Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường ở vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.72 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ NHƯ TUYẾN

CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VĨNH LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2009


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ NHƯ TUYẾN

CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VĨNH LONG

CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 602280

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. ĐINH NGỌC THẠCH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009




2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu trên đây là của
riêng tơi. Nếu có gì sai sót tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Người cam đoan

Trần Thị Như Tuyến


1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..............................................................................................2
Chương 1
QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI...................................6
1.1. Quan niệm về công bằng trong lịch sử triết học .........................................6
1.1.1. Khái quát về công bằng xã hội trong lịch sử triết học
trước Mác .........................................................................................6
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về công bằng xã hội ........10
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về
công bằng xã hội ..........................................................................................22
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng bằng xã hội ..................................22
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công bằng
xã hội ................................................................................................26
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC THỰC HIỆN CÔNG

BẰNG XÃ HỘI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VĨNH
LONG .................................................................................................................36
2.1. Khái quát về điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội của Vĩnh Long....................36
2.1.1. Điều kiện địa lý dân cư, lịch sử của Vĩnh Long...............................36
2.1.2. Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của Vĩnh Long ............40
2.2. Thực trạng và những giải pháp định hướng cho việc thực hiện công
bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Vĩnh Long ................................43
2.2.1. Thực trạng công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường
ở Vĩnh Long .....................................................................................43
2.2.2. Những giải pháp có tính định hướng cho việc thực hiện công
bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Vĩnh Long ....................63
KẾT LUẬN ........................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................82


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng bằng – phạm trù đạo đức pháp quyền và cũng đồng thời là ý thức
chính trị - xã hội [63, 650], dùng để chỉ những quan hệ và hành động xã hội với
quan niệm là mọi con người đều bình đẳng. Nó được thể hiện qua mối quan hệ
giữa các thành viên trong xã hội dựa trên nguyên tắc thống nhất ngang bằng
giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ được phản ánh chủ yếu
thông qua phân phối thu nhập. Công bằng xã hội được thực hiện bởi cơ chế kinh
tế, chế độ xã hội, pháp luật nhà nước và sự điều tiết bằng chính sách và quản lý
của chính phủ. Vấn đề này trong lịch sử triết học đã được quan tâm bởi các nhà
tư tưởng từ thời cổ đại, cận đại khai sáng cho đến những đại biểu xuất sắc của
chủ nghĩa Mác – Lênin như C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin và quan điểm của
triết học hiện đại với Lý thuyết về công bằng của Jonh Rawls. Trong điều kiện

hiện nay, đối với Việt Nam nói chung và Vĩnh Long nói riêng, vấn đề này càng
trở nên cấp bách.
Là một trong 13 tỉnh, thành của Đồng bằng sơng Cửu Long, tính đến nay
Vĩnh Long đã có hơn 300 năm lịch sử hình thành và phát triển. Trong công cuộc
chiến đấu, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhân dân Vĩnh Long cùng cả nước quyết
tâm đấu tranh giành lại nền độc lập cho dân tộc, xóa bỏ mọi áp bức, bất cơng
trong xã hội với khẩu hiệu chiến đấu: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, bước vào giai đoạn mới của đất nước,
hưởng ứng đường lối đổi mới của Đảng là “xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”[12, 86] nhằm “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”[13, 77], Đảng bộ và nhân
dân Vĩnh Long lại cùng cả nước ra sức phấn đấu đưa nước ta thốt khỏi tình


3

trạng kém phát triển, hòa nhập với thế giới. Phát triển kinh tế thị trường là con
đường tất yếu mà nước ta phải trải qua trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường là nền kinh tế có tính chất hai mặt, một mặt nó
tạo ra những cơ hội, tiềm năng cho việc phát triển kinh tế nhưng mặt khác nó lại
sinh ra những bất cập trong xã hội như: tình trạng phân hóa giàu nghèo, lao động
thiếu việc làm... Và điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện công bằng
xã hội ở nước ta nói chung, ở Vĩnh Long nói riêng. Do đó việc tìm hiểu thực
trạng, đưa ra giải pháp cho việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường ở Vĩnh Long là cần thiết, là phù hợp với quan điểm của Đảng ta là
xây dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Cơng bằng xã hội là vấn đề đã được con người ý thức được từ rất lâu

trong lịch sử. Ngoài các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin có bàn
về cơng bằng xã hội thì vấn đề này cũng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu như: Tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á và Việt Nam của Lê Bộ Lĩnh (chủ
biên), Nxb. Chính trị Quốc gia (1998); Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới – vấn đề và giải pháp của TS.
Nguyễn Thị Nga (chủ biên), Nxb. Lý luận Chính trị (2007); Về động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội của GS.TS. Lê Hữu Tầng (chủ biên), Nxb. Khoa học
Xã hội (1997)... Trong đó tác phẩm do TS. Nguyễn Thị Nga chủ biên đã trình
bày khá rõ về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tăng
trưởng kinh tế là cơ sở vật chất để thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời tác giả
cũng đã nêu ra các giải pháp cơ bản để kết hợp tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Còn trong tác phẩm
của GS.TS. Lê Hữu Tầng thì tác giả xem cơng bằng xã hội như là một động lực


4

của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó tác giả cịn phân biệt khái niệm
cơng bằng xã hội và bình đẳng xã hội.
Ngồi ra, có thể kể đến một số bài báo đề cập đến vấn đề này như: Công
bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của Lương
Việt Hải, Tạp chí Triết học, Số 4, tháng 4/2004; Cơng bằng xã hội và sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Bùi Đình Thanh, Tạp chí Cộng sản, Số
18/1996; Về công bằng xã hội của Lê Hữu Tầng, Tạp chí Cộng sản, Số 19/1996;
Thực hiện cơng bằng xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của Nguyễn Minh Hồn, Tạp
chí Triết học, Số 6, tháng 6/2003...
Các cơng trình nghiên cứu trên là nguồn chất liệu vơ cùng phong phú cho
người viết trong bước đầu tìm hiểu vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị

trường ở Vĩnh Long.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản
Việt Nam về cơng bằng xã hội, từ đó từng bước xem xét thực trạng và đề xuất
một số giải pháp cho việc thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị
trường ở Vĩnh Long.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày và phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và
Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng bằng xã hội.
Thứ hai, trình bày và phân tích, lý giải thực trạng vấn đề cơng bằng xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Vĩnh Long.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản cho việc thực hiện công bằng xã


5

hội trong nền kinh tế thị trường ở Vĩnh Long.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra, trong q trình thực hiện
luận văn, người viết còn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, logic và
lịch sử, quy nạp và diễn dịch, thống kê...
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chủ yếu chỉ đề cập đến vấn đề công bằng xã hội trong quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn giới hạn trong việc xem xét vấn đề công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trường ở Vĩnh Long từ Đại hội VI (1986) đến nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng

sản Việt Nam về công bằng xã hội, trên cơ sở đó bước đầu vận dụng vào việc
xem xét thực trạng vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Vĩnh
Long, đưa ra một số giải pháp cho việc thực hiện công bằng xã hội ở nơi đây.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương:
Chương 1: Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản Việt
Nam về công bằng xã hội.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp cho việc thực hiện công bằng xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Vĩnh Long.


6

Chương 1
QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG BẰNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

1.1.1. Khái quát về công bằng xã hội trong lịch sử triết học trước Mác
Công bằng là một khái niệm về cái cần thiết phù hợp với những quan
niệm về bản chất con người và những quyền khơng tách rời của nó. Công bằng –
phạm trù đạo đức pháp quyền và cũng đồng thời là ý thức chính trị - xã hội [63,
650]. Cơng bằng hàm chứa trong mình địi hỏi về sự phù hợp giữa vai trò thực
tiễn của các cá thể khác nhau (các nhóm xã hội) trong đời sống xã hội và thực
trạng xã hội của họ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của họ, giữa hành vi và đánh giá
hành vi, giữa lao động và ban thưởng, giữa tội ác và trừng phạt, giữa phụng sự
và vinh danh. Sự không phù hợp trong những tương quan ấy gọi là bất công.
Theo nội dung trên, phạm trù công bằng liên hệ với phạm trù bình đẳng xã hội,
tức là một trong những lý tưởng cơ bản (cùng với tự do) về xã hội công bằng

[63, 557].
Cách lý giải đầu tiên về công bằng trong lịch sử ý thức xã hội gắn liền với
việc thừa nhận việc không được xâm phạm các chuẩn mực của xã hội nguyên
thủy. Công bằng theo đó là sự tuân thủ đơn giản trật tự xã hội. Trong thực tiễn
xã hội cách hiểu sau đây về công bằng mang ý nghĩa như công bằng “tiêu cực” –
địi hỏi trừng phạt vì sự vi phạm chuẩn mực chung; một trong những biểu hiện
thực tế của nó là thiết chế trừng phạt theo kiểu thị tộc. Cách hiểu về cơng bằng
tích cực thể hiện ở sự phân chia lợi ích (nhất là lợi ích vật chất) vào thời kỳ cá
nhân tách khỏi thị tộc.
Trước tiên nó có ý nghĩa là sự bình đẳng của tất cả mọi người trong việc


7

sử dụng các phương tiện của cuộc sống và các quyền lợi. Với sự xuất hiện tư
hữu và sự bất bình đẳng thì cơng bằng bắt đầu tách khỏi bình đẳng, chứa đựng
sự khác nhau trong thực trạng của các nhóm xã hội và các cá nhân, phù hợp với
phẩm giá của họ. Platơn (Platon) trong “Nền cộng hịa” đã đưa ra ý tưởng về xây
dựng một nhà nước công bằng. Trong bốn đức hạnh cơ bản của con người –
khơn ngoan, can đảm, tiết độ, cơng bằng – thì cơng bằng được xem là đức hạnh
xã hội, vì nó thể hiện trong đời sống của cá nhân lẫn cộng đồng, đóng vai trị
thước đo, sự thẩm định tính chất của thiết chế nhà nước. Nhà nước công bằng là
nhà nước mà ở đó ln tn thủ “trật tự tự nhiên của sự vật”. Nhà nước công
bằng nhất thiết phải được xây dựng từ những thành tố công dân khác nhau,
chiếm những địa vị xã hội khác nhau, thực hiện những chức phận khác nhau tùy
theo năng lực của mình. Sự xác định các thành tố hay các đẳng cấp trong xã hội,
dựa trên sự phân chia cơ cấu linh hồn ra ba phần: a) các triết gia – cai trị gia, hay
đẳng cấp vàng, tương ứng với phần lý trí của linh hồn; b) các chiến binh, hay
đẳng cấp bạc, tương ứng với phần ý chí của linh hồn; c) những người lao động
chân tay và buôn bán, hay đẳng cấp đồng và sắt, tương ứng với phần dục vọng

của linh hồn[52, 124]. Trong một nhà nước công bằng ai cũng có chỗ của mình,
làm đúng cơng việc của mình, thực hiện đúng chức phận của mình. Nhà nước
cơng bằng xem ổn định và trật tự là điều kiện của phát triển. Platon chủ trương
xây dựng một thiết chế nhà nước mới mà theo ông vừa đảm bảo sự bình đẳng xã
hội (cộng đồng lý tưởng), vừa cho phép sự tồn tại bất bình đẳng về hình thức
trong quan hệ giữa các đẳng cấp với nhau nhằm duy trì những thang bậc xã hội
cần thiết, tránh tình trạng vơ chính phủ như trong nền dân chủ.
Cơng bằng trong quan niệm của Arixtốt (Aristotle) là sự thực hiện một
hành vi vơ tư, khơng vụ lợi và tự nguyện, cịn bất cơng là sự tương phản với nó,
nghĩa là muốn làm nhiều hơn cái phần có quyền được có, đồng thời gây thiệt hại
cho người khác. Do vậy, trong các đức hạnh mà Arixtốt đề cập đến như can


8

đảm, tiết độ, hào phóng... thì cơng bằng là đức hạnh quan trọng nhất. Nhưng
công bằng khác với đức hạnh vì, một là, nó đề cập đến quan hệ của con người
với cả chính mình lẫn những người khác, trong đó, phần quan hệ với những
người khác được chú trọng hơn; hai là, nó cịn thuộc về lĩnh vực luật pháp, được
xét đốn dưới góc độ thực thi pháp luật. Aristote lần đầu tiên phân chia công
bằng thành ba loại: 1. công bằng phân phối, tức phân phối của cải vật chất theo
giá trị đóng góp của mỗi cá nhân, tương phản với nó là bất cơng, tức sự thiếu
cơng bằng trong phân phối; 2. cơng bằng giao hốn, nghĩa là sự sắp xếp công
việc hợp lý giữa các cá nhân; 3. công bằng trong trừng phạt, tức phế bỏ sự thái
quá và bất cập trong quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác, sao cho giữa
lợi ích và thiệt hại có những điều hịa thỏa đáng. Người làm luật và người thi
hành luật ở trường hợp nào cũng đặt lương tri và nhân phẩm lên hàng đầu[52,
181]. Trong các loại cơng bằng trên thì ơng dành cho sự công bằng phân chia
theo tỷ lệ tương xứng một ý nghĩa đặc biệt.
Cùng với cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt, vấn đề công bằng trở

thành khẩu hiệu của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp
thống trị, bóc lột. T. Hốpxơ (T. Hobbes) trong tác phẩm “Về công dân” và
“Leviathan” (phần 2 – Về Nhà nước) đã đưa ra học thuyết về hai trạng thái của
xã hội – trạng thái tự nhiên (Status naturalis), chưa có nhà nước, và trạng thái
cơng dân (Status civilis), học thuyết về “vật thể”, về tương tác của các mặt đối
lập trong thế giới. Nhà nước là vật thể nhân tạo, cái đối lập với trạng thái tự
nhiên của con người. Hình ảnh thủy quái “Leviathan” cho thấy nhà nước đại
diện cho quyền lực tối cao và các cơng dân; vì người phục tùng nó thơng qua hệ
thống luật pháp. Luật và quyền tự nhiên trùng hợp với nhau về lối sống. Tuy
nhiên các luật tự nhiên với tính khách quan, tính cơng bằng cùng các yếu tố đạo
đức rút ra từ chúng, không phải là “luật” theo nghĩa máy móc của từ đó, mà là
những định hướng chung, đưa con người đến hịa bình, sự thân thiện và sự tuân


9

phục. Luật tự nhiên là luật vĩnh hằng. Nhà cai trị và người xử án đến rồi đi,
nhưng luật vẫn cịn mãi, vì nó là luật do Thượng đế tạo ra cho nhân loại. Luật tự
nhiên là luật không cần văn bản hóa, khơng cần được tun bố. Trong lương tri
mỗi người đều tồn tại một luật thiêng liêng, thể hiện bản chất “người” – một
sinh vật có trí tuệ và đạo đức. Luật tự nhiên, do đó, cũng là luật đạo đức. Nhà
nước ra đời, chấm dứt tình trạng “người với người là chó sói”, “chiến tranh của
tất cả chống lại tất cả”, cũng đồng thời làm cho luật tự nhiên trở thành luật công
dân hiện thực, luật thành văn, luật được thể chế hóa ở quyền lực tối cao. Sự vô
tư, công bằng và đức hạnh trở thành chuẩn mực chung cho toàn xã hội, phản ánh
trạng thái cơng dân thay thế trạng thái tự nhiên ngồi xã hội, vượt qua sự đố kỵ,
thù địch và tình trạng hỗn loạn[4, 91-92-93]. G. Lốccơ (J. Locke) thừa nhận
quan điểm của Hốpxơ về sự thay thế trạng thái tự nhiên bằng trạng thái công
dân, tức nhà nước. Tuy nhiên nếu Hốpxơ mô tả trạng thái tự nhiên của con
người như trạng thái chiến tranh của tất cả chống lại tất cả, thì Lốccơ xem nó

như thiên đường mặt đất, trạng thái tự do và bình đẳng của mọi người, cuộc
sống hịa bình, phù hợp với các quy luật tự nhiên.
Các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII trong cuộc đấu tranh chống lại sự
chuyên quyền của nhà thờ và nhà nước phong kiến đã đóng vai trị đáng kể vào
việc xác lập tư tưởng về quyền tự nhiên và tự do cá nhân, trạng thái công dân.
Họ là những nhà thần luận tự nhiên, đã đồng nhất quy luật của Thượng đế với
quy luật của tự nhiên, gắn các quyền “tự nhiên” với quyền thiêng liêng. Sự đồng
nhất này có tác động tích cực đối với cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội. Cái gì là
tự nhiên đối với con người cũng phù hợp với ý chí Thượng đế. Chẳng hạn như
Vônte (Voltaire) một mặt thừa nhận sự cần thiết của niềm tin tôn giáo, mặt khác
xem Thượng đế như minh chứng cho cơng bằng và bình đẳng xã hội[4, 98]. G.
G. Rútxô (J. J. Rousseau) cho rằng nguyên nhân chính của bất bình đẳng xã hội
là sự phân hóa giàu nghèo, sang hèn, kẻ đi tước đoạt và người bị tước đoạt.


10

Trong tác phẩm “Luận về khoa học và nghệ thuật”, Rútxơ tun bố “giàu có kia
gây ra nghèo khổ này”. Trong tác phẩm “Luận về nguồn gốc và bản chất của sự
bất bình đẳng giữa người với người”, Rútxơ đã phân biệt ba cấp độ của bất bình
đẳng. Cấp độ đầu tiên là bất bình đẳng về tài sản và sở hữu. Cấp độ tiếp theo –
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Nhà nước ra đời với mục đích điều hịa
ln mâu thuẫn, nhưng dần dần biến thành công cụ của một giai cấp, đàn áp các
giai cấp khác. Cuối cùng – bất bình đẳng đạt đến cấp độ cực đoan, khi con người
trở thành nạn nhân của kẻ chun quyền, nhà độc tài. Bên cạnh đó ơng còn đưa
ra quan niệm về khế ước xã hội và sự tuyệt vọng của quần chúng trước kẻ phá
hoại khế ước. Vậy thế nào là khế ước xã hội? Rútxô viết: “Thực chất của khế
ước xã hội là gì? Với khế ước xã hội , - Rútxô nhấn mạnh, - con người mất đi
cái tự do thiên nhiên và cái quyền hạn chế được làm những điều muốn làm mà
làm được; nhưng mặt khác, con người lại có quyền tự do dân sự (công dân) và

quyền sở hữu cái mà anh ta có. Cơng ước cơ bản (Pacte fondamental) khơng phá
bỏ sự bình đẳng tự nhiên, nó xây dựng sự bình đẳng tinh thần và hợp pháp để
thay thế cái mà thiên nhiên đã làm cho con người khơng bình đẳng về thể lực.
Trên phương diện khế ước và pháp quyền, con người không đồng đều nhau về
thân thể và trí tuệ vẫn được hồn tồn bình đẳng ngang nhau[4, 102-103]
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về công bằng xã hội
Tư tưởng về công bằng xã hội đã được C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I.
Lênin đề cập đến trong khi xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trên cơ sở xem xét sự phát sinh, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại là quá trình lịch
sử - tự nhiên, Mác và Ăngghen cho rằng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa nhất định sẽ bị thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, đó là
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Để đi đến xã hội cộng sản chủ
nghĩa, theo tư tưởng của Mác thì lồi người tất yếu phải trải qua hai giai đoạn


11

phát triển: giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng
sản. Trước hết là giai đoạn thấp chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, để
đảm bảo cơng bằng xã hội thì nhất thiết phải thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động. Phân phối theo lao động là một trong những đặc trưng cơ bản của
chủ nghĩa xã hội. Nó thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội là sự công bằng.
Nguyên tắc phân phối theo lao động trong chủ nghĩa xã hội được Mác đề
cập đến trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gơta”. Đó là ngun tắc phân
phối mà theo đó mỗi người sản xuất sẽ nhận lại từ xã hội số lượng sản phẩm tiêu
dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội sau
khi đã trừ đi các khoản chi phí để tái sản xuất và duy trì đời sống cộng đồng.
Mác viết: “một khi đã khấu trừ các khoản đi rồi, mỗi một người sản xuất nhận
được trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội”[29, 33]. Nguyên tắc

phân phối này được xem là nguyên tắc phân phối công bằng trong chủ nghĩa xã
hội. Vì khi làm một cơng việc ngang nhau thì tất cả những người sản xuất đều có
quyền ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội. Ở đây, ngun tắc
phân phối theo lao động “nó khơng thừa nhận một sự phân biệt giai cấp nào cả,
vì bất cứ người nào cũng chỉ là một người lao động như những người khác”[29,
35].
Do công bằng xã hội là mục tiêu, là lý tưởng mà con người luôn phấn đấu
đạt tới nên nó khơng phải là khái niệm bất di bất dịch mà ln mang tính lịch sử
- cụ thể, nó bị quy định bởi hồn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Bởi “quyền
khơng bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá
của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”[29, 37]. Do đó, trong chủ nghĩa xã
hội cũng thế, con người mới chỉ có thể thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động để đảm bảo công bằng xã hội. Đây là nguyên tắc phân phối hợp lý nhất
trong chủ nghĩa xã hội vì của cải trong chủ nghĩa xã hội chưa thật dồi dào như
trong chủ nghĩa cộng sản. Đó là nguyên tắc phân phối mà chúng ta phải trải qua


12

trong quá trình tiến tới thực hiện nguyên tắc phân phối “làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu”. Bởi “cái xã hội mà chúng ta nói ở đây khơng phải là một
xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái
lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản, do đó là một
xã hội, về mọi phương diện – kinh tế, đạo đức, tinh thần – còn mang những dấu
vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra”[29, 33]. Do đó, quan niệm về cơng bằng
xã hội phải ln gắn với hồn cảnh hiện thực của xã hội. Bởi tùy thuộc vào các
quan hệ kinh tế khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về công bằng.
Tranh luận về công bằng, Mác viết : “Bọn tư sản há chẳng khẳng định
rằng sự phân phối hiện nay là “cơng bằng” đó sao? Và quả vậy, trên cơ sở
phương thức sản xuất hiện nay thì đó há chẳng phải là sự phân phối duy nhất

“công bằng” hay sao? Phải chăng những quan hệ kinh tế do những khái niệm
pháp lý điều tiết hay ngược lại, những quan hệ pháp lý lại phát sinh từ những
quan hệ kinh tế? Những môn phái xã hội chủ nghĩa há cũng chẳng đã có những
quan niệm hết sức khác nhau về sự phân phối “công bằng” hay sao?”[29, 3031]. Nếu thoát ly khỏi những điều kiện hiện thực của xã hội thì những tiêu chuẩn
về cơng bằng xã hội khó có thể thực hiện được và rất có thể cái được xem là
cơng bằng trong điều kiện này lại trở thành cái bất hợp lý trong điều kiện khác.
Vì thế, theo Mác, cái nhân tố hợp lý nhất đảm bảo công bằng trong điều kiện xã
hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản là nguyên tắc phân phối theo lao động.
Công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được đảm bảo khi
nguyên tắc phân phối theo lao động được thực hiện. Cơ sở để thực hiện công
bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Khi
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được thực hiện thì mọi thành viên trong xã
hội đều bình đẳng với nhau trong quan hệ về tư liệu sản xuất. Và một khi tư liệu
sản xuất đã là của chung thì tất cả mọi người đều được đối xử như nhau trong
khâu phân phối sản phẩm tiêu dùng. Ở đây, cái được sử dụng làm thước đo để


13

phân phối sản phẩm tiêu dùng cho các cá nhân sản xuất là lao động. “Cùng một
lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh
ta lại nhận trở lại của xã hội dưới một hình thức khác”[29, 34]. Điều đó cũng có
nghĩa là “một số lượng lao động dưới một hình thức này được đổi lấy cùng một
số lượng lao động dưới một hình thức khác”[29, 34]. Đó là ngun tắc phân
phối công bằng nhất trong chủ nghĩa xã hội. Bởi giờ đây tư liệu sản xuất khơng
cịn là của riêng ai nữa nên căn cứ vào lao động để phân phối sản phẩm tiêu
dùng là hợp lý nhất. Vì “Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng
chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự
phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương
thức sản xuất”[29, 36-37].

Nguyên tắc phân phối theo lao động mà Mác dự đoán là sẽ được thực hiện
trong giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa đã vượt qua tính chất hạn chế
của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Các nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng chỉ mô tả về sự phân phối công bằng trong xã hội tương lai trên mặt đạo
nghĩa. Xuất phát điểm từ sự phát triển thực tế của nền kinh tế, Mác và Ăngghen
đã phân tích quy luật khách quan trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Theo đó, chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà
giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Do đó, chế độ phân phối bất hợp lý
trong xã hội tư bản là giai cấp tư sản không làm mà hưởng, cịn người lao động
thì bị bóc lột nhất định sẽ bị thay thế bằng phương thức phân phối hợp lý hơn,
phân phối theo lao động. Bởi việc phân phối sản phẩm sản xuất ra là phụ thuộc
chính ngay vào những điều kiện sản xuất. Do đó, “phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa dựa trên tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm ở
trong tay những kẻ khơng lao động, dưới hình thức sở hữu tư bản và sở hữu
ruộng đất, còn quần chúng thì chỉ là kẻ sở hữu những điều kiện người của sản
xuất, tức là sức lao động. Nếu những yếu tố của sản xuất được phân phối như


14

thế thì việc phân phối hiện nay về tư liệu tiêu dùng tự nó cũng do đó mà ra. Nếu
những điều kiện vật chất của sản xuất là sở hữu tập thể của bản thân những
người lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối những tư liệu tiêu dùng khác với
sự phân phối hiện nay”[29, 37]. Đó là dự kiến khoa học hồn tồn có căn cứ mà
Mác đã đề cập đến trong học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.
Mặc dù nguyên tắc phân phối theo lao động được coi là nguyên tắc phân
phối thể hiện sự công bằng trong chủ nghĩa xã hội, nhưng theo Mác nó vẫn cịn
hàm chứa sự bất bình đẳng ở một mức độ nhất định giữa các thành viên trong xã
hội mà chưa loại trừ được sự bất bình đẳng đó hồn tồn[49]. Bởi trong chủ
nghĩa xã hội, lao động là cái được sử dụng làm thước đo duy nhất để phân phối

sản phẩm tiêu dùng cho cá nhân người lao động để đảm bảo công bằng xã hội.
Do đó, trong trường hợp này, giữa các thành viên trong xã hội chỉ mới được
xem xét ở cùng một giác độ, được đo theo cùng một thước đo như nhau về một
phương diện nhất định nào đó. Cụ thể hơn, trong nguyên tắc phân phối theo lao
động, “người ta chỉ xét họ về mặt là những người lao động, và khơng thấy gì
hơn nữa ở họ, khơng xét đến cái gì khác nữa”[29, 35]. Nhưng trên thực tế, giữa
họ lại có sự khác nhau về năng lực, về thể chất, về hồn cảnh gia đình và một số
yếu tố khác do lịch sử để lại. Nên trong quá trình phân phối thu nhập sẽ có sự
khác biệt về thu nhập giữa những người tham gia sản xuất. Ở đây, cái quyền
ngang nhau của người lao động là sử dụng lao động làm thước đo để phân phối
đã khơng cịn như trước nữa mà giờ đây cái “Quyền ngang nhau ấy là một quyền
không ngang nhau đối với một lao động khơng ngang nhau”[29, 35]. Cũng chính
vì thế mà “với một cơng việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như
nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh hơn người
kia, người này vẫn giàu hơn người kia.v.v. Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy
thì quyền là phải khơng bình đẳng, chứ khơng phải là bình đẳng”[29, 35].
Như vậy, thừa nhận nguyên tắc phân phối theo lao động là nguyên tắc


15

phân phối công bằng nhưng trong chủ nghĩa xã hội, do trình độ của lực lượng
sản xuất phát triển chưa cao nên phải chấp nhận tình trạng bất bình đẳng ở một
giới hạn nhất định giữa các thành viên trong xã hội. “Đó là những thiếu sót
khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó
vừa mới lọt lịng từ xã hội tư bản chủ nghĩa”[29, 36]. Bởi quyền của một xã hội
không thể vượt ra ngoài kết cấu kinh tế - xã hội của chế độ xã hội nhất định mà
bị quy định bởi chế độ xã hội đó.
Ở đây, Mác đã chỉ rõ sự khác biệt giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã
hội. Cơng bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội có thể từng bước thực hiện được

bởi mỗi người lao động sẽ nhận được số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang
bằng với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội sau khi đã trừ đi
các khoản chi phí cho các quỹ xã hội. Nhưng bình đẳng xã hội thì chưa thể thực
hiện hồn tồn được vì trong chủ nghĩa xã hội, giữa những người lao động có sự
khác nhau về năng lực, về thể chất... Vì thế, trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển chưa cao chúng ta vẫn
có thể thực hiện được công bằng xã hội. Nhưng để thực hiện bình đẳng xã hội
hồn tồn thì phải đợi đến “một giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản chủ
nghĩa, khi mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch của con người vào sự phân công
lao động của họ khơng cịn nữa và cùng với nó, sự đối lập giữa lao động trí óc
với lao động chân tay cũng khơng cịn nữa; khi mà lao động trở thành không
những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó cịn là một nhu cầu bậc
nhất của đời sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức
sản xuất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều
tuôn ra dồi dào, - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật
hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”[29, 36].
Về vấn đề công bằng xã hội, trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”,


16

V. I. Lênin cũng đã khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, “tư liệu sản xuất khơng
cịn là của riêng của cá nhân nữa, mà thuộc về toàn thể xã hội”[24, 113]. Do đó,
số lượng lao động của người cơng nhân sẽ được chia làm hai phần: một phần
dùng vào quỹ chung của xã hội và phần còn lại người công nhân sẽ được lĩnh
tùy theo mức độ cống hiến cho xã hội. V. I. Lênin viết: “sau khi đã khấu trừ số
lượng lao động góp vào quỹ chung của xã hội, thì mỗi cơng nhân sẽ lĩnh được
của xã hội một phần bằng phần mình đã cống hiến cho xã hội”[24, 113]. Trong
nguyên tắc phân phối sản phẩm, Lênin đã nhấn mạnh hai nguyên tắc:

Thứ nhất: “người nào không làm thì khơng có ăn”
Thứ hai: “số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm
ngang nhau”[24, 116].
Như vậy, cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đều cho rằng công bằng
xã hội phải được thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động. Do đó,
trong chủ nghĩa xã hội, cơng bằng xã hội chỉ có thể thực hiện được khi nguyên
tắc phân phối theo lao động được thực hiện trên cơ sở chế độ công hữu về những
tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhưng trong điều kiện xã hội đó thì bình đẳng xã hội
chưa thể thực hiện hồn tồn được. Bởi vì nó vẫn sử dụng lao động làm thước
đo để phân phối sản phẩm cho người lao động mà trong xã hội, khả năng của
những người lao động không phải là như nhau mà giữa họ vẫn cịn có những sự
khác biệt nhất định về thể lực, trí lực, hồn cảnh gia đình... Và bình đẳng xã hội
chỉ có thể thực hiện được từng bước trong quá trình tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì cơng bằng được hiểu như thế nào?
Năm 1971, nhà triết học Mỹ Jonh Rawls đã cho xuất bản tác phẩm “Lý
thuyết về cơng bằng” (A theory of justice); trong đó ơng đưa ra một sự khái quát
mới về công bằng xã hội, coi công lý như là công bằng (Justice as fairness). Khi
đưa ra lý thuyết công lý như là công bằng, mục đích của Rawls là đưa ra một lý


17

thuyết cơng bằng có thể thay thế cho những quan điểm đã thống trị quá lâu trong
nền triết học truyền thống. Phân tích vai trị của cơng bằng xã hội, Rawls viết:
“Cơng bằng là đặc tính quan trọng đầu tiên của thể chế xã hội cũng như chân lý
là đặc tính đầu tiên của hệ tư tưởng. Một lý thuyết dù hay ho và có lợi đến đâu
thì cũng sẽ bị loại bỏ nếu nó khơng cịn đúng nữa. Tương tự như vậy, các luật lệ
và thể chế nếu không cơng bằng thì cũng chẳng có ý nghĩa gì cho dù nó được coi
là có hiệu quả và tổ chức tốt, cho nên nhất thiết phải cải tổ hoặc xóa bỏ đi”. Và
“Trong một xã hội cơng bằng thì các quyền tự do và bình đẳng của cơng dân là

bất di bất dịch, và những quyền được đảm bảo bởi cơng bằng thì khơng thể là
chủ đề của sự mặc cả về chính trị hay những tính tốn về lợi ích xã hội”.
Khẳng định cơng bằng chỉ có trong sự hợp tác xã hội, Rawls cho rằng, xã
hội là một tập hợp của các cá nhân. Trong quan hệ xã hội, những cá nhân này
cùng chấp nhận một số nguyên tắc cư xử mang tính bắt buộc, và một cách tất
nhiên, trong quan hệ hợp tác này xuất hiện sự thống nhất và mâu thuẫn xung
quanh vấn đề lợi ích. Tính thống nhất về lợi ích thể hiện ở chỗ, chỉ có sự hợp tác
xã hội mới tạo cho các thành viên tham gia hợp tác một cuộc sống tốt đẹp hơn
so với khi họ sống riêng lẻ, dựa vào cá nhân mình. Cịn mâu thuẫn về lợi ích
biểu hiện khi phần đóng góp của các cá nhân vào sự hợp tác đó lại khơng như
nhau. Do đó, tất yếu phải có một hệ thống nguyên tắc có thể lựa chọn một cấu
trúc nền tảng của xã hội làm cơ sở quyết định việc phân chia lợi ích một cách
thỏa đáng và cũng là sự cam kết thỏa thuận giữa các cá nhân về phần đóng góp
của mình. Hệ thống những ngun tắc đó chính là những ngun tắc của công
bằng xã hội – lấy khái niệm công lý như là cơng bằng làm căn cứ. Ơng viết:
“Một xã hội được tổ chức tốt khi nó khơng những đem lại cuộc sống tốt cho mỗi
thành viên mà còn được điều hành hiệu quả theo một khái niệm cơng bằng
chung. Đó là một xã hội mà: 1) mọi thành viên đều chấp nhận và biết rằng
những người khác cũng chấp nhận những nguyên tắc của công bằng; 2) các thiết


18

chế cấu trúc nền tảng của xã hội cũng tuân theo những nguyên tắc này và điều
này được mọi người biết”. Quan niệm về công bằng như vậy sẽ giúp hạn chế
được những tham vọng quá đáng của con người. Công bằng trở thành một chuẩn
mực chung để điều chỉnh hành vi con người khi tham gia vào quá trình hợp tác
xã hội, nó góp phần tạo ra một xã hội ổn định, có trật tự và mọi người được tự
do.
Đối tượng của công bằng xã hội, theo Rawls, là cấu trúc nền tảng của xã

hội, hay chính xác hơn là cách thức mà phần lớn các thiết chế xã hội áp dụng để
phân chia quyền lợi, nghĩa vụ cơ bản cũng như phân bổ các lợi ích thu được từ
kết quả của sự hợp tác xã hội. Cấu trúc xã hội là đối tượng đầu tiên của công
bằng bởi vì một cấu trúc xã hội như thế nào sẽ có ảnh hưởng một cách phổ biến
đến cuộc sống của mỗi thành viên, mỗi cá nhân trong xã hội; nó quy định những
cơ hội đầu tiên của con người và do vậy, quy định toàn bộ cuộc sống của họ.
Từ việc xác định vai trị và đối tượng của cơng bằng, để xây dựng hệ
thống các nguyên tắc của công bằng, Rawls đã đưa ra tình huống giả định của
cơng bằng gọi là vị trí khởi thủy (original position). Trong trạng thái xã hội có
tính chất giả định là tất cả những khác biệt của người ta về địa vị xã hội, danh vị,
tài sản, chủng tộc, tôn giáo cũng như những may mắn tự nhiên như sức khỏe,
năng khiếu bị che khuất bởi bức màn của sự ngu dốt, con người với sự minh
bạch và không chút thiên vị nào – vẫn có thể lựa chọn và thỏa thuận các nguyên
tắc của công bằng. Rawls cho rằng trong vị trí khởi thủy đó, cơng lý như là cơng
bằng được thực hiện.
Nghiên cứu tư tưởng của Rawls coi công lý như là công bằng ta nhận thấy
rằng, ông đã vừa bảo vệ cho quyền tự do cá nhân, vừa bảo vệ cho thể chế dân
chủ tự do, bảo vệ cho sự tự do hóa các hoạt động kinh doanh nhưng vẫn đề cao
vai trị của chính phủ. Cơng bằng xã hội là điều kiện để tiếp tục phát triển nền


19

kinh tế thị trường, những nguyên tắc về công bằng mà Rawls đưa ra trong Lý
thuyết về công bằng được coi là những phương án để giải quyết mâu thuẫn nội
tại của nền kinh tế thị trường, xoa dịu những căng thẳng xã hội hiện thời.
Ở phương Tây, Lý thuyết về cơng bằng được đón nhận với những thái độ
khác nhau. Phái bảo thủ tìm thấy ở đây vũ khí lý luận để biện hộ cho sự tồn tại
của nhà nước dân chủ tự do kiểu Mỹ; một số nhà kinh tế học lại coi đây là một
lối thoát cho nền kinh tế thị trường. Những ý kiến phản đối thì cho rằng, học

thuyết của Rawls là một sự trình bày lại những nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản
tự do một cách cực kỳ khéo léo hoặc là biểu hiện của chủ nghĩa bình quân cực
đoan. Theo họ, Rawls hy vọng sáng tạo ra một học thuyết phù hợp với những
quan niệm mang tính trực giác của chúng ta về công bằng, song với một số cách
thức phân phối rất kỳ lạ kèm theo những ràng buộc phi hiện thực mà ông đưa ra,
dường như lý thuyết về công bằng chỉ là một cách biện hộ cho sự bất cơng mà
thơi. Bởi vì, nếu như những bất bình đẳng được chấp nhận trong mức độ mà
chúng mang lại lợi ích cho những người có ít lợi thế nhất (nguyên tắc 2) thì điều
này như một lẽ tất nhiên, sẽ cho phép tồn tại những bất bình đẳng trên diện rộng
giữa người giàu và người nghèo miễn là những triển vọng của người nghèo được
cải thiện chút ít.
Rawls đã cố bảo vệ quan điểm của mình bằng cách lập luận rằng, những
kết quả như vậy không thể xảy ra trong thực tiễn, bởi việc áp dụng những
nguyên tắc công bằng sẽ mang lại một xu hướng tự nhiên hướng tới sự bình
đẳng. Theo ơng, có một mối “liên hệ dây chuyền” hoạt động giữa những người
có nhiều và người ít ưu thế nhất, và sự gia tăng triển vọng của những người
nhiều ưu thế nhất sẽ có tác dụng kéo theo sự gia tăng triển vọng của những
người khác trong toàn hệ thống. Thực ra, đây chỉ là sự biện luận cho luận điểm
truyền thống của chủ nghĩa tư bản tự do. Bởi, theo cách lý giải của Rawls, mọi
người chỉ có thể thu lợi từ một q trình kinh tế nếu những người có nhiều thuận


20

lợi nhất được phép tự do tích lũy, có những đặc quyền, đặc lợi trong quá khứ và
ưu thế giai cấp. Do đó, bình đẳng và cơng bằng về cơ hội của ơng cũng chẳng
làm được gì nhiều để giảm bớt sự chênh lệch trong xã hội tư bản chủ nghĩa – cái
mà xã hội ấy khơng thể tự nó giải quyết, khắc phục được[42].
Cũng giống như dân chủ tư sản chỉ là dân chủ dành cho thiểu số giai cấp
thống trị, công bằng xã hội trong xã hội tư sản cũng chỉ mang tính hình thức và

đảm bảo lợi ích cho giai cấp thống trị. Thực tế cho thấy trong xã hội tư sản cuộc
đấu tranh của các tầng lớp nhân dân vì cơng bằng, bình đẳng, dân chủ vẫn diễn
ra gay gắt.
Như vậy, công bằng xã hội là vấn đề đã được đặt ra từ lâu trong lịch sử xã
hội lồi người và nó đã trở thành một trong những mục tiêu quan trọng trong
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Bởi từ khi con người ý thức được
những bất cơng trong xã hội thì cơng bằng xã hội đã trở thành mục tiêu mà con
người luôn phấn đấu vươn tới. Để vươn đến sự công bằng xã hội mà biết bao thế
hệ con người đã khơng ngừng đấu tranh để giải phóng xã hội khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột lẫn nhau. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, con người đã có
những cách hiểu và cách giải quyết vấn đề công bằng xã hội một cách khác
nhau. Về vấn đề này, Ph. Ăngghen đã viết: “Công lý của người Hy Lạp và người
La Mã cho rằng chế độ nô lệ là công bằng: cơng lý của những nhà tư sản năm
1789 địi thủ tiêu chế độ phong kiến, vì chế độ ấy khơng cơng bằng”[28, 379].
Chính sự khác nhau trong cách hiểu và giải quyết vấn đề công bằng xã hội cho
thấy quan niệm về cơng bằng xã hội nó khơng mang tính chất vĩnh cửu cùng với
khơng gian và thời gian mà nó có sự thay đổi cùng với q trình phát triển của
xã hội lồi người. Nó khơng phải là khái niệm mang tính bất di bất dịch mà
tương ứng với mỗi thể chế chính trị khác nhau sẽ có những tiêu chí về cơng
bằng xã hội một cách khác nhau. Sự nhận thức của con người về sự bất cơng ở
mức độ nào thì con người sẽ đấu tranh để vươn đến sự công bằng ở mức độ ấy.


21

Vậy cơng bằng xã hội là gì? Nó quan hệ với bình đẳng xã hội như thế
nào? Theo Từ điển Triết học thì cơng bằng “là mối tương quan giữa vai trò của
một số người riêng biệt (các giai cấp) trong đời sống xã hội và địa vị xã hội của
họ, giữa lao động và sự trả công, giữa hành vi mà một người nào đó đã thực hiện
và sự đền đáp, giữa tội phạm và sự trừng phạt, giữa phẩm giá con người và sự

thừa nhận của xã hội đối với những phẩm giá đó, giữa quyền và nghĩa vụ…”[64,
103]. Khi nghiên cứu về cơng bằng xã hội, có tác giả đã khái quát như sau:
“Công bằng xã hội là một phạm trù xã hội dùng để chỉ trình độ phát triển về
phương diện xã hội của con người (cá nhân và cộng đồng) được thực hiện và thể
hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hố, tinh thần mà trước hết là lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về
nghĩa vụ và quyền lợi giữa xã hội và cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài
hoà của con người, của xã hội phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội”[41, 37].
Theo nghĩa chung nhất thì cơng bằng xã hội được hiểu là sự ngang bằng
nhau giữa người và người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ. Theo
đó, sự phù hợp giữa cái mà cá nhân cống hiến cho xã hội với cái mà anh ta nhận
lại từ xã hội được đánh giá là công bằng, sự không phù hợp đó được đánh giá là
bất cơng. Như vậy, cơng bằng xã hội đề cập đến sự ngang bằng nhau giữa người
và người về một phương diện nhất định, phương diện kinh tế theo nguyên tắc
cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Cịn bình đẳng xã hội là sự
ngang bằng nhau giữa người và người về một phương diện bất kỳ như: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội... Do đó, “cơng bằng xã hội chính là một dạng, một
biểu hiện cụ thể của bình đẳng xã hội và thực hiện cơng bằng xã hội chính là
thực hiện một phần của bình đẳng xã hội, là thực hiện bình đẳng xã hội về một
phương diện nhất định – phương diện cống hiến và hưởng thụ - và là một bước
tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt tới bình đẳng xã hội hồn tồn,
chứ chưa phải là đã đạt tới bình đẳng xã hội hồn tồn”[50, 63-64].


22
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
CÔNG BẰNG XÃ HỘI

1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng bằng xã hội
Đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta nói riêng, đối với phong trào

đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới nói
chung thì cơng lao của Hồ Chí Minh là vơ cùng to lớn. Để tưởng nhớ cũng như
tôn vinh giá trị di sản lý luận của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định,
cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh thì tư tưởng về cơng bằng và bình đẳng xã hội được Người
thể hiện như một trong những mục tiêu căn bản nhất của sự nghiệp đấu tranh và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người rất coi trọng vấn đề công bằng xã
hội, luôn gắn công bằng xã hội với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là
phương thức duy nhất đúng hợp lòng người để thực hiện công bằng xã hội. Bởi
theo Người, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đem lại cho nhân loại, cho mọi
người tự do, bình đẳng bác ái, ấm no. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đem lại
cho mọi người trên trái đất này niềm vui, hòa bình và hạnh phúc vì ở đó mọi rào
cản về phân biệt chủng tộc và nguồn gốc đều bị xóa bỏ. Vậy chủ nghĩa xã hội là
gì? Hồ Chí Minh đã đặt câu hỏi như thế đồng thời cũng giải thích cặn kẽ về chủ
nghĩa xã hội: “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là gì? nói một cách đơn giản và dễ
hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
trước hết là nhân dân lao động...”, “Chủ nghĩa xã hội là gì? là mọi người ăn no
mặc ấm, tự do”[33, 22]
Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về công bằng
xã hội cũng như từ sự thâm nhập, tổng kết và khái quát thực tiễn, Hồ Chí Minh


×