những bài viết về trưng bày phần lịch sử xã hội,
phần trưng bày tự nhiên địa phương qua kinh nghiệm tiến hành ở các địa phương.
Nhằm nâng cao trách nhiệm trưng bày của các bảo tàng, Cục Bảo tàng đã
mở Hội nghị khoa học “Trưng bày bảo tàng” ở Hà Nội vào tháng 6/1984 – đây là
Hội nghị đầu tiên toàn ngành về công tác trưng bày bảo tàng ở nước ta. Hội nghị
đã thu nhận 50 bản tham luận của các Bảo tàng trung ương và địa phương, các
trường Đại học, và các Viện nghiên cứu. Các thảo luận đã đề cập đến 3 vấn đề lớn:


Phương pháp nghiên cứu xây dựng nội dung trưng bày, việc phân loại
hiện vật trưng bày và nội dung trưng bày phần tự nhiên, lịch sử cổ trung
đại, lịch sử cận hiện đại, và dân tộc học.



Vấn đề giải quyết kiến trúc nghệ thuật cho trưng bày.

6




Kinh nghiệm của các bảo tàng về giải quyết trưng bày cụ thể về nội
dung và mỹ thuật.

Xuất phát từ những nhu cầu tìm hiểu về cơng tác bảo tàng, dựa trên cơ sở
thành tựu của nền bảo tàng học Xơ Viết có được và thực tiễn kinh nghiệm của mấy

chục năm xây dựng bảo tàng ở nước ta, trường Đại học Văn hóa Hà Nội – khoa
Bảo tồn bảo tàng đã cho xuất bản bộ giáo trình “Cơ sở bảo tàng học” năm 1990.
Trong đó tập 3 của bộ giáo trình này đã đề cập đến phần cơng tác trưng bày trong
bảo tàng.

Giáo trình được chia làm 3 phần: khái niệm chung về công tác trưng bày, các
phương pháp xây dựng trưng bày bảo tàng và các giai đoạn trưng bày bảo tàng.
Nội dung của giáo trình chủ yếu là tìm hiểu các bước cơng tác trong giai đoạn
chuẩn bị khoa học cho trưng bày. Nội dung các bước cơng tác đó được giải quyết
ở phần ba của giáo trình.
Tuy nhiên, việc đi sâu vào nghiên cứu cơng tác trưng bày trong các bảo tàng
tại thành phố Hồ Chí Minh thì vẫn chưa có nhiều cơng trình cụ thể.

6.

Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài “Công tác trưng bày trong các
bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp” cịn bao gồm 3
chương tất cả. Trong đó:


Chương 1: Khái quát về công tác trưng bày trong bảo tàng.



Chương 2: Hiện trạng công tác trưng bày trong các bảo tàng ở thành
phố Hồ Chí Minh.




Chương 3: Giải pháp về công tác trưng bày trong các bảo tàng ở thành
phố Hồ Chí Minh.

7


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC TRƯNG BÀY
TRONG BẢO TÀNG
1.1 Khái niệm về công tác trưng bày
Trưng bày là ngôn ngữ của bảo tàng, là phần tiếp xúc chủ yếu giữa người
xem và bảo tàng. Người xem thường đánh giá hoạt động của bảo tàng thông qua
phần trưng bày, cũng là hoạt động chủ yếu nhất phân biệt bảo tàng.
Trưng bày theo quan điểm chủ nghĩa Marx – Lenin là trưng bày vì ai và
cho ai xem? Ở đây nhằm để xác định người xem bảo tàng. Trong thời nay, người
xem bảo tàng rất phong phú, không phân biệt giai cấp, đẳng cấp, vị trí trong xã
hội, trình độ học vấn, lứa tuổi. Và bảo tàng trưng bày vấn đề gì chứ khơng phải là
trưng bày cái gì. Nghĩa là người xem phải hiểu được các hiện vật trong mối quan
hệ với nhau, thống nhất để hiểu được về một sự kiện lịch sử nào đấy. Trưng bày sẽ
giúp cho người xem khai thác được những gì về sự kiện xung quanh hiện vật đó.
Trưng bày là sự sắp xếp nhân tạo, nhằm thực hiện mục đích và chiến lược
đã được đặt ra cho mỗi loại bảo tàng, mỗi bảo tàng. Có các thể loại trưng bày:
 Trưng bày suy tưởng, dạy học, tái hiện (theo bối cảnh).
 Trưng bày theo nhóm hiện vật.
 Trưng bày dạng kho mở.
Nhưng nhìn chung có hai cách tiếp cận chính: tiếp cận phân loại và tiếp cận
chủ đề.
 Tiếp cận theo phân loại có hai hình thức: theo tiêu chí đối tượng
hiện vật và tiêu chí thẩm mỹ. Người ta đưa vào tiêu chí vật thể,

chức năng, chất liệu hoặc thẩm mỹ của hiện vật để trưng bày.
 Tiếp cận theo chủ đề có hai hình thức: tự sự (chuyện kể) và bối
cảnh.

8


Cách trưng bày theo lối tự sự nhằm thu hút người xem qua hệ thống chủ đề,
bằng sự thể hiện phong phú giữa hiện vật bảo tàng và hiện vật tài liệu khoa học,
nghệ thuật, tạo cho người xem cảm giác như lạc vào thế giới mơ – thế giới tưởng
tượng này tạo cho người xem hiểu các bảo tàng định nói. Ở đây, bảo tàng như là ở
giữa người xem và hiện vật.
Cách trưng bày theo bối cảnh là tổng kết các sự kiện có nguyên nhân, diễn
biến và kết quả bằng thông tin và sự độc đáo của hiện vật. Cách trưng bày này
hoàn toàn trái ngược với thế giới mơ.
Tóm lại, cơng tác trưng bày là tất cả các hình thức để giải thích, giới thiệu
trọn vẹn khơng chỉ bản thân các hiện vật mà cịn có bối cảnh, ý nghĩa lịch sử, tầm
quan trọng của hiện vật.

1.2 Vai trị – ý nghĩa của cơng tác trưng bày trong bảo tàng
Trưng bày bảo tàng là cầu nối giữa quần chúng với hiện vật bảo tàng, là cầu
nối giữa hiện tại với lịch sử – quá khứ. Nếu khơng có trưng bày thì bảo tàng chỉ
đơn thuần là một kho bảo quản các hiện vật sưu tầm được, nghiên cứu và hệ thống
lại một cách khoa học mà thôi. Công tác trưng bày làm cơ sở cho công tác giáo
dục của bảo tàng được hệ thống và khoa học hơn.
Công tác trưng bày là dấu hiệu quan trọng phân biệt bảo tàng với cơ quan
khoa học khác. Nhờ cơng tác trưng bày mà bảo tàng mới có thể thực hiện hai
nhiệm vụ, chức năng cơ bản là nghiên cứu khoa học và giáo dục, phổ biến tri thức
khoa học.
Trưng bày có ý nghĩa định hướng hoạt động và tạo ra những nét riêng của

từng bảo tàng để phân biệt với các bảo tàng khác cùng loại hình.
Bên cạnh đó, cơng tác trưng bày là khâu chủ yếu trong tồn bộ các mặt hoạt
động của bảo tàng. Chưa có trưng bày cũng có thể coi như chưa có bảo tàng. Nhờ
cơng tác trưng bày các bảo tàng mới có cơ sở liên hệ với quần chúng. Nếu nói rằng
bảo tàng là một cơ quan nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học thì cơng tác
trưng bày là phương tiện tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ đó. Và chỉ qua trưng bày,
9


các bảo tàng mới có thể thực hiện được nội dung và quan điểm của nó một cách
đầy đủ nhất.
Để thực hiện được yêu cầu như thế công tác trưng bày tuyệt nhiên không
phải là sự minh họa một cách rời rạc đơn điệu bằng một số hiện vật gốc, tranh ảnh
hay những bảng thống kê… về một vấn đề nào đó.
Cơng tác trưng bày phải được coi là kết quả cuối cùng của bảo tàng, vì thế
trưng bày được coi là tiếng nói, ngơn ngữ biểu hiện của bảo tàng.

1.3 Đặc điểm của cơng tác trưng bày
Vai trị của công tác trưng bày như đã nêu ở trên cho thấy cơng tác trưng
bày có vị trí quan trọng đối với mọi hoạt động của bảo tàng. Các hiện vật trưng
bày ở bảo tàng phải được trưng bày trong mối liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên
hệ này chỉ có thể có ý nghĩa khi chúng được xây dựng trên một bản đề cương.
Trình bày theo đề cương nghĩa là trưng bày có hướng và có kế hoạch. Đề cương
đó phải được xây dựng phù hợp với sự vận động của mối liên hệ biện chứng giữa
các sự kiện, hiện tượng trong xã hội loài người hoặc thiên nhiên. Xây dựng trưng
bày theo đề cương trước hết phải phù hợp với quy luật vận động của mỗi sự kiện,
hiện tượng tự nhiên và xã hội. Do đó, để thực hiện được những u cầu trên thì
cơng tác trưng bày phải mang những đặc điểm sau:
Như chúng ta đã biết, trưng bày ở bảo tàng không phải là phong cách trưng
bày quảng cáo. Cho nên việc sắp xếp, bố trí các loại hiện vật trưng bày phải làm

sao dễ xem, không khập khiễng, ngổn ngang làm hại đến cái đẹp tổng thể của gian
phòng trưng bày. Mặt khác (đây là mặt chủ yếu) nói lên được một cách mạch lạc
nội dung, tư tưởng của các chủ đề qua các hiện vật trưng bày. Nó có ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả của công tác trưng bày bảo tàng.
Sắp xếp hiện vật trưng bày
Mỗi hiện vật được lựa chọn trưng bày cũng có thể được coi như một từ
trong một mệnh đề. Cấu trúc hình thức của mệnh đề khơng lủng củng, vừa tạo nên
cho câu viết gọn vừa không lạc ý. Sắp xếp hiện vật trong trưng bày của bảo tàng
10


cũng nên được quan niệm như thế. Biết suy nghĩ và chọn được những hiện vật
điển hình cho từng vấn đề trưng bày, lại sắp xếp chúng trong một mối quan hệ hữu
cơ, chúng ta sẽ tạo cho người xem điều kiện dễ dàng tìm hiểu nội dung trưng bày
của bảo tàng.
Trong quá trình phát triển của mỗi bảo tàng, việc sắp xếp hiện vật nói riêng
và kỹ thuật trưng bày nói chung cần phải nghiên cứu và ln ln tạo ra phong
cách mới. Tuy vậy, sắp xếp hiện vật trưng bày cịn tùy thuộc vào loại hình bảo
tàng, số lượng hiện vật, quy mơ gian phịng có phong tục tập quán của từng vùng,
địa phương.
Việc sắp xếp hiện vật cho trưng bày được đặt ra trong quá trình lên kế
hoạch đề cương. Suy nghĩ về nội dung tư tưởng của mỗi chủ đề trong cấu tạo đề
cương, đồng thời suy nghĩ để tìm kiếm, lựa chọn những hiện vật điển hình phản
ánh được nội dung của chủ đề đó. Hiểu thấu đáo nội dung mỗi chủ đề và định vị
cho nó trong diện tích trưng bày cũng phải được coi như hiểu thấu đáo lý lịch một
hiện vật và xếp chỗ cho nó trong chủ đề. Với số lượng và số loại hiện vật gốc, hiện
vật trung gian, nếu khơng chú ý sắp xếp, nhất là khơng biết tìm ra những hiện vật
điển hình, chủ đạo làm “điểm chốt” cho từng chủ đề, trưng bày sẽ trở nên dàn đều
khơng có trọng tâm. Bởi vậy cần lưu ý chọn cho mỗi chủ đề (hoặc thành phần chủ
đề) một hiện vật hoặc một nhóm (tổ hợp) hiện vật gốc điển hình. Những hiện vật

gốc điển hình đó được sắp xếp ở vị trí trung tâm. Các loại hiện vật gốc bình
thường và tư liệu khoa học hỗ trợ nên coi như là những thành viên phối hợp không
thể thiếu. Tư liệu khoa học hỗ trợ không nên giành những vị trí trung tâm.
Trước đây, người ta thường sắp xếp các loại hiện vật có khối trên bục, trong
tủ. Các loại hiện vật khác có mặt phẳng (tranh, ảnh…) thường treo trên tường. Một
số hiện vật gốc điển hình khơng được tơn lên vị trí kính đáng.
Nói chung cách sắp xếp hiện vật cần chú ý đến giá trị điển hình, chủ đạo
của hiện vật, đồng thời phải lưu ý đến quy mơ và hình dáng của nó, cự ly giãn
cách và mối quan hệ của các loại hiện vật.

11


Màu sắc trong trưng bày bảo tàng
Trong cuộc sống, màu sắc góp phần làm nên cái đẹp. Trưng bày ở bảo tàng
cũng thế. Màu sắc không những tăng phần thẩm mỹ mà còn làm nổi rõ nội dung
và thể hiện quan điểm của bảo tàng. Chọn màu cho một phòng trưng bày, một vạt
tường hoặc nền lót của một hiện vật, phải suy nghĩ và cân nhắc cẩn trọng. Không
thể sử dụng màu sắc tùy tiện trong trưng bày.
Ánh sáng trong trưng bày bảo tàng
Ánh sáng là vấn đề quan trọng trong các gian phòng trưng bày của bảo
tàng. Phối hợp chặt chẽ với màu sắc, cách sắp xếp hiện vật, ánh sáng không những
làm nổi rõ hiện vật chủ đạo mà cịn góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp trong trang trí
kiến trúc nghệ thuật của gian phịng trưng bày. Bởi thế từ khi bắt tay vào thiết kế
mỹ thuật cho trưng bày cần phải chú ý sử dụng chiếu sáng chung cho tồn gian
phịng, đồng thời phải bố trí ánh sáng riêng cho từng vị trí cần thiết.
Thơng thường trong các gian phòng trưng bày bảo tàng ở nước ta, người ta
sử dụng hai loại nguồn sáng: nguồn sáng tự nhiên (ánh sáng mặt trời) và nguồn
sáng nhân tạo (ánh sáng điện).


Phương tiện trưng bày của bảo tàng
Phương tiện trưng bày trong bảo tàng gồm khay, khung kín, tủ kính, bục,
đế, giá đỡ, tường phụ, ghế tựa… Nói chung phương tiện trưng bày cũng là yếu tố
thẩm mỹ trong trưng bày. Phương tiện trưng bày có dáng đẹp, thanh thốt, hài hịa,
tạo cho người xem khơng khí dễ chịu.
Các phương tiện trưng bày vừa trang trí tốt các hiện vật, đồng thời lại bảo
vệ được các hiện vật đó. Cơng dụng trước hết của phương tiện trưng bày là trang
trí làm nổi rõ hiện vật và bảo vệ hiện vật. Không đẹp, không tốt, phương tiện trưng
bày sẽ làm cho các phịng trưng bày, cơng tác trưng bày trở nên tầm thường.

12


CHƯƠNG 2
HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC TRƯNG BÀY Ở CÁC BẢO
TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1

Sơ lược về tình hình các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh

Hiện nay, hệ thống bảo tàng ở thành phố HCM gồm 11 bảo tàng cùng nhiều
nhà lưu niệm, nhà truyền thống, phòng truyền thống ở các quận, huyện. Trong đó,
Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam TP.HCM là bảo tàng lớn nhất và ra đời sớm nhất (vào
những năm đầu thế kỉ XX), lưu giữ một số lượng hiện vật khá lớn, có giá trị lịch
sử và giáo dục rất cao. Ngoài ra, Bảo tàng Hồ Chí Minh, nơi giới thiệu về cuộc đời
và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch thu hút được nhiều khách nội địa nhất. Trong khi
đó, Bảo tàng Chứng Tích Chiến Tranh trưng bày về tội ác dã man của quân xâm
lược Mỹ đối với nhân dân Việt Nam luôn là địa chỉ khơng thể thiếu trong chương
trình tham quan của du khách nước ngoài. Sau đây là một số địa chỉ tham khảo của
các bảo tàng có nhiều sự thu hút đối với khách tham quan:

 Bao tàng lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh
(Số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1)
 Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
(Số 65 Lý Tự Trọng, quận 1)
 Bảo tàng Chứng tích chiến tranh
(Số 28 Võ Văn Tần, quận 3)
 Bảo tàng Hồ Chí Minh – chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
(Số 1 Nguyễn Tất Thành, quận 4)
 Bảo tàng Tôn Đức Thắng
(Số 5 Tôn Đức Thắng, quận 1)
 Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh
(Số 2 Lê Duẩn, quận 1)

13


 Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
(202 Võ Thị Sáu, quận 3)
 Bảo tàng Mỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh
(Số 97A Phó Đức Chính, quận 1)
 Bảo tàng Địa Chất Thành phố Hồ Chí Minh
(Số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1)
 Bảo tàng Khơng Qn Phía Nam
(Số 87 Thăng Long, quận Tân Bình)
 Bảo tàng Lực Lượng Vũ Trang miền Đơng Nam Bộ
(Số 247 Hồng Văn Thụ, quận Tân Bình)
Như vậy, có một điều chúng ta thấy rõ là: hầu hết các cơ sở bảo tàng đều
tập trung vào những quận thành được coi là trung tâm của thành phố như quận 1,
3. Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho khách tham quan có thể dễ dàng
trong việc di chuyển đi đến các bảo tàng nhưng cũng có những hạn chế nhất định

về diện tích của bảo tàng. Mặt khác, thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục, v.v … đứng hàng đầu trong cả nước, có nhiều điều
kiện thuận lợi về mọi mặt, nhiều tiềm năng trong tổ chức chương trình hỗ trợ
chun mơn. Nhưng nếu nhìn một cách tổng thể thì hệ thống bảo tàng thành phố
Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều nét đơn điệu, chưa thực sự thu hút du khách tham
quan.
Theo thống kê từ Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh, một số
bảo tàng lớn tại thành phố như Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam chỉ thu hút gần 4%
người nước ngoài tham quan, Dinh Độc Lập là 12%, Bảo tàng Mỹ Thuật khoảng
40% trong tổng số khách tham quan các đơn vị này mỗi năm. Bảo tàng Chứng
Tích Chiến Tranh là một trong số ít đơn vị thu hút được nhiều khách nước ngoài
với lượt người nước ngoài đến tham quan khoảng 70% tổng số khách tham quan
một năm nhưng vẫn còn đó sự đơn điệu về hiện vật trình bày, chưa lột tả hết được
giá trị sâu xa mà các hiện vật muốn truyền tải vào cảm nhận của từng du khách.
14


Ngồi ra, trên địa bàn thành phố cịn có 54 di tích quốc gia, 35 di tích cấp
thành phố, hàng trăm cơng trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa. Tuy nhiên,
những hiện vật, tài liệu và phương tiện trưng bày chưa truyền tải được nội dung
một cách sinh động nhất và thiết thực nhất đến với du khách. Một số nơi chỉ dừng
lại với những hiện vật gốc hoặc phục chế, hoặc dùng những tài liệu khoa học phụ
để trưng bày về các sự kiện, hay là giới thiệu dạng minh họa theo biên niên sự kiện
chứ chưa làm nổi lên những đau khổ, mất mát, hi sinh anh dũng của cha anh ngày
xưa. Để lôi cuốn được du khách thì khơng chỉ bằng hiện vật thật hay những bảng
trích số liệu mà phải kết hợp vừa hình ảnh minh họa sinh động, âm thanh trung
thực và ánh sáng hiệu quả cao. Đổi mới trưng bày sẽ là điều kiện để bảo tàng phát
triển, trong đó nghệ thuật chiếu sáng trưng bày là một giải pháp mang tính mỹ
thuật trong trưng bày hiện đại. Và về vấn đề này thì hầu hết các bảo tàng ở thành
phố hiện nay vẫn chưa thực hiện được.


2.2 Công tác trưng bày tại một số bảo tàng tiêu biểu
Công tác trưng bày trong bảo tàng là khâu quan trọng nhất, mang tính quyết
định đến hiệu quả của việc tiếp thu kiến thức và các giá trị giáo dục nhân văn sâu
sắc. Để có được cơng tác trưng bày tốt thì địi hỏi các đơn vị bảo tàng khơng
những phải chăm sóc, bảo quản hiện vật một cách tốt nhất mà còn phải đầu tư vốn
để mua một số trang thiết bị hiện đại nhằm đáp ứng đầy đủ cho công tác trưng bày
đạt hiệu quả tốt và ngày càng hiện đại hơn. Song song đó là bảo đảm cho khơng
gian trưng bày phù hợp với từng hiện vật được trưng bày theo những phương pháp
nhất định. Sau đây là công tác trưng bày ở một số bảo tàng ở thành phố HCM
được nhiều du khách đến thăm.
2.2.1

BẢO TÀNG CHỨNG TÍCH CHIẾN TRANH

Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh tọa lạc ở số 28 Võ Văn Tần, quận 1
được thành lập vào tháng 9/1975, tiền thân là “Nhà trưng bày tội ác chiến tranh
Mỹ – Ngụy”. Hệ thống trưng bày tại Bảo tàng Chứng Tích Chiến Tranh gồm:

15


 Trưng bày ngồi trời: có các hiện vật: máy bay, đại bác, xe tăng, máy
chém và 2 ngăn chuồng cọp được xây dựng đúng như kích thước của các nhà tù
Côn Đảo ngày xưa. Những hiện vật ở đây rất khoa học và theo từng thời kì, từng
giai đoạn trong lịch sử. Ấn tượng nhất vẫn là “chiếc máy chém”, xung quanh
không gian trưng bày chiếc máy chém này cịn được bố trí thêm một số thơng tin
rất q giá bổ trợ cho việc minh chứng về tội ác của chính quyền Mỹ – Ngụy.
Ngồi ra, hệ thống trưng bày ngồi trời cịn xây dựng thêm một mơ hình
tái hiện khá đầy đủ và chi tiết về sự giam cầm, hành hạ đến cùng cực đối với

những người bị tù đày, mơ hình địa ngục trần gian được phục chế lại đó là
“Chuồng cọp”. Đây là một mơ hình ở nhà tù Cơn Đảo. Và mơ hình này đã nhận
được nhiều sự chú ý của khách tham quan. Đây có thể coi là một sáng tạo rất hay
trong cơng tác trưng bày của bảo tàng, vừa mang tính hiện thực của lịch sử vừa
mang đậm chất giáo dục tính nhân văn rất cao. Với những mơ hình tái hiện như
thế này nếu được phát triển nhiều hơn trong tương lai chắc chắn sẽ nhận được
nhiều tình cảm từ phía du khách tham quan bảo tàng.

16


Hình 1 – Mơ hình tù nhân trong “chuồng cọp” tại Bảo tàng (ảnh tự chụp)

Hình 2 – Góc trưng bày ngoài trời tại Bảo tàng (ảnh tự chụp)
 Trưng bày chuyên đề: co các phòng trưng bày về chủ đề: chiến tranh
biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, vấn đề quần đảo
Trường Sa, âm mưu của các thế lực địch,…
Phần trưng bày chuyên đề của bảo tàng thu hút nhiều khách tham quan.
Hình ảnh, tư liệu thuộc nhiều nhóm chủ đề khác nhau. Phần đông tác giả của
chúng là những tác giả thiệt mạng nơi chiến trường. Chính vì những tư liệu, hình
ảnh thật như thế nên đã gây cho khách tham quan rất nhiều cảm xúc khác nhau.
Mỗi một tấm hình, tư liệu khi trình bày đều có những lời chú thích, ghi chú rất cẩn
thận và cung cấp thơng tin chính xác cho khách tham quan dễ tiếp thu. Về ngôn
ngữ, các thơng tin cịn được dịch ra thành nhiều thứ tiếng khác nhau như: tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa,… vì đối tượng đến tham quan bảo tàng phần lớn là
những du khách nước ngoài như: Mỹ, Úc, Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… và
đông nhất vẫn là du khách Mỹ.

17



Và gây xúc động nhiều nhất đối với du khách đó là tủ trưng bày bình đựng
“hai đứa bé song sinh dính liền thân và đầu” đã chết vì chịu sự ảnh hưởng từ chất
độc màu da cam mà quân đội Mỹ đã rải xuống nước ta với số lượng lên đến hàng
triệu lít. Đây là tội ác gây đau thương và mất mác nhiều nhất để lại cho các thế hệ
sau này phải lãnh chịu những hậu quả vô cùng nặng nề, những sự ra đời không
mang đến một cái kết bình yên.
Vào cuối năm vừa qua, bảo tàng đã chính thức xây dựng Trung tâm tư liệu
ảnh kĩ thuật số, đầu tư trang thiết bị với tổng kinh phí trên 1,5 tỷ đồng bằng nguồn
tài trợ từ dự án “Phát huy di sản bảo tàng Việt Nam” do chính phủ Pháp hỗ trợ.
Trang bị phịng ốc theo tiêu chuẩn và các thiết bị tin học hiện đại cùng với việc
xây dựng thành công phần mềm đặc biệt đặc biệt chuyên ngành lưu trữ bảo tàng.
Trung tâm dữ liệu ảnh kĩ thuật số này sẽ số hóa và phục chế, lưu trữ hơn 14.000
ảnh tư liệu quý về chiến tranh Việt Nam đang được lưu trữ ở các dạng tư liệu gốc,
như ảnh đã in tráng trên giấy, âm và dương bản phim. Đây cũng là bước cơ sở cho
việc chuẩn bị thực hiện phòng phục vụ khách tham quan trong và ngoài nước đến
tra cứu tư liệu tại bảo tàng qua hệ thống mạng máy tính nội bộ và qua internet
trong tương lai gần nhất.

18


Hình 3 – Một phịng trưng bày chun đề của Bảo tàng (ảnh tự chụp)

2.2.2

BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM – TPHCM

Tọa lạc ở số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bảo tàng lịch sử Việt Nam – TPHCM
là một trong những bảo tàng ra đời sớm nhất và để lại nhiều dấu ấn riêng biệt về

các giá trị văn hóa, lịch sử và truyền thống lâu đời của dân tộc. Hiện nay, bảo tàng
có 2 phần trưng bày chuyên đề chủ yếu được trưng bày trong 16 gian phòng:
 Phần 1: Giới thiệu lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thủy (cách nay
khoảng 300.000 năm) cho đến trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, bao
gồm:
 Phòng 1: thời đại ngun thủy: trưng bày các mơ hình “Đầu người
vượn Bắc Kinh” (khoảng 400.000 năm cách nay), “Đầu người cổ
Nêandecian”, tranh “Người nguyên thủy dùng lửa săn thú và chế tạo
công cụ”,…
 Phòng 2: thời đại Hùng Vương: trưng bày các “tủ hiện vật văn hóa
Đơng Sơn”, ảnh “Tượng thú đất nung ở Đồng Đậu” (Vĩnh Phú),…
 Phịng 3: thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc (thế kỉ I – thế
kỉ X): trưng bày tranh “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng”, hộp hình “Chiến
thắng Trận Bạch Đằng năm 938”,…
 Phịng 4: Mộ xác ướp Xóm Cải (TPHCM)
 Phịng 5: thời Lý (1009 – 1225): trưng bày về ảnh “Chế độ quan
chế thời Lý”, ảnh “Chân dung Lê Đại Hành”,…
 Phòng 6: thời Trần (thế kỉ XIII – XIV): trưng bày về bản đồ “Ba
lần chiến thắng quân Nguyên – Mông”, “Danh nhân danh tướng thời
Trần”,…
 Phòng 7: thời Lê (thế kỉ XV – XVIII): trưng bày về hộp hình “Ải
Chi Lăng”, “Chân dung Nguyễn Trãi”,…

19


 Phòng 8: thời Tây Sơn (thế kỉ XVIII): trưng bày về bản đồ “Khởi
nghĩa nông dân thế kỉ XVIII”, “Trận Rạch Gầm – Xồi Mút”…
 Phịng 9: thời Nguyễn và phong trào chống thực dân Pháp (cuối
thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX): trưng bày về “Một số hình ảnh xã hội

Việt Nam nửa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX”, “Các hiệp ước bán
nước”…

Hình 4 – Góc trưng bày trong phịng số 2 (ảnh tự chụp)

20


Hình 5 – Góc trưng bày thời Nguyễn (ảnh tự chụp)

 Phần 2: Giới thiệu một số chuyên đề mang đặc trưng của khu vực phía
Nam, bao gồm:
 Phịng 10: Gốm cổ một số nước Châu Á: trưng bày về gốm Nhật
Bản, gốm Thái Lan, gốm Campuchia, gốm Việt Nam,…
 Phịng 11: văn hóa Ĩc Eo: trưng bày về tủ đồ đá, tủ đồ đồng, tủ đồ
gốm, các tượng Phật gỗ,…
 Phịng 12: Nghệ thuật đồng bằng sơng Cửu Long: trưng bày về
“Tượng điêu khắc bằng đá của những cư dân bản địa vùng ĐBSCL”,…
 Phòng 13: Bến Nghé – Sài Gòn: trưng bày về “tủ hiện vật Gò Cát”,
“những tên gọi trước đây của thành phố HCM”,…
 Phòng 14: Nghệ thuật Chăm pa: trưng bày về nhiều “tượng thần
của Ấn Độ”, “tu sĩ Bà la môn”,…

21


 Phòng 15: thành phần dân tộc ở các tỉnh phía Nam: trưng bày
theo từng bộ sưu tập về : công cụ sản xuất, công cụ săn bắn và đánh bắt
cá, dụng cụ sinh hoạt,…
 Phòng 16: tượng Phật Việt Nam và một số nước Châu Á: trưng

bày về “tương Phật Di Lặc”, “Tượng Quan Âm”,…

Hình 6 – Góc trưng bày trong phòng số 15 (ảnh tự chụp)

Hiện nay, diện tích trưng bày của bảo tàng được mở rộng lên gấp đơi so với
trước giải phóng. Bảo tàng được trưng bày lại hoàn toàn với nội dung mới, đồng
thời từng bước nâng cao chất lượng nội dung và hình thức thể hiện. Bảo tàng được
trưng bày tương đối có hệ thống về lịch sử dân tộc Việt Nam, trình bày lịch sử
theo từng thời kì từ xưa đến nay và được bố trí trong những gian phịng nối tiếp
nhau để tạo sự thuận lợi cho du khách trong quá trình tham quan được xuyên suốt
và dễ dàng.
Bảo tàng cũng trưng bày dưới dạng chuyên đề với nhiều bộ sưu tập hiện
vật quý hiếm, tạo cho nội dung bảo tàng thêm đa dạng và phong phú hơn. Khái
quát được những giá trị văn hóa vật chất lẫn tinh thần của các dân tộc trong đất

22


nước khiến cho khách tham quan có thêm nhiều hiểu biết hơn về bản sắc văn hóa
đậm đà của dân tộc. Đây là nét cần được chú tâm và khai thác nhiều hơn nữa. Việc
đưa những sưu tập, hiện vật gốc được bảo quản trong kho ra trưng bày phục vụ
rộng rãi khách tham quan và các nhà nghiên cứu là một trong những bước đổi mới
quan trọng trong phương thức hoạt động của bảo tàng.
Bảo tàng có 16 phịng trưng bày cố định phục vụ đại chúng, có trên 16.000
hiện vật (tăng hơn 11.000 so với năm 1975). Ngoài ra, bảo tàng cịn trưng bày
mang tính tạm thời những sưu tập, hiện vật mới được sưu tầm để kịp thời phục vụ
quần chúng, hoặc phối hợp với các bảo tàng khác trưng bày giới thiệu những sưu
tập quý. Bảo tàng luôn trực tiếp thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu – sưu tầm,
kiểm kê – bảo quản, trưng bày và hướng dẫn tham quan.
Ngoài việc vận động và tạo điều kiện cho các nhà sưu tập cổ vật tham gia

hoạt động bảo tàng, thì việc chủ động phối hợp với các bảo tàng khác hoặc các cơ
quan khoa học để trưng bày, giới thiệu các sưu tập hiện vật hay những kết quả
nghiên cứu khoa học cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu để góp phần tạo
điều kiện cho mọi người được hưởng thụ những giá trị văn hóa đang tiềm ẩn trong
các di sản văn hóa của bảo tàng.
Bảo tàng lịch sử Việt Nam – TPHCM luôn chú trọng vào công tác hoạt
động trưng bày của bảo tàng, tổ chức nhiều cuộc triển lãm lưu động theo 2 hướng
chính:
 Phục vụ cơng chúng: các tầng lớp nhân dân nói chung.
 Phục vụ học đường: học sinh các trường phổ thông trung học, phổ
thông cơ sở.
Bảo tàng đã xây dựng một bộ triển lãm “Lịch sử Việt Nam qua tư liệu và
hình ảnh” với gần 300 tư liệu và hình ảnh cùng trên 100 hiện vật, chuyên đề về
“Thời Hùng Vương” với gần 180 tư liệu và hình ảnh và trên 100 hiện vật để đưa đi
trưng bày tại các trường học ở thành phố HCM. Ngoài ra, bảo tàng đã xây dựng
thêm 2 bộ triển lãm lưu động về chủ đề: “Văn hóa Ĩc Eo” và “Văn hóa các dân
tộc ở các tỉnh phía Nam” để đưa đi phục vụ các nơi.
23


Ngồi cách “Đưa bảo tàng đến với mọi người” thơng qua các hình thức
trưng bày nói trên thì việc tổ chức các Hội thảo khoa học và nghiên cứu, xuất bản
các cơng trình khoa học liên quan đến lĩnh vực hoạt động của bảo tàng cũng là một
hình thức cần được quan tâm nhiều hơn. Nhiều đối tượng khác nhau có thể tham
gia viết các bài tiểu luận về vấn đề chưa được của bảo tàng và có hướng giải quyết
tốt hơn.

2.2.3

BẢO TÀNG MỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Bảo tàng Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh nằm ở số 97A Phó Đức Chính,
quận 1 là nơi có các hoạt động triển lãm mỹ thuật và trưng bày các tác phẩm hội
họa và điêu khắc qua các thời kì trong lịch sử Việt Nam nhưng đồng thời cũng là
nơi diễn ra những cuộc triển lãm mang tính chất đương đại.
Bảo tàng được thành lập vào ngày 5/9/1987 nhưng đến năm 1991 mới
chính thức hoạt động. Bảo tàng Mỹ Thuật thành phố HCM là một trong hai trung
tâm mỹ thuật lớn nhất Việt Nam đã lưu giữ hơn 20.000 tác phẩm đặc sắc, trong đó
có hơn 300 tác phẩm là hiện vật tặng của các họa sĩ, nghệ nhân. Kết cấu của bảo
tàng được chia thành 3 lầu trưng bày những tác phẩm nghệ thuật khác nhau theo
từng chuyên đề riêng biệt:
 Lầu 1: dành cho hoạt động triển lãm mỹ thuật của những tác giả trong
và ngoài nước.
 Lầu 2: trưng bày các tác phẩm hội họa và điêu khắc có giá trị mỹ thuật
cao của nhiều tác giả khác nhau. Bảo tàng chú ý sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu
các tác phẩm của những tác giả bậc thầy trong làng nghệ thuật Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX đến nay.
 Lầu 3: trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và mỹ thuật cổ trong
nước và các khu vực ngoài nước như: Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia,… từ thế
kỉ VII đến thế kỉ XX như:
 Mỹ thuật Chăm pa và Óc Eo từ thế kỉ VII đến thế kỉ XVII.

24


×