Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nguyên tắc quản lí của Nhà nước về tài chính BHXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.06 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Nhà nước mỗi quốc gia
đối với người lao động nhằm từng bước mở rộng và nâng cao đảm bảo vật chất,
góp phần ổn định đời sống cho người lao động khi gặp rủi ro như bị ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động, qua đời…
Tài chính BHXH (Quỹ BHXH) là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được
và có thể nói nó là vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc quản lý sử
dụng quỹ BHXH (thông qua các hoạt động thu - chi quỹ BHXH) nó ảnh hưởng
trực tiếp tới sự tồn tại, phát triển của quỹ BHXH và quyết định sự hoạt động, phát
triển của chính sách BHXH. Vì vậy vấn đề quản lí quỹ tài chính BHXH cần thiết
phải có một tổ chức quản lí thống nhất từ Trung ương đến địa phương đó chính là
nhà nước và một nguyên tắc quản lí tài chính chặt chẽ.
Chúng em là sinh viên lớp Đầu tư 51C, thuộc nhóm 4, được học tập môn Bảo
hiểm, dưới sự hướng dẫn của giảng viên ThS. Tô Thị Thiên Hương, được phân
công tìm hiểu về vấn đề “Nguyên tắc quản lí của Nhà nước về tài chính
BHXH”. Chính vì vậy chúng em thực hiện bài tiểu luận này.
Để làm rõ những vấn đề xung quanh “Nguyên tắc quản lí của Nhà nước về
tài chính BHXH”. Bài viết của chúng em được chia làm ba phần lớn như sau:
Phần I: Khái quát chung về BHXH và Quỹ BHXH.
Phần II: Các nguyên tắc quản lí của nhà nước về tài chính BHXH.
Phần III: Áp dụng ở VIệt Nam.
Do còn nhiều hạn chế về trình độ kiến thức cũng như các tài liệu tham khảo nên
chắc chắn bài viết còn có nhiều thiếu sót, hạn chế. Chúng em rất mong được nhận
được sự đóng góp ý kiến chỉ bảo của thầy cô.
Chúng em xin cảm ơn sự hướng dẫn học tập bộ môn Bảo hiểm của ThS. Tô
Thị Thiên Hương. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1
PHẦN I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VÀ TÀI CHÍNH BHXH
I. Nguồn gốc ra đời của BHXH và Quỹ tài chính BHXH.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển kèm theo sự phát triển của lực lượng sản


xuất, việc thuê mướn công nhân trở nên phổ biến thì mối quan hệ giữa người lao
động làm thuê và người sử dụng lao động ngày càng trở nên phức tạp, mâu
thuẫn chủ-thợ ngày càng gay gắt. Lúc ấy, nhà nước phải đứng ra giải quyết và
điều hòa mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của nhà
nước; mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ đều phải đóng một khoản tiền nhất
định hàng tháng được tính toán chặt chẽ trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với
người làm thuê. Số tiền đóng góp ấy hình thành nên một “quỹ tiền tệ” tập trung
trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách nhà nước khi
cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ gặp bất lợi. Thực tế
đã chứng minh, nhờ vậy mà cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày
càng được đảm bảo ổn định; giới chủ cũng thấy mình có lợi, được bảo vệ, việc
sản xuất ngày càng thuận lợi hơn, phát triển hơn.Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập
trung này được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng.
Toàn bộ những hoạt động với mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế
giới quan niệm là “Bảo hiểm xã hội” đối với người lao động. Và quỹ tiền tệ
được nói ở trên được gọi là “Quỹ tài chính BHXH”.
II.Tài chính BHXH.
1.Khái niệm và đặc điểm.
1.1.Khái niệm.
“Tài chính” là tổng thể các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm
xã hội dưới hình thức giá trị, thông qua đó hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ
nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế.
Các quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành những bộ
phận riêng, gọi là các khâu tài chính.
2
Như vây, “tài chính BHXH là một khâu tài chính trong hệ thống tài chính
quốc gia, tham gia vào quá trình huy động, phân phối và sử dụng các nguồn tài
chính nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động khi gặp rủi ro hoặc
sự kiện bảo hiểm, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước”.
1.2.Đặc điểm.

Tài chính BHXH có 4 đặc điểm, đó là:
a) Tài chính BHXH không có muc tiêu lợi nhuận.
Các quan hệ tài chính BHXH luôn chứa đựng lợi ích công cộng. Mục đích
tạo lập và sử dụng quỹ BHXH là nhằm ổn định cuộc sống của người tham gia
BHXH khi gặp rủi ro trong cuộc sống và góp phần phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước. Vì vậy, các quan hệ kinh tế trong quá trình này đều không nhằm vào
mục tiêu lợi nhuận mà là để thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của đất
nước. Ngoài sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, Nhà nước cũng điều tiết
và hỗ trợ quỹ BHXH.
b) Tài chính BHXH có tính đa chủ thể.
Tính đa chủ thể của tài chính BHXH xuất phát từ cơ sở có nhiều bên tham
gia quyết định thành lập và sử dụng quỹ BHXH, đó là:
- Người lao động.
- Người sử dụng lao động.
- Nhà nước tham gia với tư cách là người sử dụng lao động và hỗ trợ thêm.
c) Tài chính BHXH có tính công cộng.
Tính công cộng của BHXH thể hiện rõ nét trong việc hình thành và sử dụng
quỹ BHXH.
Thứ nhất, trong việc hình thành quỹ BHXH, tính công cộng được thể hiện ở
chỗ: Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người tham gia BHXH và
sự hỗ trợ của Nhà nước. Người tham gia BHXH có thể là người lao động hoặc
cả người sử dụng lao động. Khoản tiền do người sử dụng lao động đóng góp
được hạch toán vào chi phí sản xuất, hình thành nên giá thành dịch vụ và sản
phẩm. Người tiêu dùng sẽ phải trả tiền và thông qua việc đó, người tiêu dùng đã
3
gián tiếp đóng góp vào quỹ BHXH. Đồng thời Nhà nước cũng có trách nhiệm
ban hành các chính sách hỗ trợ BHXH đặc biết trong trường hợp BHXH không
có khả năng thanh toán. Số tiền này được trích từ ngân sách nhà nước, mà đó là
loại quỹ tiền tệ được hình thành từ sự đóng góp của tất cả tầng lớp dân cư.
Thứ hai, trong việc sử dụng quỹ BHXH, tính công cộng thể hiển ở sự chi trả,

trợ cấp cho người tham gia BHXH khi họ gặp biến cố trên phạm vi toàn quốc.
Chi tiêu đúng đắn có thể tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế nói chung và các lĩnh vực khác nói riêng. Có thể nói, phạm vi hoạt
động của tài chính BHXH rất rộng, bao gồm toàn xã hội, gắn liền với hiệu quả
hoạt động kinh tế-xã hội ở tầm vĩ mô.
d) Tài chính BHXH có sự kết hợp hài hòa giữa tính hoàn trả và không hoàn
trả, giữa tính tự nguyện và bắt buộc.
Về cơ bản, luật BHXH của nước ta cũng như các nước đều quy định người
lao động và người sử dụng lao động phải tham gia BHXH dưới hình thức bắt
buộc nhằm đảm bảo an toàn xã hội đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người rủi
ro trong cuộc sống.
Ví dụ :
- Luật BHXH Việt Nam quy định người lao động và sử dụng lao động bắt buộc
phải tham gia đóng góp BHXH để khi lao động đủ số năm quy đinh, người lao
động sẽ được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí ( lương hưu) và tử tuất theo phương
thức hoàn trả.
- Cũng trong chế độ BHXH bắt buộc, chế độ ốm đau, tai nạn nghề nghiệp… lại
không có tính hoàn trả mà chỉ khi gặp rủi ro mới được nhận trợ cấp.
- Bên cạnh các hình thức BHXH bắt buộc, luật BHXH Việt Nam cũng quy định
loại hình BHXH tự nguyện để toàn thể nhân dân đều có thể tham gia BHXH,
nhằm đảm bảo công bằng xã hội và đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân.
2.Hoạt động của tài chính BHXH.
Cũng giống như mọi nguồn quỹ khác, quỹ BHXH có hai hoạt động chính là
thu và chi. Quá trình hình thành và phần phối quỹ BHXH dựa trên cơ sở nguyên
tắc cân bằng thu- chi, do Nhà nước quản lí.
4
2.1. Nguồn tài chính BHXH
Tài chính BHXH có hạt nhân là quỹ BHXH. Quỹ này được hình thành từ hai
nguồn: nguồn đóng góp của các đối tượng bắt buộc tham gia BHXH ( gọi tắt là
nguồn bắt buộc ) và nguồn đóng góp của các đối tượng tự nguyện ( gọi tắt là

nguồn tự nguyện ).
Trong quỹ BHXH luôn có một nguồn vốn nhàn rỗi được cho phép đầu tư
phát triển kinh tế-xã hội dưới sự quản lí của Nhà nước. Do đó quỹ BHXH luôn
luôn được đảm bảo và tăng trưởng để chi trả cho các chế độ BHXH đúng thời
gian và đủ về số lượng.
a) Phần quỹ BHXH bắt buộc được hình thành từ các nguồn sau:
• Người lao động và người sử dụng lao động đóng góp:
• Nhà nước đóng góp với tư cách là người sử dụng lao động và hỗ trợ thêm.
• Các nguồn khác:
- Các nguồn tài trợ, viện trợ từ cộng đồng quốc tế và các tổ chức trong nước.
- Tiền lãi do thựchiện các hoạt đông đầu tư như gửi ngân hàng, mua trái phiếu,
cho thuê tài sản…
- Các nguồn quỹ khác như tiền phạt của các cơ quan nôp châm tiền BHXH, tiền
trưng thu khi các đơn vị đóng thiếu BHXH…
b) Phần quỹ BHXH tự nguyện
Phần quỹ BHXH tự nguyện được hình thành chủ yếu do bên tham gia
BHXH tự nguyện đóng góp.
2.2. Sử dụng tài chính BHXH.
Tài chính BHXH chi chủ yếu cho 5 mục đích sau:
- Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH : là trách nhiệm luật định của của BHXH,
gồm trợ cấp ngắn hạn như ốm đau, thai sản, y tế và trợ cấp dài hạn như hưu trí,
tử tuất, tai nạn lao động…
5
- Chi cho bộ máy quản lý BHXH: có thể hiểu đây là khoản chi dùng để duy trì
bộ máy quản lí BHXH như chi tiền lương cho lao động ngành BHXH, chi phí
quản lí hành chính và mua sắm, sửa chữa các tài sản cố đinh…
- Chi đầu tư: như đã trình bày ở trên, phần quỹ BHXH nhàn rỗi được đầu tư phát
triển kinh tế-xã hội dưới sự quản lí và đảm bảo của Nhà nước.
- Chi dự phòng : khoản chi nhằm đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn để tránh
trường hợp thâm hụt quỹ do cân đối thu chi không đảm bảo hoặc do những biến

động lớn trong chính sách tài chính- tiền tệ của quốc gia.
- Chi khác : là những chi phí phát sinh ngoài các khoản trên như chi phí thanh lí,
nhượng bán tài sản cố đinh.
6
PHẦN II
CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÍ CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ TÀI CHÍNH BHXH.
I.Tài chính BHXH cần thiết phải có sự quản lí theo một nguyên
tắc thống nhất.
Một quốc gia chỉ có thể phát triển bền vững nếu sự phát triển kinh tế của
quốc gia đó luôn đi kèm với sự ổn định xã hội. Xã hội càng phát triển, nhu cầu
cần được ổn định càng cao. Muốn vậy hệ thống nhằm đảm bảo ổn định xã hội
cần có quản lí thống nhất, có hiệu quả của nhà nước. Nghĩa là cần phải có sự
quản lí theo những nguyên tắc chung.
BHXH là một trong những chính sách lớn nhằm đảm bảo ổn định xã hôi, là
lưới đầu tiên có vai trò quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội(ASXH).
BHXH hoạt động chủ yếu thông qua Quỹ BHXH. Chính vì vậy quản lí của nhà
nước về Quỹ BHXH theo một hệ thống các nguyên tắc là cần thiết khách quan
để xây dựng và phát triển hệ thống BHXH trên bình diện rộng, có chiều sâu, ổn
đinh và phát triển bền vững.
II. Nguyên tắc quản lý tài chính bảo hiểm xã hội
Mục tiêu quản lý tài chính BHXH là sử dụng nguồn lực tài chính này một
cách hiệu quả và thực hiện công khai theo quy định của pháp luật. Quản lý tài
chính BHXH cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:
1.Tôn trọng luật pháp:
Đây là nguyên tắc đòi hỏi hoạt động quản lí nhà nước về tài chínhc
BHXH phải dựa trên cơ sở pháp luật, các chuẩn mực quốc tế và sử dụng
pháp luật với tư cách là một công cụ để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ của mình.
7

Tuy nhiên nó chỉ phát huy vai trò khi nó được tôn trọng và thực hiện một
cách nghiêm chỉnh trên thực tế. Nghĩa là các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội và mọi công dân phải tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và
nghiêm minh pháp luật quốc gia và các chuẩn mực quốc tế.
2.An toàn, hiệu quả, đảm bảo tính thanh khoản cao, hiệu quả kinh tế cao:
Nguyên tắc này cần được quán triệt trong quản lý tài chính BHXH, đó là cơ
sở vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu đạt hiệu quả. Chính vì vậy, khi
đưa ra một quyết định về tài chính BHXH cần cân nhắc, xem xét trên nhiều
phương án, nhiều góc độ khác nhau.
• An toàn:
Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH cho
người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo
an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư
về danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng có ý nghĩa
quan trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn
lĩnh vực để giảm thiểu rủi ro. Có thể chấp nhận một phương án đầu tư đưa lại
mức lợi nhuận vừa phải những vững chắc còn hơn một phương án có lợi nhuận
cao nhưng phiêu lưu, mạo hiểm. BHXH có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
được đem đầu tư sinh lời để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Việc đầu tư vốn nhàn
rỗi của BHXH phải đảm bảo độ an toàn, có lãi thực, tính thanh khoản cao và có
hiệu quả kinh tế - xã hội. Đồng thời, phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường
xuyên cho việc chi trả các chế độ BHXH phát sinh. Vì thế, các hình thức đầu tư
phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc nêu trên,
trong đó nguyên tắc an toàn luôn được đặt lên hàng đầu.
• Hiệu quả:
Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc này rất
quan trọng vì nếu đầu tư không sinh lời thì không thể thực hiện được mục tiêu
tăng trưởng quỹ, và ảnh hưởng tới độ an toàn của quỹ cũng như khả năng chi trả
trong tương lai. Lãi đầu tư không chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán
cho các khoản chi mà còn góp phần cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao

động và người sử dụng lao động.
8
Để thực hiện được nguyên tắc này, cần thiết phải xác định được danh mục
đầu tư, các lĩnh vực đầu tư chủ yếu. Đối với từng dự án đầu tư, phải đánh giá
chính xác nhất hiệu quả kinh tế dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu khoa học, từ
đó mới có được quyết định đầu tư đúng đắn, mang lại lợi nhuận cao.
• Khả năng thanh khoản ( tính lưu chuyển của vốn):
Đây cũng là yêu cầu đặc thù của nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau
và kéo dài nên các khoản đầu tư phải đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi
trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào
những vấn đề tồn khoản. Các hình thức đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường
được ưu tiên thực hiện trước. Quỹ BHXH luôn vận động không ngừng, đó là
quá trình tạo lập và sử dụng quỹ để chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ
BHXH. Do vậy, đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải đảm
bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền mặt để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ chi trả cho người lao động.
• Có lợi ích kinh tế, xã hội:
Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội, do đó trong quá trình
đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân, phải ra sức cải thiện
chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. Các hình thức, hạng mục
đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt động đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục tiêu lợi
nhuận làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ thống An
sinh xã hội của mỗi nước.
Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi từ quỹ BHXH không chỉ có tác dụng
bảo toàn và tăng trưởng mà còn đảm bảo quyền lợi cho người lao động, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, Tuỳ theo tính chất và
nội dung đầu tư mà các nguyên tắc trên có tầm quan trọng khác nhau. Chẳng
hạn, khi đầu tư dài hạn thì nguyên tắc “dễ luân chuyển vốn” không quan trọng
bằng nguyên tắc “an toàn” và “hiệu quả”. Ngược lại, đầu tư ngắn hạn thì nguyên

tắc “dễ luân chuyển vốn” phải được ưu tiên hàng đầu.
9

×