Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.17 KB, 10 trang )

SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

A. TÊN ĐỀ TÀI: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ

đạo học sinh lớp 5”
B. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp
thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai
đoạn hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập
tích cực cho người học. từ đó khơi dậy và thúc đẩy lịng ham muốn, phát triển nhu
cầu tìm tịi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó,
người giáo viên khơng ngừng tìm tịi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động,
vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng
kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ
động, sáng tạo.
Trong những năm qua, có một thực tế là càng ngày tính đa dạng về trình độ
học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó làm cách nào để có thể giúp cho học sinh
nắm được tối đa kiến thức trong bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu.
Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, khả năng nhận thức, sức
khoẻ.....so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những
đặc điểm riêng biệt vốn có của từng em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt
các em đạt đến kết quả cao hơn, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn
thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân tơi muốn trao đổi, chia
sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh chậm tiến.
Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển tồn diện thì người giáo viên khơng
những chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp nhằm phát huy tính tích
cực, tự giác của học sinh và giảm dần tỉ lệ học sinh đọc, viết và tính tốn chậm.
Vấn đề này là một khó khăn với rất nhiều giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết


được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách
và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong
việc lĩnh hội kiến thức.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tích
cách và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu bài học rất
nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là khơng hiểu gì
thơng qua các hoạt động trên lớp (Nhất là 2 mơn Tốn và Tiếng Việt) hai mơn này
có vị trí rất quan trọng, là một giáo viên chủ nhiệm thì chúng ta phải làm gì đối với
những học sinh cịn đọc, viết và tính tốn cịn chậm này? Đó chính là vấn đề mà tơi
rất quan tâm và nó ln thơi thúc tơi trong suốt quá trình dạy học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Tiếp tục thực hiện nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm
2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng
trường học thân thiện học sinh tích cực" . Căn cứ nhiệm vụ năm học 2016 - 2017
của ngành, của trường về việc chú trọng: Rèn luyện phụ đạo cho học sinh thông
qua “Tăng cường công tác giảng dạy và phụ đạo cho học sinh”.
Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

Thuận lợi:
Công tác phụ đạo học sinh:
- Phía học sinh: Tinh thần và thái độ học tập có chuyển biến tốt, tham dự
đầy đủ các buổi học phụ đạo.
- Phía nhà trường và giáo viên: Cơ sở vật chất trường lớp phục vụ tốt cho

công tác dạy phụ đạo, ngay đầu năm nhà trường đã có xây dựng kế hoạch phụ đạo
cho học sinh và được giáo viên hưởng ứng tốt, tích cực tham gia giảng dạy.
Khó khăn:
- Học sinh: Đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai, học vẹt khơng có khả
năng vận dụng kiến thức, nói chung các kĩ năng cơ bản: nghe -đọc –nói -viết của
các em chưa hồn chỉnh. Khơng biết làm tính, yếu các kĩ năng tính tốn cơ bản,
cần thiết như (cộng, trừ nhân, chia). Khả năng phân tích, so sánh cịn hạn chế.
- Giáo viên: Chưa xác định được cách phụ đạo học sinh, chưa biết phải bắt
đầu từ đâu, luôn lúng túng khi xây dựng nội dung phụ đạo.
Từ những suy nghĩ trên, bản thân tôi đã mạnh dạn chọn đề tài : “ Một số
biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5G”
II. Mục đích nghiên cứu:
2.1. Mục tiêu của đề tài.
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, tôi đã nắm bắt và hiểu được tâm lí lứa
tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, quan tâm,
chăm sóc của gia đình, thầy cơ và có một mơi trường học tập tốt thì các em sẽ ham
thích say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là
học sinh, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà
trường, gia đình mà là của tồn xã hội. Vì vậy, đây là mục tiêu mà những ai đã và
đang làm công việc “ trồng người” luôn cố gắng tìm ra những tồn tại, nguyên nhân
làm cho chất lượng phụ đạo học sinh chưa đạt kết quả cao. Từ đó sẽ có những
biện pháp khắc phục. Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của đề tài này.
2.2 Nhiệm vụ của đề tài
Khảo sát tình hình của học sinh lớp 5G. Tiếp cận với học sinh, các thầy cơ
trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra những biện pháp có hiệu quả nhất
trong việc phụ đạo học sinh.
Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục.
III. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu về “Công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”.
Hiện trạng về về công tác phụ đạo, các biện pháp giáo dục, phụ đạo.
IV. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: Học sinh lớp 5G.
V.Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nghiên cứu qua sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, phương pháp giảng dạy
các phân môn và khảo sát thực tế để tìm cách giải quyết vấn đề nêu trên. Một số
kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Điều tra, quan sát, đàm thoại, thực hành, thống kê, tổng kết kinh nghiệm;..
Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

VI . Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu
6.1: Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp Lớp 5G năm học 2016-2017, trong đó chủ yếu là đối tượng
học sinh đọc, viết, tính tốn chậm.
Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học đọc, viết, tính
tốn chậm. Nghiên cứu cách dạy, phụ đạo cho học sinh để nâng cao chất lượng.
Tiến hành thực nghiệm.
6.2. Kế hoạch nghiên cứu:
Tiến hành từ tháng 9 năm 2016 đến hết tháng 3 năm 2017.
C. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận

Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.
Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc,
viết và tính tốn) của học sinh được hình thành ở tiểu học và được sử dụng trong
suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen
nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho
đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự
học, sáng tạo. Như vậy, giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông; đặt
cơ sở vững chắc cho sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện con người.
Thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định, vì
thế, làm tốt giáo dục tiểu học là đảm bảo sự phát tiển bền vững của đất nước.
Giáo dục tiểu học đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về
tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc viết và tính
tốn. Kiến thức ở tiểu học là những vấn đề cơ bản, cần thiết, đơn giản và gần gũi
với cuộc sống thực của học sinh.
Trách nhiệm của nhà trường là tạo cho học sinh niềm vui đến trường, để các
em thấy “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” và “ Đi học là hạnh phúc”.
2.Thực trạng
Trong thực tế một lớp học bao giờ cũng có sự chênh lệch về trình độ tiếp thu
của học sinh và nhất là học sinh đọc, viết, tính tốn chậm thì quả là một gánh
nặng. Gánh nặng đó, khiến các em khó vượt qua để theo kịp các bạn trong lớp.
Vậy làm sao để thúc đẩy động cơ học tập của học sinh đọc, viết, tính tốn chậm.
Đó chính là vấn đề đặt ra và cần có hướng giải quyết.
Theo dõi bảng số liệu Kiểm tra khảo sát đầu năm và kết quả Kiểm tra định
kì cuối học kì I của học sinh lớp 5G, ta sẽ thấy sự tiến bộ của các em:
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
NĂM HỌC
TỔNG SỐ HỌC

2016 - 2017
SINH LỚP 5G Số lượng Tỉ lệ Số lượng
Tỉ lệ
Khảo sát đầu năm
05
01
20%
04
80%
Cuối HKI
05
04
80%
01
20%
2.1. Thuận lợi, khó khăn:
a. Thuận lợi.

Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

Đối với học sinh lớp 5G là lớp cuối cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ
học tập của các em tương đối cao. Trong đó, bạn học với vai trị “ Đôi bạn cùng
tiến” đã giúp các em học sinh đọc, viết, tính tốn chậm giảm bớt phần nào khó

khăn trong học tập.
Đội ngũ giáo viên trong khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng
đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh đọc, viết, tính tốn chậm. Sự quan tâm,
phối hợp của Ban giám hiệu và các đoàn thể trong nhà trường.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới cơng tác dạy và học theo hướng khốn nội
dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân mơn,
từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn.
b. Khó khăn.
Như đã nêu ở trên, đối tượng học sinh đọc, viết, tính tốn chậm có những
khác biệt. Hơn thế nữa, trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt
về phong cách nhận thức. Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác
nhau.
Trong thực tế, những học sinh học chậm mơn Tốn, Tiếng Việt thì những
mơn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này địi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và
trị rất cao.
Đối tượng học sinh đọc, viết, tính tốn chậm thường là những con em người
dân tộc vân kiều có hồn cảnh khó khăn về kinh tế. Ngồi ra, các yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả giáo dục là:
+ Đội ngũ giáo viên
+ Cơ sở vật chất
+ Chất lượng đầu vào
2. 2 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Nguyên nhân dẫn đến học sinh đọc, viết, và tính tốn chậm:
Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức
thì ngun nhân có thể là do:
Học sinh lười học : Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các
em học sinh đọc, viết, tính tốn chậm là những học sinh cá biệt, vào lớp không chú
ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì khơng xem lại bài, khơng chuẩn bị bài, cứ
đến giờ học thì cắp sách đến trường. Cịn một bộ phận nhỏ thì các em khơng xác
định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi đến lớp nghe giáo viên

giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học, sau đó về nhà lấy vở ra “ học vẹt” mà
không hiểu nhiều về nội dung. Học sinh khơng có thời gian cho việc tự học : Ở
vùng sâu, vùng xa thì ngồi thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em còn phải phụ
giúp gia đình việc cơm nước, đồng áng, chăn trâu, chăn bò,.....
Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ : Đây là một tồn tại khá phổ biến với
chương trình học tập hiện nay. Ngun nhân này có thể nói đến một phần lỗi của
giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
Về phía giáo viên : Nguyên nhân học sinh học đọc, viết, tính tốn chậm
khơng phải hồn tồn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người
giáo viên. Thầy hay thì mới có trị giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong
cơng tác giảng dạy thì địi hỏi giáo viên phải khơng ngừng học tập nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ. Tuy nhiên, khơng phải giáo viên nào có trình độ học
Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà giáo viên phải biết lựa chọn
phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội
dung kiến thức. Qua q trình cơng tác tơi nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ
giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh cịn
khó khăn trong học tập. Chưa tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích
tính tích cực, chủ động của học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình
trạng học sinh đọc, viết, tính tốn chậm mà bản thân tơi nhận thấy trong q trình
cơng tác. Qua việc phân tích những ngun nhân đó, tơi mạnh dạn nêu ra một số
biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh. Trong phạm vi của bài viết, tôi chỉ đề cập

đến biện pháp giúp đỡ học sinh ở hai mơn học Tốn và Tiếng Việt.
3. Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5.
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Nghiên cứu, tìm tịi các giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi
dưỡng, phụ đạo học sinh phù hợp với điều kiện của lớp mình đang phụ trách, phù
hợp với điều kiện chung của nhà trường.
Là giáo viên thì ai cũng biết.”Muốn giáo dục con người thì phải hiểu con
người về mọi mặt .”Để giáo dục dạy hiệu quả người giáo viên phải hiểu sâu sắc
các em . Từ đó mới có thể đặt ra các tác động sư phạm thích hợp và cụ thể với
từng đối tượng học sinh.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Biện pháp 1: Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả
cao. Thơng qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười... giáo viên tạo sự gần gũi, cảm
giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong
cuộc sống của bản thân mình.
Giáo viên ln tạo cho bầu khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không
đánh mắng mà hãy làm cho học sinh thương u tơn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi
tích cực. Ví dụ như : giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm
những việc làm mà các em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
Biện pháp 2: Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh đúng với những đặc điểm
vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và
riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là : sức khoẻ kém,
khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát...
Trong dạy học cần phân hoá đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành
cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản đề tạo điều kiện cho
các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí
đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 3 đến 4 bài tập,

các em này có thể hoàn thành 1 đến 2,3...bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngồi ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh khi các biện
pháp giúp đỡ trên lớp là chưa đủ. Có thể phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần.
Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải phù hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi
cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải nặng nề.
Biện pháp 3: Giáo dục ý thức học tập cho học sinh
Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự
hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi
tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được
ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham
thích và say mê khám phá tìm tịi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hồn cảnh
gia đình và nề nếp sinh hoạt, khun nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các
trị chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn
lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Do một số
phụ huynh luôn để cho các em tự lo liệu việc học của mình nên dẫn đến các em
không thể tiếp thu được việc học của mình. Bản thân giáo viên cần phân tích để
các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của
gia đình, thầy cơ sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
Biện pháp 4: Kèm cặp học sinh:
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học

sinh chậm đọc, viết, tính tốn chậm là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp
5G mà bản thân chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 4 học
sinh đọc, viết, tính tốn chậm và bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo cho các em.
Lập danh sách học sinh (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt đến
những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời
câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…
DANH SÁCH HỌC SINH
PHỤ ĐẠO MƠN TỐN VÀ TIẾNG VIỆT LỚP 5G
TT

Họ và tên

1
2
3
4

 Hồ Văn Lộc
Hồ Văn Hưng
Hồ Văn Suốt
Hồ Văn Đức

TIẾNGVIỆT
TỐN
Chưa
Chưa
Hồn
Hồn
hồn
hồn

thành
thành
thành
thành
x
x
x
x
x
x
x
x

Con ơng (bà)
Hồ Văn Đương
Hồ Văn Miên
Hồ Văn Lộc
Hồ Thị My

Nơi ở
Hướng Choa
Hướng Choa
Hướng Choa
Hướng Choa

Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ
huynh tìm biện pháp khắc phục.
 
Biện pháp 5: Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng
Việt và biện pháp khắc phục:

+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong lớp 5G còn một số em đọc,
viết rất chậm. Như em Hồ Văn Lộc, em Hồ Văn Hưng. Nguyên nhân đọc, viết
chậm ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được
các dấu câu, chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5, với những từ có vần khó
thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lược bớt hoặc thêm dấu vào khi đọc.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt
bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu
biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc
Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý,
quan sát, viết đoạn.
Biện pháp:
+ Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc cịn chậm thì giáo viên cần:
- Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường
xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho
các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo
viên có thể cho các em luyện đọc thêm vào giờ phụ đạo.
- Giáo viên động viên học sinh thường xuyên đến tủ sách truyện của điểm để
mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên

dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp
cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi
tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực
thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
- Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện  đọc trơi
chảy thơng qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở
rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một
số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
+ Chính tả: Đối với những học sinh viết chậm thì giáo viên cần:
- Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh
mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên
đọc cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng
ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở
riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp
thời.
- Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì
các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các
em sẽ viết đúng chính tả.
- Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với u cầu nên
có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng
chính tả.
+ Luyện từ và câu: Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
+ Tập làm văn: Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn. Giáo viên chỉ ra lỗi
cụ thể trên bài làm của học sinh.
Học sinh tự viết lại.
Cần tạo điều kiện  để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu
thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.
Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm
văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hồn cảnh giao tiếp.
Ví dụ: Với đề bài : Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 )

Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức  “ Lễ hội
trăng rằm”, tất cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn mưa đó.
Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng
thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả.
Biện pháp 6: Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong mơn Tốn và
biện pháp khắc phục
Trong lớp tơi chủ nhiệm có em Hồ Văn Hưng, Hồ Văn Đức thì hầu như là
khơng biết tính khi học tốn. Ngun nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu
một số ngun nhân tiêu biểu: Khơng nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ,
khơng thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng khơng nắm được các phép
tính cộng, trừ, nhân, chia phân số. Khơng nắm được lí thuyết bài (công thức, quy
tắc).
Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)… Từ chỗ
khơng nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số
thập phân. Mà đối với học sinh lớp 5, các em phải làm rất nhiều bài tập về số thập
phân.
Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để
các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính
cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm,
sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết
cách tính. Đối với những em khơng thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên

kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các buổi phụ đạo, giáo viên
có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên
quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
Ơn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm
các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính
các số có các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 125 +217
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 +1024
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến
lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo
viên cũng phải yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu
phẩy ngăn cách giữa phần ngun và phần thập phân thì mới tính tốn chính xác
được.
Bên cạnh những học sinh khơng biết tính thì có những em tính tốn cịn
chậm. Ngun nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do
cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính tốn chậm, thiếu
chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngồi bảng.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả
theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi
giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải tốn vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc
hiểu và khơng biết tính hoặc tính thiếu chính xác.
Vậy đối với những học sinh tính tốn cịn chậm thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia
mức độ đơn giản.
Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng



SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài,
tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay
đổi một vài con số và yêu cầu các em học tính tốn cịn chậm làm lại bài. Các em
có thể làm vào giờ ra chơi hoặc vào buổi chiều phụ đạo.
Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán
cơ bản. Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.
Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó
khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi
cần. Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai,
xem trước bài mới.
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập ở nhà để có hướng khắc
phục và động viên kịp thời.
   
Tóm lại:
Ngồi những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh, biện
pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong q trình học tập. Thơng qua những
phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu
cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu
cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên
bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập
nghiệp”. Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những
người cơng dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra
những biện pháp thích hợp trong cơng tác phụ đạo học sinh.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề

nghiên cứu.
Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo
điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề
ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng.
Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa
chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể
áp dụng cho  vào  việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh đạt hiệu quả.
Đặc biệt đến giữa học kì II năm học này, sau khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm thì việc phụ đạo học sinh đọc, viết tính tốn cịn chậm của lớp 5G  bản
thân tôi chủ nhiệm đến thời điểm này đạt kết quả khá khả quan:
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
NĂM HỌC TỔNG SỐ HỌC
2016 - 2017 SINH LỚP 5G
Số lượng
Tỉ lệ Số lượng
Tỉ lệ
Giữa HKII
05
05
100%
0
0
D. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một
tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình
huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh đọc, viết và tính tốn cịn
Người thực hiện:


Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng


SKKN: “Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh lớp 5”

chậm là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái
tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình.
Bản thân xin kết thúc bằng hai câu chuyện sau:
Bản thân muốn giới thiệu đến đồng nghiêp một cuốn sách hay “Bách khoa
tồn thư về những học trị lười”. Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney,
Darwin và Picasso…được thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải
ai cũng biết họ từng là những học sinh lười biếng, khơng có gì nổi bật khi cắp sách
đến trường nhưng họ đã để lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh lồi người.
Câu chuyện trên là một thông điệp mà bản thân muốn gửi tới các em học sinh, các
bậc phụ huynh, quý thầy cô, những người ln có ước vọng ni dưỡng tài năng
tiềm tàng chứ không đơn thuần chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật trong
lớp.
Lớp 5G mà tôi chủ nhiệm có một học sinh năng lực học cịn rất chậm. Đầu
năm học này em muốn gia đình xin cho nghỉ học vì khơng muốn đi học do em
khơng thể đánh vần đọc trơn được bài đọc, nhưng qua một học kì được học tập
trong một mơi trường học tập tốt, được thầy chủ nhiệm quan tâm động viên thường
xuyên, được bạn bè trong lớp giúp đỡ, em khơng cịn mặc cảm nữa mà em đã vui
vẻ đến lớp cùng các bạn, trong nhiều tiết học em cũng đã mạnh dạn xung phong
phát biểu, hoặc được lên bảng làm bài.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ phụ đạo cho học
sinh. Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong q thầy, cơ đóng
góp, sửa chữa. Tôi xin chân thành cảm ơn.

2. Kiến nghị
- Với giáo viên : Cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong lớp mình
giảng dạy; quan tâm dành nhiều thời gian hơn cho đối tượng học sinh Hoàn thành
tốt và học sinh chưa hồn thành kiên trì trong quá trình bồi dưỡng, phụ đạo học
sinh; mỗi tiến bộ của các em dù nhỏ cũng là một sự thành công rồi.
- Với nhà trường : Quan tâm đến chế độ dành cho giáo viên, cả giáo viên bồi
dưỡng học sinh giỏi cũng như giáo viên phụ đạo, dạy học sinh.
- Với các đoàn thể : Tuyên truyền, vận động phụ huynh học sinh quan tâm
nhiều hơn đến việc học của con, em mình.
Hướng Phùng, ngày 28 tháng 3 năm 2016

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Văn Thuận

Người thực hiện:

Lê Văn Thuận

Trường tiểu học Hướng Phùng




×