Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

sáng kiến Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.61 KB, 13 trang )

Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức
là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích cực cho
người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi,
khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, người giáo viên
không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng
phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng
học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo.
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh
trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối
đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt về: khả
năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh khác. Cần
xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm ra những
biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị rơi vào
những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao
đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc
phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo
viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là
khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp
phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học
hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách
nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc
phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ
số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu
học ở địa phương. Những năm qua, được sự quan tâm sâu sát của ngành, chính quyền


địa phương, của ban giám hiệu nhà trường và ban đại diện cha mẹ học sinh và đặc biệt
là sự nỗ lực không ngừng của tập thể thầy cô trường Tiểu học Thiện Hưng A thì nhà
trường luôn là một trong những trường đứng đầu trong toàn huyện về chất lượng giáo
dục, công tác PCGDTH-XMC và PCTHCS ở địa phương đã đạt chuẩn và duy trì tốt.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng
dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng,
là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục
vươn xa trên con đường học vấn của mình.
Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp đổi mới
công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu” để tiếp tục áp dụng vào thực tế lớp 5A
3
nói
riêng và học sinh khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A nói chung.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
2.1 Mục đích
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí
lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan
tâm của gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say
mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu,
giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói
khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường,
gia đình mà là của toàn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc
“trồng người” luôn cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất
lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp
khắc phục phù hợp. Đây cũng chính là mục đích của đề tài này.
2.2 Nhiệm vụ
Khảo sát tình hình học yếu của học sinh khối 5 hiện nay.
Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra
những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu.
Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn (nếu có) nhằm

nâng cao chất lượng giáo dục.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng
Giáo viên và học sinh khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A về việc giúp đỡ các em là
học sinh yếu.
3.2 Thời gian
Từ ngày 10/9/2010 đến 30/9/2010: Lập đề cương.
Từ ngày 1/10/2010 đến 30/11/2010: Nghiên cứu và áp dụng thử trong khối.
Từ ngày 1/12/2010 đến 15/12/2010: Áp dụng rộng rãi trong toàn khối.
Từ ngày 15/12/2010 đến 30/12/2010: Cùng tập thể giáo viên trong khối, trường rút ra
bài học kinh nghiệm và hoàn tất đề tài.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG:
1.1 Thuận lợi
Đối với học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của
các em tương đối cao.
Học sinh lớp 5 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn
học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào
khó khăn trong học tập.
Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học
sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể
nhà trường.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung
chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài
học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn.
1.2 Khó khăn
Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong từng cá
nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi
dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau.

Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một môn học xếp loại yếu khi
điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, Tiếng
Việt thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì
của thầy và trò rất cao.
Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ
ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít
quan tâm đến việc học tiếng Việt.
Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục:
• Đội ngũ giáo viên
• Cơ sở vật chất
• Chất lượng đầu vào
Trường chúng tôi luôn đứng trước khó khăn về cơ sở vật chất và chất lượng đầu vào.
Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ
cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực tế, trong lớp 5A
3
mà bản thân chủ nhiệm, phần lớn các em nhà ở xa trường, nhà
em Nhung cách trường đến 9 km, nhà em Điểu Thị Oanh nhà cách trường đến 10 km,
ngày ngày em phải đi về 4 lượt 40 km. Nhà xa, chưa có điện, mỗi buổi tối em phải học
bài bên ngọn đèn dầu, thậm chí Oanh nói: “ Có những hôm hết dầu, con phải ngồi học
bên bếp lửa cô ạ!”.
Bên cạnh đó, địa bàn xã Thiện Hưng là nơi tâp trung nhiều thành phần dân tộc sinh
sống, nhiều gia đình từ miền Bắc, Miền Trung, …đến định cư xây dựng kinh tế mới.
Với đặc thù như vậy nên học sinh trường Tiểu học Thiện Hưng A thuộc rất nhiều vùng
miền khác nhau. Vì vậy, có một số học sinh thuộc con em gia đình đồng bào dân tộc
STiêng, một số học sinh thuộc con em gia đình lao động nghèo, vì cuộc sống mưu
sinh, vì mãi lo cho kinh tế gia đình, một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập
của con em mình. Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HỌC SINH YẾU:
2.1 Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì

nguyên nhân học sinh yếu có thể là do:
Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh
yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về
nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường.
Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em
chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau
đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Ở một số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người thì ngoài thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em
phải phụ giúp gia đình việc đồng áng, chăn trâu, chăn bò,….
Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với
chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo
viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
2.2 Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học
sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò
giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên
phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây
không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt
mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng
đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân
nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng
học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích
thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn
cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng
học sinh học yếu mà bản thân nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích
những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học
sinh yếu. Trong phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học
sinh yếu ở hai môn công cụ: Toán và Tiếng Việt.
3. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
3.1 Những biện pháp chung:

3.1.1 Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an
toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của
bản thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng
hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên
mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví
dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà
em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu
thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Biết giúp đỡ
người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
3.1.2 Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có
của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của
từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp
thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các
chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng
này.
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo
điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học
bài: Giải toán về tỉ số phần trăm (Toán–lớp 5 ), đối với các em học sinh yếu thì các em
chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “Biết cách tìm tỉ số phần trăm của hai số” là đạt yêu
cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được
tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình

trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành
1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp
giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi
trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui
chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
3.1.3 Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong
học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên
nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan
trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá
tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và
nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng
ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm
cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia
đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò
ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao.
Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng
mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí
phấn đấu vươn lên.
3.1.4 Kèm cặp học sinh yếu:
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là
bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 5A
3
mà bản thân chủ nhiệm, sau khi thi
khảo sát chất lượng đầu năm thì có 3 học sinh yếu và bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo
cho các em.
Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt đến những
học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi,

khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…

DANH
SÁCH
HỌC SINH
YẾU LỚP



STT Họ và tên
TIẾNGVIỆT TOÁN
Con ông
(bà)
Nơi ở
Đọc
yếu
Viết yếu Không
biết tính
Tính
yếu

1
2

Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm
biện pháp khắc phục.

3.2 Những biện pháp cụ thể:
3.2.1 Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp khắc
phục:

+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Như em
Điểu Đức Trọng lớp 5A
3
, em Hồ Viết Đức, Lương Duy Dư lớp 5A
4
. Nguyên nhân đọc
yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các
dấu câu (em Trọng), chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5, với những từ có vần
khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó,
khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản còn hạn chế.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường
cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ,
không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa
đúng nên dẫn đến.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn:
Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết.
Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em
gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông
qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn.
v Biện pháp:
+ Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:
Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi
các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện
đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh
thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập
đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét
đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó,

thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để
xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra
biện pháp giúp đỡ.
Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc
vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của
mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về
sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các
em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông
qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và
hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài
đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
+ Chính tả:
Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần:
Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết
khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết
một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết
vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên
phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời.
Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ
tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết
đúng chính tả.
Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa,
giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể
cho các em có chọn từ để luyện viết thêm.
Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp
nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả.
+ Luyện từ và câu:
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm giúp các

em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu.
+ Tập làm văn:
Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn.
Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh.
Học sinh tự viết lại.
Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích.
Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.
Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành
những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh
giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
• Ví dụ:
Với đề bài : Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 )
Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức “ Lễ hội trăng rằm”,
tất cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn mưa đó.
Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm
xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả.
3.2.2Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục
Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Điểu Thị Huyền thì hầu như là không biết tính
khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân
tiêu biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân,
bảng chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia
phân số. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắt).
Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)… Từ chỗ không nắm
được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số thập phân. Mà
đối với học sinh lớp 5, các em phải làm rất nhiều bài tập về số thập phân.
Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em
hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ,
giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực
hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với
những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên

vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc
sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh
thực hiện.
Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài
tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có
các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 125 +217
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 +1024
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc
từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo viên cũng phải
yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu phẩy ngăn cách giữa
phần nguyên và phần thập phân thì mới tính toán chính xác được.
Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân
các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong
bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép
tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo
cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải
toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và
không biết tính hoặc tính thiếu chính xác.
Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ
đơn giản.
Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và
trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con
số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ rèn
vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời.
Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản.
Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.

Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường
trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước
bài mới.
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động
viên kịp thời.
v Tóm lại:
Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu
dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy
học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của
tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm
kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân
ln ln hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu
biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người cơng dân có ích cho xã
hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong
cơng tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của
các em ngày một được nâng cao.

PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ KẾT QUẢ:
Sự đổi mới cơng tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện cho
chúng tơi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp
trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ
dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản
thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận
dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và
phụ đạo học sinh yếu các khối 4, 5 đạt hiệu quả.
Theo dõi bảng số liệu trong hai năm học của học sinh khối 5, ta sẽ thấy sự tiến

bộ vượt bậc của các em :

NĂM HỌC
TỔNG SỐ
HS KHỐI 5
SỐ HỌC SINH YẾU
Số lượng Tỉ lệ
2008 - 2009 136 9 66%
2009 - 2010 85 2 24%
Đặc biệt trong năm học này, sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm thì việc
phụ đạo học sinh yếu trong khối, trong lớp 5A
3
bản thân mình chủ nhiệm đến thời
điểm này đạt kết quả rất cao:
NĂM HỌC TỔNG SỐ
HS KHỐI 5
SỐ HỌC SINH YẾU
Số lượng Tỉ lệ
2010 – 2011(CKI) 108 1 0,9%


NĂM HỌC
TỔNG SỐ HS
LỚP 5A
3
SỐ HỌC SINH YẾU
Số lượng Tỉ lệ
2010 – 2011(CKI) 27 0 0%
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học

sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần:
Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương
pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với
chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong
trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ
nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với
các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng
lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Học sinh lớp 5 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng
hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các
em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh
với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc
chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả
năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực
của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến
với các em. Và có lẽ rằng, vai trò của chúng ta:
“ Người Thầy của mọi Thầy” đã hoàn thành.
3. KẾT LUẬN:
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài liệu nhỏ
để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm
thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy.
Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về
mình.
Bản thân xin kết thúc bằng hai câu chuyện sau:
Bản thân muốn giới thiệu đến đồng nghiêp một cuốn sách hay “Bách khoa toàn thư về
những học trò lười”. Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney, Darwin và
Picasso…được thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải ai cũng biết họ

từng là những học sinh lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng
họ đã để lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh loài người. Câu chuyện trên là
một thông điệp mà bản thân muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh, quí thầy
cô, những người luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng chứ không đơn thuần
chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật trong lớp.
Lớp 5A
3
mà bản thân chủ nhiệm có một em học sinh năng lực học còn chậm vì em hay
bị bệnh động kinh hành hạ. Một lần tỉnh dậy sau cơn động kinh, em liền nói: “Cô ơi,
mấy bạn của con đâu rồi? Con xuống lớp học tiếp nghe cô.”, bản thân chợt hiểu thêm
về niềm vui thích của em khi đến trường. Hãy chia sẻ những kinh nghiệm giúp đỡ học
sinh yếu của các thầy cô với chúng tôi, để chúng ta cùng giảm bớt những khó khăn
trong học tập cho các em và giúp các em vươn xa hơn trên con đường học vấn của
mình.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm
“Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của
bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết
thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài viết
chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa. Tôi xin
chân thành cảm ơn.
Thiện Hưng, ngày 30 tháng 12 năm 2010
Người viết
Nguyễn Thị Quang Trinh
Giáo viên khối 5 trường Tiểu học Thiện Hưng A

×