Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đề tài Nỗi ám ảnh về thời gian trong thơ Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.01 MB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>0 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. 1 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. Muïc Luïc Lời mở đầâu ................................................................................................................................................................................................................................................................3 A.Cuộc đời và sự nghiệp ........................................................................................................................4 1. Vài nét về tiểu sử và con người ..............................................................................................4 2. Sự nghiệp văn học .....................................................................................................................4 B. Nỗi ám ảnh về thời gian trong thơ Xuân Diệu ...........................................................................11. I. II. III. IV.. Thời gian là gì? Thời gian trong nghệ thuật là gì?..........................................................11 Quan niệm về thời gian trong thơ Xuân Diệu .................................................................12 Nguyên nhân nỗi ám ảnh thời gian ....................................................................................16 Biểu hiện của nỗi ám ảnh thời gian trong nội dung thơ Xuân Diệu ..........................17 1. Biểu hiện nỗi ám ảnh thời gian trong nội dung thơ Xuân Diệu ............................17. a) Thời gian được tác giả cảm nhận vui .........................................................................17 b) Thẽi gian được tác giả cảm nhận buồn ...................................................................20 c) Thời gian đượct ác gỉa cảm nhận lưu luyến, bâng khuâng...................................21 d) Thời gian được tác giả cảm nhận moat cách nhớ tiếc ....................................23 e) Thời gian được tác gỉa cảm nhận moat cách mạnh mẽ ....................................25 f) Thời gian được tác giả cảm nhận moat cách giục giã, vội vàng......................26. 2. Biểu hiện của nổi ám ảnh thờig ian trong nghệ thuật thơ Xuân Diệu.............28 a) Hình tượng mang tính biểu trưng ............................................................................28 b) Keát caáu trong thô ........................................................................................................32 c) Theå thô ............................................................................................................................33 d) Ngôn ngữ thơ.................................................................................................................36. V. Ý nghĩa của nỗi ám ảnh thời gian đối với Xuân Diệu...................................................38 VI. Sự khác biệt về quan niệm thời gian của Xuân Diệu so với các nhà thơ ...........38 C. Đánh giá chung.................................................................................................................................40 D. Baøi tham khaûo ...................................................................................................................................41 Caùc nguoàn tham khaûo .........................................................................................................................48 Nhaän xeùt cuûa giaùo vieân .......................................................................................................................49. 2 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. LỜI MỞ ĐẦU Trải qua hơn bốn ngàn năm văn hiến, nền văn hóa dân tộc Việt Nam ta được tô điểm bởi nhiều bậc hiền tài, đi cùng với sự phát triển ấy, chúng ta không thể quên nhắc đến sự đóng góp to lớn của nền văn học. Giá trị văn học mang đến cho văn hóa nước nhà nói riêng và văn minh nhân loại nói chung là vô tận, không thể thẩm định hết. Từ thuở trung đại, văn học nước ta đã phát triển cực thịnh với những tên tuổi nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương,… Đến thời hiện đại, văn học vẫn không ngừng phát triển nhờ sự đóng góp của những tác giả tài ba: Nam Cao, Tô Hoài, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử,… Riêng về mảng thi ca, cây bút nổi tiếng trong thi đàn Việt Nam (đặc biệt là Thơ Mới) với nhiều tác phẩm xuất sắc chính là Xuân Diệu- người được mệnh danh là “nhà Thơ Mới nhất trong những nhà Thơ Mới” hay “ông hoàng thơ tình”.Thơ của ông mang những nét riêng, không thể lẫn với bất kì nhà thơ nào chính bởi phong cách độc đáo, đậm chất phương Tây.Thơ Xuân Diệu luôn chất chứa niềm yêu đời thiết tha, nhưng cũng đượm chút buồn, tiếc nuối vì quy luật hữu hạn của vạn vật trên đời. Đến với chuyên đề về người thi sĩ lãng mạn này, chúng tôi xin phép được trình bày về một nét đặc trưng của thơ ông: “NỖI ÁM ẢNH VỀ THỜI GIAN TRONG THƠ XUÂN DIỆU”.. 3 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. A)- CUỘC ĐỜI – SỰ NGHIỆP 1. Vài nét về tiểu sử và con người : Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu; sinh ngày 02/02/1916 tại Tùng Giản, Tuy Phước, Bình Định. Quê quán: Đại Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Xuân Diệu học tiểu học ở Quy Nhơn, sau đó ra học trung học ở Hà Nội và Huế. Năm 1940, ông thi đỗ Tham tá thương chính và vào làm việc tại Mĩ Tho. Một thời gian sau ông xin thôi việc ra Hà Nội kết bạn thơ với Huy Cận. Xuân Diệu tham gia cách mạng từ năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc, thư kí tòa soạn Tạp chí Tiên phong. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I; năm 1948 là Uûy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ 1957 cho đến khi qua đời, Xuân Diệu luôn được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết nạp vào Đảng năm 1949. Năm 1983, ông được công nhận là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1985, Xuân Diệu lâm trọng bệnh và qua đời.. 2. Sự nghiệp văn học : Di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại: - Trước Cách mạng tháng Tám: Trước Cách mạng tháng Tám, ông là nhà thơ được xem là "mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh), là “người mang đến cho Thơ Mới nhiều cái mới nhất” (Vũ Ngọc Phan), ở thời kì này ông viết cả thơ lẫn văn xuôi. Trong đó đáng chú ý là: Thơ Thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Phấn thông ràng (1939), Trường ca (1945). Thơ ông giai đoạn này mang đến một cách nhìn mới, một bút pháp mới, một cảm xúc mới và bao trùm là một thứ Thơ Mới thực sự mới.Những cách tân của Xuân Diệu và phong trào Thơ Mới đã góp phần đổi mới thơ ca Việt Nam, thực sự đưa thơ ca Việt Nam chuyển sang phạm trù hiện đại. Xuân Diệu cũng là nhà thơ tình yêu với những cung bậc nồng nàn và tha thiết.. - Sau Cách mạng tháng Tám: Sau Cách mạng tháng Tám, năng lực sáng tạo của Xuân Diệu không chỉ thể hiện ở thơ ca mà còn được bộc lộ ở nhiều thể loại văn học khác như bút kí, tiểu luận phê bình... ở thời kì này ông có nhiều tập thơ tiêu biểu như Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982)... Cũng như thơ ca ta trong giai đoạn này, thơ Xuân Diệu ca ngợi nhân dân đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ. Ông viết nhiều về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về đấu tranh thống nhất nước nhà v.v... Nếu ngày xưa thơ ông bộc lộ lòng ham sống một cách thiết tha, một tình yêu rạo rực, thì ở giai đoạn này thơ ông vẫn là “sự sống chẳng bao giờ chán nản” của một hồn thơ gắn bó với nhân dân, đất nước. Xuân Diệu cũng là người để lại nhiều công trình nghiên cứu và phê bình văn học có giá trị. Ông viết về hầu hết các nhà thơ cổ điển Việt Nam với những tiểu luận văn học đặc sắc. Ông viết về Nguyễn Trãi. Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương, Tản Đà, Trần Tuấn Khải... Viết về ai ông cũng có cái nhìn mới, khám phá ra nhiều cái hay mà người trước chưa đề cập đến. Ông cũng viết nhiều về công việc làm thơ, về thơ của các nhà thơ trẻ, về những hiểu biết của ông về ca dao, dân ca. 4 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. + Thơ : Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau- Cầm tay ( 1962), Khối hồng(1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976), Thanh ca (1982). + Văn xuôi, tiểu luận, phê bình : Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng (1958), Ba thi hào dân tộc (1959), Phê bình giới thiệu thơ (1960), Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn (1968), Và cây dời mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắt nên kim (1977), Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ( hai tập; 1981& 1982). + Dịch và giới thiệu thơ nước ngoài của các nhà thơ như : Targo, Puskin, Maiacốpxki, Đimitrôva,... Tóm lại: Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt được nhiều thành tựu lớn trong sáng tác. Xuân Diệu là người giới thiệu, phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được những thành công lớn không chỉ ở việc giới thiệu, phê bình thơ cổ điển, thơ ca hiện đại, mà còn ở cả thơ ca nước ngoài. Ông thường chỉ ra được cái hay, sự độc đáo ở mỗi nhà thơ qua tác phẩm của họ. Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ông có khát vọng hiến dâng sức lực và trí tuệ của mình cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc để phục vụ nhân dân … Chính vì lẽ đó, Xuân Diệu được tất cả độc giả trong nước yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà còn ở tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước cuộc đời. a) Xuân Diệu và thơ Xem xét hiệu ứng của thơ trong đời sống, những ấn tượng Xuân Diệu để lại trong lòng người không ai có thể bì kịp. Thay cho công thức “gương mặt tiêu biểu” đã mòn tôi muốn nói Xuân Diệu là hiện thân của Thơ Mới. Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong Thơ Mới thôi thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu. * Xuân Diệu và Thơ Mới Xuân Diệu thường nói ông mang trong mình quê hương thống nhất. “Cha đàng ngoài má ở đàng trong” - cái lý của ông thật cụ thể. Mượn cách nói ấy khi xem xét sang lĩnh vực thơ tôi cũng muốn nói rằng ông mang trong mình nền thơ Việt Nam thế kỷ XX. Nửa đầu thế kỷ thơ Việt có chuyển đổi về mặt cơ cấu từ mô hình kiểu trung đại chuyển sang một mô hình hiện đại. Khi thơ như một cơ cấu đã ổn định từ sau 1945 cái định hướng rõ nhất là chuyển đổi chức năng để phục vụ xã hội. Trong cả hai cuộc vận động người ta đều thấy Xuân Diệu là một trong những tên tuổi được nhắc nhở nhiều nhất. 5 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. Trong phạm vi Thơ Mới ông không có những bài thơ coi là mở đầu như Phan Khôi. Ông không có vai trò người khai phá đầy tài năng như Thế Lữ, không có những tác phẩm chín như Huy Cận. Song nói đến thời đại này là phải nói đến ông. Qua ông thấy cả sự vận động của Thơ Mới. Tuy cùng nằm trong khuôn khổ hiện đại hóa văn học song những gì diễn ra trong thơ tiền chiến khác hẳn trong văn xuôi. Với văn xuôi các nhà văn của ta bằng lòng làm người học trò nhỏ của văn học Pháp. Thơ thì khác. Ban đầu người ta không chịu. Theo Phạm Quỳnh kể có những ông đồ tự hỏi: “Bên Tây cũng có thơ à?” Quan niệm như vậy cho nên trong thực tế đồ thị vận động cũng khác nhau. Ở văn xuôi mọi chuyện từ từ không có đột biến. Thơ cũ sau một hồi chống chọi như là xảy ra tình trạng “vỡ trận”. Kết quả là có Thơ Mới náo động một thời. Có thể tìm thấy bóng dáng cuộc vận động này trong bước đi của Xuân Diệu. Ông đến trong tư thế khẳng định. Ban đầu Thơ Mới làm cho người ta ngỡ ngàng? Thì Xuân Diệu làm cho chúng ta ngỡ ngàng. Rồi cuối cùng chúng ta thấy Thơ Mới gần với ta? Thì Xuân Diệu đã được cả một thời say đắm. Xuân Diệu là tất cả cái hay cái dở của Thơ Mới. Là sự cởi mở và tham vọng của con người đương thời. Là hào hứng đi ra với thế giới. Nhưng cũng là nông nổi cạn cợt là nhanh chóng chán chường và bế tắc. Nếu cần nói gọn một câu về vai trò của Xuân Diệu trong Thơ Mới thì nên nói gì? Hoài Thanh là người đầu tiên cho rằng “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà Thơ Mới”. Ở Sài Gòn năm 1967 trong tập Bản lược đồ của văn học Việt Nam (Ba thế hệ của nền văn học mới) Thanh Lãng cũng viết một câu tương tự. Cho đến nay công thức đó vẫn được nhiều người nhắc lại. Giữa các phong cách của Thơ Mới Xuân Diệu là một cái gì vừa phải hợp lý ông vốn có cái dễ dàng để đến với đám đông trong văn chương cũng như trong cuộc đời. Thế Lữ hơi cổ. Trong thơ Thế Lữ người ta vẫn cảm thấy một cái gì hơi già hơi cũ mắt nhìn về cái mới chứ chân chưa đặt tới cái miền mới mẻ đó. Mong muốn kéo nhà thơ này đi tới nhưng con người ông không theo kịp. Lưu Trọng Lư cũng vậy mà lại ngả sang mơ mộng xa xôi. Huy Cận chậm rãi khoan thai đậm chất văn hóa và Huy Cận như già trước tuổi nữa. Về độ chín của thơ Xuân Diệu không bằng Huy Cận. Song sự trẻ trung làm cho Xuân Diệu có sự hấp dẫn hơn phổ biến hơn nhiều. Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên ăn nhiều ở sự hướng thượng suy tư độc đáo. Các ông có cái gì đó mà người bình thường khó với tới. Họ nhìn theo các ông mà ngại. Xét về ảnh hưởng với các thế hệ sau vai trò của Xuân Diệu cũng rất lớn. Như ở thế hệ những người sinh khoảng 40 của thế kỷ trước, những Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật. Nếu đặt ra một hàng những Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử thì trong sự khác nhau rất rõ họ vẫn gần với Xuân Diệu hơn cả số người nằm cùng một trục dọc với Xuân Diệu khá đông đảo. Xuân Diệu như hoa hồng 6 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. trong một vườn hoa loại nào cũng đẹp. Như một thứ cơm tẻ vừa với mọi người. Đi đến một tổng hợp khái quát nhất Hoài Thanh ở cuối bài tổng luận về Thơ Mới bảo Xuân Diệu là “nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”. * Hồn thơ của một con người Âu hóa và mang những mỹ cảm hiện đại Xuân Diệu trước hết đại biểu cho những con người tiếp xúc với văn hóa phương Tây ngay từ nhà trường làm nên một thứ nhân tố mới hình thành trong xã hội. Nhiều người đã nói về điều này mấy ghi nhận dưới đây chỉ là một khía cạnh nhỏ. Ông là con người của ham muốn say đắm muốn sống hết mình. Chỉ cần đọc một câu thơ: “Anh nhớ tiếng anh nhớ hình anh nhớ ảnh Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi” Người ta đã biết ngay nó không thể có ở nhà thơ cổ điển mà nó phải thuộc về một nhà thơ hiện đại. Mặc dù có những bài tuyệt bút song Xuân Diệu thường vẫn để lại ấn tượng có chỗ sượng chưa chín chưa đều tay. Ông là người rất có ý thức mà cũng là rất nhạy cảm khi bênh vực cho cái dang dở. So sánh ca dao Nam Trung bộ và ca dao miền Bắc ông nói rằng ca dao miền Bắc quá trau chuốt quá hoàn chỉnh trong khi ca dao Nam Trung bộ trần trụi thô mộc nên dễ gần. Có lần nhận xét về một bài thơ Xuân Diệu bảo khi người ta cảm động quá người ta có gì đó run rẩy lúng túng. Trong những trường hợp này Xuân Diệu đã biện hộ cho mình. Chính ở cái vẻ vội vàng hấp tấp dở dang chưa thành này mà Xuân Diệu gắn với con người đương thời. Nhưng không chỉ có thế. Không chỉ có hồn nhiên tuổi trẻ mà càng về sau Xuân Diệu càng tỏ ra sống hết với cái đã đầy của cuộc sống. Bài Hy mã lạp sơn là một cách ướm thử sự vượt lên cái thông thường tự làm khác mình đi và đẩy suy nghĩ của mình tới cùng tới cái tuyệt đối. Nhưng một lần tới rồi thì ông biết ngay là không bao giờ nên trở lại nữa. Biết điều tội nghiệp run rẩy thiết tha Xuân Diệu là chính mình hơn trong Lời kỹ nữ. Sự khác nhau giữa Thơ cũ và Thơ Mới bắt đầu từ sự đổi khác của tâm lý con người của cách xúc động… và điều này đã được nhiều người như Lưu Trọng Lư Hoài Thanh diễn tả sâu sắc. Mối quan hệ giữa lý trí và cảm xúc là một vấn đề lớn của con người hiện đại. Hồi 1961 nhân tuyển thơ 15 năm sau Cách mạng Chế Lan viên nói như một câu buột miệng “Xuân Diệu cần hồn nhiên hơn và Tế Hanh phải bớt tự nhiên đi”. Tôi đọc và tưởng là về già Xuân Diệu mới vậy. Sau đọc lại thấy cái cách sống và làm việc theo lý trí này có từ Xuân Diệu hồi Thơ Mới. Xét trên toàn cục Xuân Diệu đã là một con người nhất quán những năm cuối đời chỉ tô đậm những nét vốn có của ông lúc trẻ. Và đó chính là dấu hiệu làm chứng cho sự có mặt của nền văn hóa mà ông tiếp nhận từ nhỏ. Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn gần đây nói rằng con người ông có cả văn hóa Việt Nam lẫn văn hóa Mỹ. Trong Xuân Diệu cái yếu tố Mỹ được thay bằng văn hóa Pháp. Cố 7 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. nhiên là cách kết hợp những yếu tố khác nhau ở người này không bao giờ giống như ở người khác nhưng họ đều là hiện tượng đa văn hóa. * Thơ tám chữ thơ bảy chữ Trên phương diện hình thức nghệ thuật thơ so với các nhà Thơ Mới khác Xuân Diệu càng để lại ấn tượng riêng về một cái gì vừa miệng với số đông nghĩa là rất phổ biến. Sáng tạo của Thơ Mới trên phương diện thể thơ gồm hai phần: một là đưa thể tám chữ lên mức hoàn chỉnh và thứ hai là có những cách tân mới đối với các thể cũ như thơ bảy chữ thơ lục bát. Sở dĩ đọc Thế Lữ ta cảm thấy một cái gì cũ cũ bởi vì ngoài Nhớ rừng các bài tám chữ khác của ông để lại ấn tượng nặng nề do sự xâm nhập của yếu tố văn xuôi. Ở các bài như Đi giữa đường thơm. Nhạc sầu của Huy Cận, Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh chúng ta thấy thơ tám chữ tự nhiên như một sản phẩm thuần Việt. Mà cái đó đến sớm với Xuân Diệu. Những bài như Tương tư chiều, Vội vàng, Hoa đêm của ông cùng với Lời kỹ nữ, Hy mã lạp sơn vừa nói ở trên là những sáng tác hoàn thiện. Hoài Thanh rất tinh khi bảo thơ tám chữ của Xuân Diệu có nguồn gốc ở ca trù. Cảm giác gần gũi có được là do cái hồn thơ một cái gì thanh thoát mà lại hơi lẳng lơ tinh nghịch. Mặt khác là hơi thơ biểu hiện ở độ dài. Tính số câu của một bài thơ trong khi Tiếng địch sông Ô của Huy Thông làm chúng ta ngợp thì các bài tám chữ của Xuân Diệu và những bài vừa nhắc trên của Huy Cận Tế Hanh… cũng gần gũi hơn hẳn. Một đóng góp khác của Xuân Diệu trong thể thơ bảy chữ những bài gồm ba, bốn khổ nó là một hơi thơ mạnh đi như một lát dao sắc. Tản Đà không có bài thơ nào sử dựng tứ tuyệt như vậy. Trong số 47 bài của Mấy vần thơ của Thế Lữ chỉ thấy có một bài mang tên Yêu là cũng gồm ba khổ như thế này. Nhưng đây là một bài thơ rất ít người nhớ. Còn với Xuân Diệu chúng ta thấy hàng loạt: Nguyệt cầm, Nụ cười xuân, Trăng, Huyền Diệu, Gặp gỡ, Yêu, Tình trai, Đây mùa thu tới, Ý thu, Hẹn hò, Đơn sơ. Tôi chợt nhớ tới thể sonnet của Pháp (Từ sonnet có nguồn gốc từ tiếng Ý sonetto (từ một bài thơ Old Provençal với thể loại sonet có nguồn từ chữ bài hát son, từ gốc sonus nghĩa là âm thanh). Đến thế kỷ thứ mười ba sonnet được chuẩn hóa thành một bài thơ mười bốn dòng với một luật gieo vần nghiêm ngặt và một cấu trúc nhất định.) và muốn giả thiết rằng ở những bài thơ nói trên Xuân Diệu đã kết hợp giữa thơ Pháp và thơ dân tộc. Ông Việt hóa sonnet từ nền văn hóa mà ông mới tiếp nhận và mang lại cho nó một âm hưởng phương Đông bằng cách lai tạo nó với thất ngôn tứ tuyệt. Giờ đây loại thơ gồm ba hay bốn khổ tứ tuyệt - 12 hoặc 16 câu bảy chữ - đã là một cấu trúc cổ điển. Thơ tình của Xuân Diệu sau 1945 thường trở lại với thể này “Nguyện Hoa nở sớm Tình yêu san sẻ Ngược dòng sông Đuống” 8 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. * Thơ của Xuân Diệu mang cái mới mẻ đến từ hội nhập Nhớ lại khi Xuân Diệu mới xuất hiện Hoài Thanh thú nhận: “Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng”. Cái tình đồng hương nói ở đây gồm hai yếu tố: Một là những yếu tố thuần Việt. Đã nhiều người nói tới cái phần thi liệu Việt ở Xuân Diệu từ “Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò” tới “Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya” hoặc “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Hai là những yếu tố mượn từ đời sống và văn hóa Trung Hoa đã được Việt hóa. Cái yếu tố này vẫn thấy ở nhiều nhà văn tiền chiến từ những ông già thả thơ đánh thơ ở Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân tới mấy người khách ở Phố Cẩm Giàng và Chú khách bán mằn thắn của Thạch Lam... Bấy lâu ta cứ ngỡ ở Xuân Diệu chỉ có Rimbaud với Verlaine hóa ra ta nhầm. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đọc lại báo Ngày nay 1938 còn dẫn ra cả một đoạn Xuân Diệu ca ngợi mùa thu “mặc dầu ở bên tây vẫn có mùa thu thiên hạ vẫn cứ thấy mùa thu là ở bên Tàu. Mùa thu cũng đồng một quê quán với Tây Thi với nàng Tây Thi quá xa nên quá đẹp”. Trong cả Thơ thơ lẫn Gửi hương cho gió cái chất Trung Hoa này xuất hiện ở nhiều dạng. Trong vốn từ ngữ. Trong cái nhịp thơ tứ tuyệt nói ở trên. Và trong thi liệu: “Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi Tôi yêu Ly Cơ hình mơ màng Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi.” Có cả một bài mang tên Mơ xưa nhắc lại những Gió liễu chiều còn nhớ kẻ dương quan. Yếu tố Trung Hoa cổ điển ở đây là một bộ phận của yếu tố Việt Nam. Nước Việt Nam trong thời gian. Nước Việt Nam với cái vẻ quý tộc tinh thần... Tất cả lại hiện diện. Xin nói tiếp về Nguyệt cầm. Trăng ở đây được gọi là nguyệt đàn gọi là cầm. Nguyệt và trăng đàn và cầm cùng tồn tại song song. Cái hồn hiện đại nhập vào cảnh cũ Linh lung ánh sáng bỗng rùng mình. Nhưng trăng và đàn lại là những motip của thơ cổ phương Đông. Còn chữ linh lung với nghĩa ánh sáng chấp chới thì không biết có phải lấy từ bài Ngọc giai oán của Lý Bạch (khước há thủy tinh liêm - linh lung vọng thu nguyệt) chỉ biết sau Xuân Diệu không ai dùng nó nữa và các từ điển tiếng Việt mới in nửa sau thế kỷ XX chỉ ghi lung linh chứ không còn ghi linh lung. Với bài viết kinh điển Một thời đại trong thi ca Hoài Thanh đã sớm cảm thấy cái mới ở Xuân Diệu nói riêng và Thơ Mới nói chung là đến từ hội nhập. Gần đây nhà thơ Hoàng Hưng (bài Thơ Mới và thơ hôm nay) phát hiện thêm. Ông bảo: “thơ Pháp thế kỷ 9 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. XIX đã thúc đẩy Huy Cận Xuân Diệu tìm ra những ý vị lãng mạn của thơ Đường mà suốt một thế kỷ trước đó các vị túc nho đã không cảm nhận nổi mà chỉ nhai cái bã niêm luật”. Tức là nhờ hội nhập hôm nay mà ta phát hiện lại thành tựu của hội nhập hôm qua. Ta được làm giàu lên nhiều lần hơn là ta tưởng. Hơn thế nữa hội nhập không phải chỉ có một chiều là hướng ngoại hội nhập còn là quay trở về phát hiện lại bản thân và nhận diện lại những yếu tố nội sinh. Nói cách khác nhờ hội nhập mà cốt cách của dân tộc được phát hiện. Xuân Diệu đã làm công việc này một cách có ý thức. Ông có riêng một bài viết mang tên Tính cách An Nam trong văn chương (báo Ngày nay 28-1-1939) ở đó ông nói rằng “Trong lòng An Nam của chúng ta vẫn có những phần nhiều những ý những cảm giác mà người Tây có. Xưa kia ta không nói là vì ta không ngờ; bây giờ cái não khoa học của Âu Tây đã cho biết rằng ta có vẫn có đã lâu những của cải chôn giấu trong lòng thì sao ta không nói”. * Kết Không phải là thơ Việt Nam sau 1945 không có những đổi mới về hình thức song một sự thay đổi có tính chất bước ngoặt như hồi 1932-1941 không còn nữa. Nhu cầu của xã hội lúc này là tận dụng sự phát triển đã có từ Thơ Mới để hướng thơ vào các hoạt động tuyên truyền giáo dục quần chúng. Ngay ở Sài Gòn trước 1975 nơi sự hội nhập với thế giới còn được làm trong lặng lẽ thì thơ vẫn không tạo được những bước nhảy đáng kể. Nổi lên trên bề mặt thơ sau 1945 vẫn là sáng tác của các nhà Thơ Mới: Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, ấy là không kể một lớp nhà thơ trẻ mới hình thành tất cả mang lại cho Thơ Mới một sự hồi sinh một đỉnh cao thứ hai. Trên hướng phát triển này Xuân Diệu tiếp tục vị trí hàng đầu của mình. Năng lực của ông không còn hướng vào việc tìm tòi cái mới; có cảm tưởng với ông tất cả đã đủ vấn đề bây giờ chỉ là tìm cách khai thác tận dụng cái đã có. Mà về việc này thì từ bản tính “tay hay làm lụng mắt hay kiếm tìm” ông có cả từ sự thành thạo tức thói quen lao động siêng năng tới sự nhạy cảm biết tìm ra những phương án tối ưu trong lao động. Thơ Xuân Diệu những năm cuối đời gợi cho ta cảm giác một trái cây không còn được tiếp nhựa sống từ toàn thân mà chỉ tự chín thời gian chín lại kéo quá dài nên - nói như dân gian vẫn nói - chín rụ chín rị tức có cả cái phần đã đầy nát vỡ lữa ra. Nhưng ở chỗ này nữa lại càng thấy tính chất đại diện toàn quyền của Xuân Diệu với Thơ Mới. Người ta không thể đòi hỏi quá nhiều ở một người. Đặt trên cái nền chung của lịch sử thì vẫn thấy ông đứng sừng sững ở giai đoạn chuyển đổi của nền thơ Việt Nam như một thách thức và một điểm đối chiếu.. 10 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. B)- NỖI ÁM ẢNH VỀ THỜI GIAN TRONG THƠ XUÂN DIỆU. I) Thời gian là gì? Thời gian trong nghệ thuật là như thế nào? Một số từ điển định nghĩa rằng, “thời gian” là một hình thức tồn tại cơ bản của vật chất diễn biến một chiều theo ba trạng thái là quá khứ, hiện tại và tương lai. Với các nhà Vật lý, thời gian là thứ mà có thể đo được chính xác bằng một chiếc đồng hồ. Các nhà Toán học lại quan niệm thời gian một chiều được xem là liên tục, nhưng có thể chia thành các “thời khắc” giống như từng tấm ảnh của một cuộn phim. Có thể thấy, một khái niệm chính xác về thời gian là một thách thức lớn đối với mọi lĩnh vực. Chỉ dựa vào những khái niệm trên, ta đã có thể hiểu được rằng “thời gian” là một khái niệm rất khó định nghĩa, khó hiểu, khó hình dung, và với mỗi cá thể, mỗi cách nhìn khác nhau, cảm thức về “thời gian” lại được thể hiện theo một cách khác nhau. Với Newton, “Thời gian là độc nhất, tuyệt đối và có giá trị phổ quát khắp mọi nơi.” Còn Einstein lại cho rằng: “Thời gian trôi đi chỉ là ảo ảnh mọi khác biệt giữa quá khứ, hiện tại; tương lai chỉ là những ảo ảnh dai dẳng.” Thời gian phân thành hai loại: thời gian vật lý - thời gian khách quan, và thời gian tâm lý - thời gian chủ quan, phụ thuộc vào ý thức con người. Văn chương nói riêng và thơ ca nói chung, suy cho cùng đều xuất phát từ tiếng lòng, cảm xúc, tình cảm của con người. Mà qua lăng kính tâm hồn, bất cứ khái niệm, thực thể, hiện tượng nào đều không bị bó buộc, vạn vật đều có thể biến tính, biến hình và được cảm thức theo những cách khác nhau. Thời gian cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Thời gian qua ngòi bút nhà văn hoàn toàn có thể phá bỏ quy luật vận động vốn dĩ của nó, đảo lộn trình tự hoặc bỏ qua một hoặc hai ba chiều vận động vốn có của nó. Đó là cách một nhà văn làm ngưng đọng một khoảnh khắc, kéo dài và nới rộng nó ra; cũng như nén lại, co vào một khoảng thời gian một trăm năm đến một thế kỉ. Với thơ ca – nơi người nghệ sĩ gửi gắm vào đó tất cả tình cảm, cảm xúc của mình với khát vọng tạo dựng một thế giới chủ quan đầy hình ảnh, thì suy nghĩ trân trọng về thời gian gắn liền với cảm thụ của nhà thơ trước cuộc đời cũng như ý nghĩa chung về cuộc sống nhân sinh. Niềm rung động của nhà thơ với đời càng dạt dào, nỗi lòng với cõi đời càng thiết tha bao nhiêu, thì những sự trân trọng trước mỗi khoảnh khắc lại càng trở nên tinh tế, mãnh liệt và linh diệu bấy nhiêu. Những quan điểm về thời gian trước Xuân Diệu: “Con người là một sinh vật duy nhất biết mình phải chết”. Lời nói đó của một triết gia phản ánh nỗi ám ảnh, day dứt của con người về sự sống và cái chết, cũng là những ám ảnh, day dứt về thời gian. Thời gian trôi qua vô hình nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong các biến cố lịch sử, trong các thành quả của nhân loại. Nó có quan hệ gắn bó với con người, bởi con người luôn sống và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định của lịch sử. Trong “Bài cáo tật thị chúng” Mãn Giác Thiền sư đã lấy hình ảnh xuân đến xuân đi, hoa tàn hoa nở là một quy luật của tự nhiên, một định luật hiển nhiên của cuộc sống, biểu lộ tâm thế của nhà sư trước quy luật sinh, tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ. Con người, có sinh tất 11 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. có tử, lúc khoẻ mạnh ắt có lúc ốm đau, bệnh tật, có tuổi hoa niên trẻ tráng tất cái già sẽ đến. Quy luật cuộc sống là như thế. Có những nhà thơ nắm bắt, ý thức được sự hữu hạn của đời người bên cái vô hạn của thời gian trường cửu khi buông những lời than thở: “Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi.” ( Nguyễn Công Trứ) Nhất là Xuân Diệu, ta mới thấy được ý thức sâu sắc đến cuồng nhiệt của thi nhân trước dòng thời gian chảy trôi vĩnh hằng. Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn tiêu sinh mạng cá nhân. Với ông, bi kịch lớn nhất của con người lãng mạn chính là thời gian. Xuân Diệu quan niệm thời gian là một đường thẳng tuyến tính, không tuần hoàn, một đi không trở lại.. II) Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu - Thời gian là tuyến tính một đi không trở lại Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu là quan niệm thời gian của một nhà thơ mới, khác với quan niệm thời gian của thơ cũ ( quan niệm thời gian tuần hoàn, gắn cá thể với vũ trụ làm một, chỉ khi chết, hòa vào vũ trụ thì con người mới thực sự được sống). Ông cho rằng thời gian của tuổi trẻ là quan trọng nhất nhưng rồi nó cũng sẽ trôi qua , ông thấu hiểu được quy luật nghiệt ngã của cuộc sông nên cảm thấy tiếc, thấy xót xa. Nên bởi vậy mà ông gửi đến triết lí : sống phải biết tận hưởng, biết quý trọng những giờ phút quý giá của tuổi trẻ để không phải ân hận xót xa, sông vội vàng, hối hả chạy đua với thời gian bởi thời gian tuổi trẻ một đi không trở lại. Từ thấu hiểu quy luật của thời gian, mà ông thấy lo lắng, tiếc, xót xa. để từ đó có ý thức quý trọng từng khoảnh khắc, sống một cách nhiệt tình nhất để không lãng phí quãng thời gian đẹp nhất cuộc đời mỗi người là tuổi trẻ. Thời gian vô hồi vô tận nhưng cuộc đời ocn người lại hữu hạn, vô cùng ngắn ngủi, bởi vậy, hãy tận hưởng từng khoảnh khắc quý giá của thời gian. “Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,” Thông thường, người ta nắm trong tay cái gì rồi mới sợ mất, còn Xuân Diệu, dù “xuân” mới chỉ đương tới, đương đến, nhà thơ đã nghĩ ngay đến khoảnh khắc phai tàn, khoảnh khắc biến mất. Cặp từ đối lập: “tới – qua”, “non – già” càng nhận mạnh sự chảy trôi nhanh chóng, đáng sợ của của thời gian qua mắt nhìn Xuân Diệu. Trong tâm tưởng của Xuân Diệu, ngày hôm nay qua đi rồi tháng, rồi năm, rồi đời người sẽ hết, tuổi già, cái chết là nỗi ám ảnh lớn trong lòng nhà thơ: “Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi Tóc ngời mai mốt không đen nữa Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi” 12 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. Và với những vần thơ trong bài “Thanh niên” ta mới thấy hết được sự nuối tiếc thời gian của nhà thơ: “Ôi thanh niên! Người mang hết xuân thì Hình ngực nở nụ cười tươi màu tóc láng Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng Đuổi bướm đi làm sợ cả hương hoa. Nhà thơ dường như chú ý đến từng bước đi của thời gian từng chút một, như chính “mùa thu tới”: “Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” Thời gian chuyển động qua từng sắc lá trong vườn, và trong “Đây mùa thu tới”. Đó là tiếng gọi của thời gian, hối hả và thôi thúc bằng một điệp khúc “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Thời gian là dấu hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi không trở lại”. Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, thời gian định hướng chứ không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của anh. Thời gian với những bước chuyển động tàn nhẫn, sự đối lập giữa thời gian vũ trụ với thời gian của một kiếp người. - Tuồi trẻ là thước đo thời gian Tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời mình ( sinh mệnh cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo: “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ” Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần). “Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật. Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non –già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, - tuổi trẻ chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm trạng nuối tiếc thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng 13 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !” Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ: “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”: “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ” Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã “thức nhọn giác quan” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những hương nồng của tuổi trẻ ? - Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Ví như kết thúc đoạn thơ trong bài thơ “Vội vàng” là một tiếng thốt: “Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm” Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống . Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh": "Xuân xanh chưa dễ hai phen lại Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".. 14 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể: “Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?” Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. - Thời gian được cảm nhận mới mẻ khi được miêu tả có mùi vị (từ cái vô hình thành cái hữu hình) Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” Đây là hai câu thơ thể hiển rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước đi của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua “mùi”, “vị” của năm tháng “chia phôi” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế: Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan niệm nhản sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu - đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn - “vội vàng" không nghĩa là sống gấp như ai đó đã nói. 15 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. III)- Nguyên nhân của nỗi ám ảnh về thời gian của Xuân Diệu Xuân Diệu nhận thức rõ nét đế đớn đau, khắc nghiệt giá trị của thời gian, của thời khắc tuổi trẻ. “Thời gian của Xuân Diệu mang tính trần thế. Cả hai trăm bài thơ tình cũng bị thời gian… ám ảnh.” Vậy từ đâu lại gây ra nỗi ám như vậy cho chàng thi sĩ yêu cuộc sống này như vậy? Tiếp nhận với những quan điểm mới mẻ tân kì từ Tây phương cùng niềm yêu đời yêu sống vẫn luôn âm ỉ trong tim, Xuân Diệu không nhìn nhận thời gian theo chiều vĩ mô như các nhà thơ Trung đại mà với ông, thời gian một đi không trở lại, và vũ trụ là một khách thể độc lập với con người. Thời gian như một dòng chảy vô thủy, vô chung mà mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Đã có không chỉ một mà khá nhiều bài thơ chứa đựng quan điểm ấy của Xuân Diệu. Bài thơ “Thời gian” ra đời như một tuyên ngôn về thời gian của Xuân Diệu: Dưới thuyền nước trôi Trên nước thuyên chuồi Và nước, và thuyền Xuôi dòng đi xuôi … Nước trôi vô tri Vô tình, thuyền đi Nước không biết thuyền Thuyền biết nước chi Mỗi câu thơ cất lên lại như một lời thở than đầy não nề vủa chàng trai trẻ trước cảnh nước chảy thuyền trôi không điểm dừng, chẳng hồi kết, dai dẳng và miên man. Thời gian trôi không chờ người, năm tháng qua không đợi bất kì ai. Quỹ thời gian khách quan của cuộc đời, vũ trụ có thể là vô hạn, vĩnh hằng, nhưng túi thời gian nhỏ bé khiêm tốn của con người thì luôn có giới hạn và thời gian cứ như dòng nước siết chảy thẳng xuống đáy túi, thấm vào và không thể lấy lại. Nỗi niềm ấy ám ảnh Xuân Diệu trong từng tác phẩm của mình. “ Những ngày cứ thắt đi từng phút Rồi mặt trời cao. Nắng cháy tràn Trưa đến thôi rồi. Bình đã vỡ Nửa ngày xinh đẹp đã tiêu tan” Cuôc sống vốn là một bức tranh đầy màu nhiệm với bao thứ tốt đẹp. Ấy thế mà Xuân Diệu lại cảm nhận cuộc sống như điếu thuốc sắp tàn rất nhanh, nó thắt lại khiến người ta hối tiếc, nửa ngày – từ sớm đến khi mặt trời lên đỉnh điểm, đó cả là thời gian dài nhưng Xuân Diệu cảm nhận rằng nó sẽ tiêu tan rất nhanh. Có lẽ vì đó mà nhà thơ sống hết mình, khao khát thự tại hơn bao giờ hết. Chính vì ý thứ rõ rệt được sự biến chuyển của thời gian nên Xuân Điệu đã sống vội vàng, cuống quýt. Đó là thái độ sống nôn nao, mọi sự đợi chờ thi sĩ đều sợ bỏ phí mất từng khắc của tuổi thanh xuân. 16 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. Nỗi ám ảnh thời gian ở Xuân Diệu lớn hơn bao giờ hết khi mà tạo hóa tràn ngập bao cảnh sắc mê đắm con người. Dường như thi sĩ muốn đoạy quyền tạo hóa, muốn đi ngược lại sự vận động của thiên nhiên, muốn tự mình nắm giữ thời gian, muốn lưu giữ khoảnh khác của tuổi xuân, muốn thời gian ngưng đọng lại, như vậy mới có đủ thời gian để thõa mãn lòng khao khát của tâm hồn nhà thơ. Xuân Diệu đã thi vị hóa thời gian, đã chống trả quyết liệt với cái tàn phá của nó bằng một thứ thời gian rất Xuân Diệu, đó là thời gian nghệ thuật: “Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu mang một sắc thái riêng: thi sĩ dồn nén quá khứ, tương lai về hiện tại, và trong cái hiện tại nhà thơ chỉ chú ý đến cái bây giờ.” Đồng thời, nỗi ám ảnh về thời gian còn xuất từ “cái tôi” cá nhân của Xuân Diệu với một tâm hồn nhạy cảm và tính cách mạnh mẽ, mãnh liệt để từ đó cho nhà thơ cái nhìn tuyến tính về thời gian. “Cái tôi” ấy của nhà thơ trong những bài thơ của ông được thể hiện ở hai trạng thái đối lập mà thống nhất của tâm hồn: lúc mãnh liệt đến cuồng si, lúc lại da diết, lắng sâu.. IV)- BIỂU HIỆN CỦA NỖI ÁM ẢNH THỜI GIAN TRONG THƠ XUÂN DIỆU Nỗi ám ảnh thời gian biểu hiện trong nội dung thơ Xuân Diệu a) Thời gian được tác giả cảm nhận vui Con người ai cũng có niềm vui và nỗi buồn. Có người buồn nhiều, vui ít hay ngược lại, có người buồn ít vui nhiều. Đối với Xuân Diệu – một tâm hồn tha thiết với cuộc sống thì ông vui nhiều hơn buồn. Điều này đã chi phối những sáng tác của ông. Ông vui khi xuan đến, hạ về, thu tới hay đông qua. Ông vui khi gặp gỡ, khi được sống hết mình cho tình yêu, cho cuộc sống,… Đến với tình yêu, ông luôn thể hiện niềm vui, sự khao khát mãnh liệt của mình. Đặc biệt, khi tình yêu ấy lại được đôi cánh mùa xuân nâng đỡ thì nó lại càng trở nên thăng hoa hơn hết. Xuân trong lòng, xuân của tâm hồn, tình cảm đã hoà vào xuân của đất trời nên “Trong vườn thơm ngát của hồn tôi”: “Xuân của đất trời nay mới đến; Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi: Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.” (Nguyên Đán) Trong bài “Xuân không mùa” nhà thơ cũng thể hiện rất rõ lòng náo nức, háo hức của mình khi xuân đến: “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng.” (Xuân không mùa) 17 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. Có thể nói những câu thơ trên thể hiện sự cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu về bước đi thời gian buổi đầu mùa xuân. Mùa xuân tới khắp nơi, đến một cách nhẹ nhàng cùng với một ít nắng và vài ba hạt sương mỏng trên mấy chiếc lá xanh thắm. Trên những cành lá xanh tươi, có năm bảy sắc xanh có chồi lá mới đơm, đó cũng chính là dấu hiệu dự báo mùa xuân mà chỉ có Xuân Diệu, một thi sĩ có thể vận dụng hết các giác quan của mình một cách tinh tế mới có thể cảm nhận từng bước đi của mùa xuân chính xác đến như vậy nên ông khẳng định “xuân đã sẵn trong tôi lai láng”. Khi tình yêu đến trong lòng mỗi chúng ta cảm thấy phấn chấn và yêu đời hơn. Trong tình yêu đôi lứa, Xuân Diệu luôn rạo rực với mùa xuân, niềm rạo rực ấy thường xuất hiện rất tự nhiên: “Mùa xuân chín ửng trên đôi má Xui khiến lòng ai thấy nặng nề.” (Nụ cười xuân) Những cô gái mang trong lòng một tâm trạng rất kín đáo, các chàng trai cũng thế với một trái tim nồng cháy yêu thương khi mùa xuân tới. Niềm hạnh phúc, sung sướng của các thiếu nữ không giấu được khi những sắc màu của mùa xuân đã hiện hữu rất cụ thể trên đôi gò má hồng của khuôn mặt tuổi thanh xuân. Phải có một cảm thức thời gian tinh tế, sâu sắc thì Xuân Diệu mới thể hiện được hình ảnh “mùa xuân chín ửng trên đôi má” của những cô gái xuân. Đối với Xuân Diệu mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, là mùa của sự yêu đương, mùa của sự hăng say nông nhiệt nhất trong đời nên cái cảm giác xuân đã có sẵn trong ông lai láng, đã hình thành từ rất lâu chứ không đợi xuân tuần hoàn của đất trời, của thiên nhiên: “Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời Sao buổi đầu xuân êm ái thế! Cánh hồng kết những nụ cười tươi.” (Nụ cười xuân) Mùa xuân tới, thiên nhiên bừng dậy sức sống non tơ, cành lá bắt đầu đâm chồi nảy lộc, sắc màu hoa lá đang phủ khắp muôn nơi: với nụ cười thắm được kết bằng cánh hồng, với hơi gió xuân thơm mát toả khắp không gian. Buổi đầu của mùa xuân thật êm ái, thanh tao, nhìn đâu đâu cũng là niềm vui, sự rộn ràng của hoa lá mà cũng có thể kết lại thành những nụ cười tươi tắn, hớn hở như con người đang hưởng thụ phút giây tươi đẹp của mùa xuân. Cỏ cây reo vui chào đón mùa xuân bằng những câu đậm trữ tình: “Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy! Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu.” (Xuân đầu). 18 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Nỗi ám ảnh thời gian trong thơ Xuân Diệu. 2015-2016. Mùa xuân đến, xanh biếc cả một bầu trời rộng lớn. Hàng cây, cành lá bỗng dưng nên thơ hơn và con đường đầy hoa lá quen thuộc hằng ngày cũng thế, khiến cho khu vườn tràn ngập sắc màu của sự sống, tươi non mơn mởn: “Hoa thứ nhất có một mùi trinh bạch; Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ.” (Tình thứ nhẩt) Xuân Diệu yêu thích sự trẻ trung, tươi tắn, mới mẻ nên ông quan niệm những gì của buổi đầu, buổi ban sơ là đẹp nhất, tươi tắn nhất và trẻ trung nhất. Khi mùa xuân vừa mới đến những ngày đầu tiên, ông cảm nhận được không khí xuân trong lành và mát mẻ, những bông hoa đầu tiên đang hé nở trên cành, thoang thoảng một mùi tinh khiết, trắng trong làm lòng ông cũng rạo rực, xôn xao hoà vào cảnh vật mùa xuân: “Ngày trong lắm, lá êm, hoa đẹp quá Nhan sắc ơi, cây cỏ chói đầy sao. Tháng giêng cười, không e lệ chút nào, Bằng trăm cánh của bướm chim rối rắm.” (Mời yêu) Mùa xuân đến biết bao nhiêu thứ trên thế giới bừng lên sức sống mới. Xuân Diệu đã miêu tả sức sống mới ấy bằng hương vị, màu sắc, âm thanh đang ở độ nồng nàn, ngọt ngào nhất. Ngày trong xanh, những bông hoa nở biết bao màu sắc tươi đẹp. Xuân đến đã mang cho con người nhiều màu sắc, âm thanh khiến cuộc sống trở nên đầy màu sắc và ý nghĩa. Đến với mùa xuân thì hồn thơ Xuân Diệu luôn mang niềm vui rạo rực, thiết tha của sự hoà hợp giao cảm, thì khi đến mùa thu, ông ít nhiều vẫn giữ tâm thế đó. Điều này thể hiện rõ nhất trong bài Thơ duyên. Không có cảm giác háo hức xôn xao, náo nức, rạo rực như khi đứng trước mùa xuân nhưng mùa thu trong bài Thơ duyên vẫn có nét vui riêng của nó. Một tâm hồn yêu cuộc đời, mơ mộng yêu đương, khát khao giao hoà với ngoại cảnh đã hợp duyên cùng vẻ đẹp của thiên nhiên đầy hương sắc để ngân lên những tiếng huyền. Thơ duyên không hề hoang vắng, cô liêu như nhiều bài thơ viết về mùa thu được sáng tác cùng thời bởi nó diễn tả một thời điểm, một trạng thái đặc biệt ý nghĩa của cả thiên nhiên và con người. Một buổi chiều rất nhẹ, êm, tâm hồn nhân vật trữ tình đang có sự đồng điệu với cảnh vật mùa thu: “Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên, Cây me ríu rít cặp chim chuyền. Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá, Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.” (Thơ duyên) Xuân Diệu với một hồn thơ đa cảm đang rộng mở, đang chờ đón một cái vui tươi, trẻ trung của đời. Nhìn vào đâu trong thế giới thiên nhiên của Xuân Diệu, ta cũng thấy sự 19 Lop11.com.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

×