Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.68 KB, 35 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>MỤC LỤC</b>
MỤC LỤC...i
CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT...ivv
BÁO CÁO KẾT QUẢ...1
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN...1
1. Lời giới thiệu:...1
<i>2.</i> Tên sáng kiến: “ Phát huy năng lực cảm thụ văn cho học sinh THCS thông
<i>qua so sánh văn học.”...1</i>
3. Tác giả sáng kiến:...2
4. Chủ đầu tư sáng kiến: Trường THCS Thượng Trưng...2
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:...2
6. Ngày sáng kiến được áp dụng thử nghiệm: ...2
7. Mô tả bản chất sáng kiến:...2
7.1.Tổng quan của đề tài nghiên cứu lí luận và thực tiễn:...2
7.2.Thực trạng, nguyên nhân vấn đề nghiên cứu:...4
7.2.1. Thực trạng:...4
7.2.1.1.Về phía giáo viên:...4
7.2.1.2.Về phía học sinh...5
7.2.2.Khảo sát thực trạng:...5
7.2.2. Nguyên nhân:...6
7.3.Các giải pháp cơ bản giúp học sinh có năng lực cảm thụ dựa trên kiểu bài so
sánh văn học...7
7.3.1.Giúp học sinh nhận thức được cảm thụ văn học với việc dạy học tác phẩm
văn chương...7
7.3.1.1.Cảm thụ văn học- một khâu thiết yếu của việc dạy học văn...7
7.3.1.1.2.Cảm thụ văn học là một hoạt động sáng tạo của học sinh...9
7.3.2. Giúp học sinh phân biệt được các vấn đề về so sánh văn học...13
7.3.2.1. So sánh dưới góc độ là một biện pháp tu từ nghệ thuật:...13
<b>7.3.2.2.Biện pháp so sánh trong phân tích văn học...14</b>
<b>7.3.3. Giúp học sinh nắm các kiểu bài so sánh giúp tăng cường năng lực cảm</b>
<b>thụ văn của học sinh THCS- so sánh văn học dưới dạng một kiểu bài nghị</b>
<b>luận...15</b>
<b>7.3.3.1. Khái niệm:...15</b>
7.3.3.2. Mục đích của so sánh văn học:...16
7.3.3.3. Kiểu bài so sánh văn học:...16
<b>7.3.4. Giúp học sinh nắm được bố cục của bài văn nghị luận so sánh văn học</b>17
<b>7.3.4.1.Mở bài :...17</b>
<b>7.3.4.2.Thân bài:...17</b>
<b>7.3.4.3.Kết bài:...19</b>
<i><b>7.3.5.Giúp học sinh nắm được số dạng bài so sánh văn học thường gặp của học</b></i>
<i><b>sinh THCS:...20</b></i>
<i><b>7.3.5.1. So sánh về nghệ thuật tả cảnh:...20</b></i>
<i><b>7.3.5.2. So sánh các tác phẩm cùng đề tài:...22</b></i>
<i><b>7.3.5.3 . So sánh nhân vật:...24</b></i>
<b>8. Những thông tin cần bảo mật: Không...28</b>
<b>9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: ...28</b>
<b>10. Kết quả thu được:...28</b>
<b>10.1 Kết quả thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo</b>
<b>ý kiến của tác giả:...28</b>
TW Trung ương
THCS Trung học cơ sở
GV Giáo viên
HS Học sinh
PP Phương pháp
<b>BÁO CÁO KẾT QUẢ</b>
<b>NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN</b>
<i><b>1.</b></i> <b>Lời giới thiệu:</b>
Cảm thụ văn học là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn
học. Mục đích của cảm thụ là cảm nhận, khám phá, phát hiện, chiếm lĩnh bản chất
thẩm mĩ của văn chương nhằm khơi dậy, bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho
người học. Muốn cảm thụ được người đọc phải tri giác, liên tưởng tưởng tượng
thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản thể nghiệm giá trị tinh thần và hứng
thú với sắc điệu thẩm mĩ của nó. Khi đến với văn bản văn học bằng cả trí tuệ và
tình cảm, cả nhận thức và kinh nghiệm người đọc sẽ mở được cánh cửa thực sự để
đi vào thế giới nghệ thuật.
Nhìn lại thực trạng dạy học văn hiện nay ở trường trung học cơ sở (THCS),
dễ nhận ra vấn đề phát huy năng lực cảm thụ của học sinh (HS) chưa được quan
tâm một cách đúng mức. Lâu nay, bản thân chủ thể HS chưa được đặt vào đúng vị
trí vốn có và cần có trong q trình phân tích tác phẩm mà chỉ được coi là đối
tượng tiếp thụ của giáo viên (GV). Nhiệm vụ và chức năng chủ yếu của người học
<i><b>2.</b></i><b>Tên sáng kiến: “ Phát huy năng lực cảm thụ văn cho học sinh THCS thông</b>
<i><b>qua so sánh văn học.”</b></i>
<i><b>3.</b></i><b>Tác giả sáng kiến: Đặng Thị Ngọc Mai</b>
- Họ và tên: Đặng Thị Ngọc Mai
- Địa chỉ: Trường THCS Thượng Trưng - Huyện Vĩnh Tường- Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại:01672799916 Email:
<b>4. Chủ đầu tư sáng kiến: Trường THCS Thượng Trưng.</b>
<b>5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: </b>
Môn Ngữ văn THCS. Vấn đề mà sáng kiến giải quyết là: Hướng dẫn học
sinh THCS- đặc biệt là học sinh lớp 9 có năng lực cảm thụ văn học thông qua so
sánh văn học.
<b>6. Ngày sáng kiến được áp dụng thử nghiệm: Lần 1:Từ tháng 1 năm 2016 đến</b>
tháng 2 năm 2017. Lần 2: Từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 11 năm 2017.
<b>7. Mô tả bản chất sáng kiến:</b>
<b>7.1.Tổng quan của đề tài nghiên cứu lí luận và thực tiễn:</b>
<i>“Cảm thụ” theo nghĩa từ nguyên là “nhận biết được cái tế nhị bằng cảm tính</i>
<i>Cảm thụ văn học</i> là một hình thức của nhận thức thẩm mỹ, là một q trình tích
cực vận dụng vốn sống và những năng lực tư duy để lĩnh hội, thưởng thức những
cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Bởi tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức
đặc biệt, vốn không phải là vật thể tự nhiên, nó tồn tại bằng hệ thống ký hiệu thứ
hai - ngơn ngữ - và mang tính chất xã hội sâu sắc thông qua sự sáng tạo của nhà
văn.
Về mặt lí luận nghiên cứu văn học, việc quan tâm đến cảm thụ nghệ thuật đã
mở ra nhiều vấn đề mới cho những nhà lí luận cũng như những nhà văn từng có
nhiều quan tâm đến vấn đề tiếp nhận tác phẩm ở người đọc. Cụ thể là giúp họ nhận
thức đúng đắn hơn, biện chứng hơn về tác phẩm văn học trong những mối quan hệ
khắng khít của nó đối với bạn đọc, với nghệ sỹ, giữa quá trình sáng tác và quá trình
cảm thụ tác phẩm, về mối quan hệ biện chứng của quá trình sáng tác, về tính năng
động sáng tạo của đối tượng cảm thụ tác phẩm văn học.
Thực tế nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học cũng đã chỉ ra được những
hạn chế của quan niệm chỉ xem tác phẩm văn học là phương tiện phản ánh, nghĩa là
coi tác phẩm chủ yếu như một hiện tượng lịch sử- xã hội mà chưa nhìn thấy mối
quan hệ mật thiết giữa tác phẩm, người đọc với vai trò của chủ thể cảm thụ. Điều
này dẫn đến sự chao đảo, mất phương hướng trong quá trình nghiên cứu: Tác phẩm
bị tách rời khỏi người đọc, sự phân tích trở nên khơng có địa chỉ, khơng có căn cứ;
tác phẩm chỉ được xét trên phương diện phản ánh và bỏ qua phương diện lịch
sử-chức năng, ít được xét trên khả năng tác động của nó đối với lịch sử, chính trị, tư
tưởng, văn hóa, thẩm mỹ ...
Lý thuyết tiếp nhận nghệ thuật đã lí giải và xác lập lại mối quan hệ giữa tác
phẩm với bạn đọc. Đó là mối quan hệ hai chiều: một chiều là tác động của tác
tr.304). Chính vì thế có thể nói đối tượng tiếp nhận đóng vai trị quyết định q
trình thai nghén và sáng tác của tác giả.
Trong dạy học cũng vậy, lí thuyết tiếp nhận xem cảm thụ là một khâu chính
yếu của q trình dạy học nói riêng và q trình tiếp nhận văn học nói chung. HS
khơng cịn là một khách thể thụ động mà là một chủ thể có ý thức, một chủ thể sáng
tạo, một nhân cách tiếp nhận tác phẩm. Chính vì thế, q trình tiếp nhận đó ln là
một q trình trưởng thành và phát triển từng bước nhân cách của HS. Gạt bỏ hay
coi nhẹ qui luật của quá trình cảm thụ sẽ dẫn đến tình trạng học văn thụ động,
khơng cảm xúc, khơng hứng thú, thiếu tìm tịi suy nghĩ và sáng tạo.
Từ những nội dung trên, có thể thấy cảm thụ văn chương có vai trị, ý nghĩa
đặc biệt quan trọng về mặt lí luận cũng như thực tiễn hoạt động văn học nghệ thuật.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này là việc làm có ý nghĩa rất lớn.
<b>7.2.Thực trạng, nguyên nhân vấn đề nghiên cứu:</b>
<b>7.2.1. Thực trạng:</b>
<b>7.2.1.1.Về phía giáo viên:</b>
<b> Qua khảo sát thực trạng tôi nhận thấy: </b>
Trước hết việc dạy kiểu bài văn nghị luận văn học – đặc biệt là kiểu bài so sánh
thường rập khn, máy móc, áp đặt. Thậm chí nhiều giáo viên còn cung cấp bài
<b> Thứ hai tư liệu dạy học khan hiếm:Trong phân phối chương trình, kiểu bài so</b>
sánh văn học không hề được đưa vào nên chưa bao giờ nó được xuất hiện trong tiết
Làm văn như một bài học độc lập tương đương như những dạng bài khác hoặc
được giới thiệu qua các tài liệu tự chọn của Bộ Giáo dục. Vì vậy, việc “<i>rèn kĩ năng</i>
<i>so sánh văn học cho học sinh THCS” gặp phải khơng ít khó khăn, nhất là tư liệu</i>
dạy học khơng có.
rộng chứ khơng có thời gian để đối chiếu ở từng phương diện cụ thể.Vì thế, trong
hoạt động chuyên mơn đọc văn, làm văn ở chương trình THCS, giáo viên và học
sinh ít có thời gian bàn về so sánh văn học mà giáo viên mới chỉ có thời gian cung
cấp cho đối tượng học sinh giỏi. Trong khi đó đối tượng này chiếm số lượng khơng
lớn.
Thứ tư thói quen ngại đầu tư công sức:Một phần do phân phối chương trình
q khắt khe, nhưng một phần cịn do chính bản thân người dạy ngại sáng tạo,
không chịu đổi mới trong cách ra đề kiểm tra, nên so sánh văn học dường như nếu
có chỉ được liên tưởng chút ít trong bài dạy chứ không được đề cập và xem xét như
một kiểu bài có vai trị quan trọng, cần quan tâm, đầu tư thời gian, công sức. Giáo
viên hầu hết ra đề qua loa, khơng bám sát tình hình thi cử. khơng chịu tìm tịi, khai
thác sự độc đáo trong mỗi tác giả, tác phẩm.
<b>7.2.1.2.Về phía học sinh</b>
Qua khảo sát trước hết tôi nhận thấy phần lớn học sinh cịn lúng túng, chưa
có kĩ năng so sánh văn học. Khi làm văn các em còn làm một cách máy móc, q lệ
thuộc vào khn mẫu , thiếu tư duy sáng tạo.
Nếu câu nghị luận văn học chỉ là về một tác phẩm, đoạn trích…nói chung
đơn giản, học sinh dễ dàng làm được. Nhưng nếu là nghị luận về nhóm tác phẩm,
đoạn trích…thì sẽ khó và phức tạp, địi hỏi học sinh tư duy tổng hợp – so sánh.
Dạng đề này rất phù hợp với đối tượng học sinh giỏi thi Tỉnh. Và những câu này
được coi như là một thử thách đối với học sinh.
Do nguyên nhân trên nên hầu hết học sinh rất lúng túng trước kiểu bài so
sánh văn học. Vì thế khi gặp đề bài này, học sinh chỉ biết đơn thuần cảm thụ lần
lượt hai đối tượng chứ không biết chỉ ra từng đặc điểm giống nhau và khác nhau,
đặc biệt rất hiếm trường hợp học sinh biết lí giải nguyên nhân giống và khác nhau
ấy là do đâu, dựa trên cơ sở nào để giải thích.
<b>7.2.2.Khảo sát thực trạng:</b>
<b> Khảo sát chất lượng học sinh giỏi:</b>
- Năm học 2015-2016: Có 3 học sinh đi thi học sinh giỏi cấp huyện thì có 2
học sinh đạt 5 điểm, một học sinh đạt 7 điểm.
<b> Khảo sát chất lượng đại trà:</b>
Năm học TSHSKS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
2015-2016
72 5 7 29 40 31 43 7 10
2016-2017
72 6 8.3 32 44.6 29 40.2 5 6.9
<i> Bảng1: Bảng kết quả khảo sát HS trước khi triển khai chuyên đề</i>
Từ kết quả khảo sát trên ta thấy năng lực cảm thụ văn của học sinh còn thấp.
7.2.2. Nguyên nhân:
Về phía phụ huynh: Có những phụ huynh học sinh quan niệm học văn khó chọn
trường nên định hướng cho con em học các môn khoa học tự nhiên.
Về phía học sinh:
Nhiều học sinh coi mơn văn là mơn học dài dịng, phải học thuộc nhiều, tài
liệu tham khảo ít. Hơn nữa do xã hội có nhiều quan niệm khác trong cuộc sống nên
nhiều học sinh sống thiếu cảm xúc, ít rung động trước cuộc sống xung quanh.
Về phía giáo viên: Một số học sinh chưa vận dụng tốt các phương pháp dạy
học văn đặc biệt là cách thức cảm thụ văn. Hơn nữa thời gian học cũng ít, nên
nhiều giáo viên cũng khơng có thời gian để hướng dẫn học sinh làm các dạng bài
khác nhau.
<b>7.3.Các giải pháp cơ bản giúp học sinh có năng lực cảm thụ dựa trên kiểu bài</b>
<b>so sánh văn học.</b>
<b>7.3.1.Giúp học sinh nhận thức được cảm thụ văn học với việc dạy học tác</b>
<b>phẩm văn chương</b>
<i><b>7.3.1.1.Cảm thụ văn học- một khâu thiết yếu của việc dạy học văn</b></i>
<i> 7.3.1.1.1.Cảm thụ văn học là một hoạt động phù hợp với đặc trưng của môn văn.</i>
Môn văn trong nhà trường là mơn học vừa có tính nghệ thuật ngơn từ vừa mang
tính chất của một mơn học. Đây là hai thuộc tính cơ bản cần được nhận thức đầy đủ
để có được một cách nhìn tồn diện về mơn văn và việc dạy học văn trong nhà
trường.
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học là nghệ thuật lấy ngôn từ làm
chất liệu phản ánh. Con đường tiếp cận và tiếp nhận tác phẩm bao giờ cũng là một
quá trình bắt đầu từ những ký hiệu ngôn ngữ, đến lớp âm thanh - nhịp điệu, rồi đến
từ vựng - ngữ điệu - đề tài, chủ đề và tư tưởng cảm xúc. Chính vì thế q trình tiếp
nhận một tác phẩm văn học không thể chỉ dừng lại ở lớp vỏ âm thanh, ở mức nhận
thức bề mặt mà phải tìm hiểu nội dung biểu hiện, phần thông điệp mang tâm hồn,
tình cảm của nhà văn qua nội dung phản ánh. Hemingway cũng từng quan niệm:
lĩnh hội một hình tượng văn học là phải khám phá phần chìm của tảng băng trơi, đó
chính là nội dung tư tưởng của tác phẩm đã được cảm xúc hóa. Một tác phẩm văn
chương trong nhà trường bao giờ cũng được đặt trong một hệ thống gắn bó chặt chẽ
giữa nội dung, tư tưởng cảm xúc hóa của tác phẩm, tâm hồn của GV và tâm hồn
của HS. Tác phẩm văn học chỉ thật sự đến với bạn đọc chỉ khi nào tác phẩm đã
được bạn đọc nhận thức một cách khách quan, rõ ràng, và nội dung khách quan của
hình tượng phải do nhà văn xây dựng trên cơ sở nhận thức theo vốn sống của bản
thân. Điều này đòi hỏi dạy học văn không thể tách rời nhận thức với tư tưởng cảm
xúc hóa, khơng thể tách rời chất lượng phản ánh với chất lượng biểu hiện của hình
tượng tác phẩm trong khi tiếp nhận. Và trong quá trình tiếp nhận tác phẩm cũng
không thể tách rời biệt lập hoặc bỏ khâu tự nhận thức với khâu nhận thức hình
tượng. Có nghĩa là việc giảng dạy khơng chỉ có tính hình thức, mà phải khơi gợi
giảng dạy thích hợp. Bởi vì văn học trong nhà trường cịn mang tính chất là một
môn học. Môn văn cũng như các bộ mơn khác có nhiệm vụ cung cấp cho HS những
hiểu biết, những kiến thức khoa học nhất định, góp phần hình thành và phát triển
nhân cách xã hội chủ nghĩa cho HS nhưng bằng phương tiện đặc thù của môn văn.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của môn văn trong nhà trường phổ
thông là giáo dục nhận thức cho HS. Cụ thể là cung cấp những hiểu biết về thế giới
bên ngoài, xã hội và con người. Những tác phẩm văn chương ưu tú bao giờ cũng là
nguồn tri thức phong phú, khai thác không bao giờ vơi cạn. Dạy văn là giúp cho HS
nhận ra nguồn tri thức phong phú, đa dạng và bổ ích đó để giúp cho thế giới tinh
thần của các em giàu có hơn, phong phú hơn, sâu sắc hơn, mở rộng hơn và tinh tế
hơn.
Ngồi ra mơn văn cịn có nhiệm vụ cung cấp những hiểu biết có hệ thống về
lịch sử văn học. Đây là phần tri thức khái quát cực kì quan trọng không chỉ giúp
người học cảm thụ, chiếm lĩnh tác phẩm văn chương được sâu sắc hơn mà còn giúp
cho HS có được những kiến thức cơng cụ để có thể tự mình tham gia vào các họat
động văn học nghệ thuật một cách có ý thức, có hiệu quả. Chính vì thế trong dạy
học văn, điều cần thiết là phải phát huy cao độ sáng tạo cá nhân, cảm hứng cá nhân
và nhu cầu đồng cảm, đồng thời coi trọng khả năng hiểu biết, tính nhạy cảm với
tính chuẩn xác của tri thức. Trong dạy học văn, cảm xúc và trí tuệ ln hỗ trợ, bổ
sung cho nhau để cùng hướng tới mục tiêu quan trọng đó là phát triển hài hòa nhân
cách của HS.
<i>chương chỉ thực sự phát huy được sức mạnh của nó khi nào nó được khơi dậy từ</i>
<i>bên trong người tiếp nhận những hoạt động tâm lí sáng tạo, những khát vọng sống</i>
<i>cao thượng, sống có ý nghĩa và ý thức hơn</i>” . Cho nên thực chất của việc phát huy
chủ thể HS là phát triển một cách cân đối hài hịa về tư duy hình tượng và tư duy
<i>7.3.1.1.2.Cảm thụ văn học là một hoạt động sáng tạo của học sinh</i>
Cảm thụ văn học là một hoạt động tâm lí có những qui luật riêng do đặc thù
của đối tượng cảm thụ qui định. Trong thực tế, nếu khơng có lao động sáng tạo thì
khơng thể có cảm thụ văn học thật sự.
Q trình sáng tác văn học địi hỏi người nghệ sỹ phải phấn đấu vượt qua gian
khổ, vượt lên trên sự ràng buộc hoặc giới hạn nhỏ hẹp để hịa mình vào cuộc sống
chung, để lắng nghe tiếng nói chung của mọi người, từ đó nâng một sự kiện, một
chi tiết cụ thể, một hoàn cảnh cụ thể đến mức độ khái qt có ý nghĩa phổ biến,
điển hình. Chính vì thế, q trình cảm thụ nghệ thuật của người đọc cũng phải đi từ
vốn kinh nghiệm, vốn sống của cá nhân mình đến vốn kinh nghiệm, vốn sống
chung mà nhà văn đã khái quát ở trong hình tượng nghệ thuật. Có như thế người
đọc mới có thể rung cảm, đồng cảm với nghệ sỹ. Qua đó, có thể thấy cảm thụ có ý
nghĩa rất lớn đối với quá trình phân tích tác phẩm văn chương. Đối với người đọc,
quá trình cảm thụ văn học là một quá trình lao động nhiều gian khổ để rèn luyện
những năng lực văn chương và cũng khơng ít sự hứng thú trong q trình tiếp nhận.
Người cảm thụ phải có một vốn sống tích cực, có một sự nổ lực quan sát rất lớn thì
mới có được sự đồng cảm nghệ thuật.
Cảm thụ văn học là một hoạt động tự giác. Bởi vì hoạt động này do bản thân
đối tượng cảm thụ quyết định. Trong quá trình cảm thụ, người đọc, người nghe cần
phải nâng mình lên, phải vượt qua giới hạn nhỏ hẹp của bản thân thì mới tiếp nhận,
mới đồng cảm được với nội dung sáng tạo có sức mạnh khái quát sâu sắc nội dung
rộng lớn mà bản thân người nghệ sỹ đã phải nâng mình, vượt qua trong quá trình
sáng tạo nghệ thuật. Quá trình cảm thụ văn học ln ln là một q trình mà chủ
thể cảm thụ phải tự giác vượt giới hạn về chất lượng tình cảm và vốn sống cá nhân.
Chẳng hạn, đọc những câu thơ của Tố Hữu:
<i>Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha</i>
<i>Đau đớn thay phận đàn bà</i>
<i>Hỡi ơi, thân ấy biết là mấy thân”</i>
Nhà thơ đã khẳng định sức sống bất diệt của tác phẩm qua sự hồi tưởng về quá
khứ xa xăm, qua sự khơi gợi thế giới hình tượng Truyện Kiều, đặc biệt là bằng sự
trải nghiệm cuộc sống, sự cảm thông, yêu mến và sự cảm nhận sấu sắc tấm lòng
nhân hậu yêu thương con người của Nguyễn Du. Như vậy, để đồng cảm, đồng điệu
với tiếng nói của nhà thơ, người đọc cần có sự huy động thật sâu xa kiến thức lịch
sử, văn học, và kinh nghiệm, vốn sống cá nhân được chắt lọc từ trong thực tiễn để
tiếp nhận tác phẩm.
Trong nhà trường, cảm thụ của HS cũng tuân theo qui luật chung của cảm thụ
văn học, bởi vì học sinh chính là chủ thể cảm thụ của q trình phân tích tác phẩm
văn chương, cho nên kết quả dạy học tác phẩm văn chương phải là kết quả của sự
cảm thụ tự giác sâu sắc của cả người dạy và người học. GV trước hết phải cảm thụ
thật tốt, sau đó cũng phải giúp cho HS cảm thụ tốt. Nếu khơng có sự đồng cảm và
nhất trí giữa thầy và trị thì giờ học khơng thể thành cơng. Đối với công việc dạy
học văn, hơn bất cứ bộ môn nào, nguyên tắc tự giác và tích cực phải được phát huy
triệt để. Cảm thụ càng gắn với ý thức tự giác thì càng có tác dụng phát triển nhân
cách của HS.
Mặt khác, trong cảm thụ văn học nghệ thuật, nhu cầu tự ý thức là đặc trưng cơ
bản của sự chiếm lĩnh văn học nghệ thuật. Chủ thể cảm thụ luôn trong nhu cầu và
khát vọng tự ý thức. Do sự thúc đẩy của những trạng thái cảm xúc, con người sống
với những tâm trạng nhất định. Khát vọng tự nhận thức, tự biểu hiện càng cao thì
văn học nghệ thuật lại càng là phương tiện có hiệu lực mạnh mẽ cho đối tượng cảm
liên tưởng, hồi ức, sáng tạo, vốn sống, lý tưởng thẩm mỹ... Chẳng hạn, khi cảm thụ
đoạn thơ của Hữu Thỉnh:
<i>“ Bỗng nhận ra hương ổi</i>
<i>Phả vào trong gió se</i>
<i> Sương chùng chình qua ngõ</i>
<i> Hình như thu đã về”</i>
Người đọc khơng sống ở Bắc Bộ, cũng không sống ở thời điểm ra đời của bài
thơ nhưng khơng vì thế mà khơng cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong đoạn thơ
trên. Bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, bằng kinh nghiệm, kiến thức lịch
sử và bằng một tâm hồn nhạy cảm tinh tế, người đọc vẫn có thể cảm nhận được
những dấu hiệu sang thu được bắt đầu từ đâu.Chỉ bằng một mùi hương của ổi chín
được phả vào trong gió se trong một buổi sáng thanh bình, yên ả. Chỉ bằng một mùi
hương nhẹ nhưng có đủ sức làm thức dậy mọi giác quan để đón nhận. Gió se lạnh
bỗng trở nên thơm tho, nồng ấm hẳn lên, hào phóng đem hương ổi đi chia khắp nơi.
Hương ổi luồn vào trong sương khiến sương “chùng chình”,bâng khuâng<i>, </i>lưu luyến
chẳng muốn đi mau qua ngõ.Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên và phút giao mùa thật tinh
tế , sâu sắc. Từ hương nhận ra gió, từ gió nhận ra sương. Trong sương có gió, có
hương, có tình. Nếu khơng có sự phối hợp của nhiều năng lực nhận thức thì khơng
thể có q trình cảm thụ, và sự liên tưởng, xúc cảm của nhà thơ cũng không thể
khơi dậy những liên tưởng và rung động ở người đọc.
Quá trình cảm thụ văn học cũng có thể nói là sự tiếp tục q trình sáng tạo
nghệ thuật, hay nói cách khác là hoạt động <i>“đồng sáng tạo”.</i> Trong tác phẩm văn
học, nhà văn khơng thể nào nói hết mọi điều mà luôn luôn nhờ vào sự <i>“đồng sáng</i>
<i>tạo</i>” của người đọc.
Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị ln gợi lên cho người đọc sự liên tưởng,
tưởng tượng, hồi ức, suy nghĩ... Người đọc phải dựa vào vốn sống, kinh nghiệm
của bản thân để cùng sáng tạo với nhà văn. Do mỗi người có vốn sống, quan
điểm... khác nhau nên nội dung của một tác phẩm là vơ hạn và hình tượng nghệ
thuật ln ln mới mẻ. Ngược lại, khi tìm hiểu một tác phẩm, bao giờ người đọc
cũng có nhu cầu phát triển về năng lực văn học, có nhu cầu gặp gỡ, đồng cảm với
tác giả về vốn sống và về nhận thức, để từ đó được xúc động, rung cảm, được tri
âm với nhà văn, nhà thơ. Điều này địi hỏi người đọc phải có q trình hoạt động
tâm lí nhận thức thì mới tiếp nhận điều nhà văn, nhà thơ muốn truyền đạt. Hoạt
động tâm lý nhận thức trong cảm thụ chính là đường dây nối liền nghệ sỹ với người
đọc, là đầu mối của những rung động thẩm mỹ, của những xúc cảm nghệ thuật, vốn
sống, kinh nghiệm, hiểu biết càng nhiều và sức liên tưởng càng mạnh thì hiệu quả
cảm thụ càng rộng, càng sâu. Ví dụ: Đọc đoạn thơ <i>“Kiều ở lầu Ngưng Bích</i>” trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du, mỗi người chắc chắn sẽ có một cách cảm nhận khác
nhau. Hồi Thanh trong q trình theo dõi những biến thái phức tạp của tâm trạng
nhân vật Thuý Kiều trong sự kiện xót xa này, đã đồng cảm với Nguyễn Du để nhận
ra kiểu <i>“nhập vai”</i> sâu sắc của tác giả. Vận dụng tưởng tượng, so sánh, phân tích,
Hồi Thanh đã cảm nhận theo cách của mình.Hay mỗi chúng ta khi tiếp nhận tác
phẩm cũng có những cảm nhận riêng.
Cảm thụ văn học quả là một hoạt động đồng sáng tạo. Hoạt động đó rất phong
phú và khác nhau tùy thuộc vào trình độ của người đọc. Nếu sức tưởng tượng tốt,
khả năng đọc hiểu và cảm thụ của người tiếp nhận tốt sẽ chắp cánh thêm cho sức
tưởng tượng của tác giả. Hình tượng trong tác phẩm cũng sẽ được chắp cánh để
bay cao, bay xa hơn.
giới hạn nhỏ hẹp của cuộc sống riêng, kinh nghiệm riêng để hồ mình vào cuộc
sống chung, kinh nghiệm chung của cộng đồng mà còn là những người nuôi dưỡng,
vun đắp cho sản phẩm sáng tạo của họ.
Cảm thụ văn học là một hoạt động sáng tạo, là một hoạt động tự giác, là sự
vận động của nhiều năng lực chủ quan của con người, đồng thời là quá trình tiếp
nối sự sáng tạo của nghệ sỹ. Chính vì thế, dù cảm thụ chỉ là tiền đề để đi vào tác
phẩm nhưng đây là bước quan trọng giúp người đọc tự giác, hứng thú tiếp tục đi
thêm một bước cao hơn đó là nhận định, đánh giá tác phẩm về nội dung tư tưởng.
Nhờ sự <i>“đồng sáng tạo</i>” đó mà trong cảm thụ nghệ thuật, chuyện của ngày xưa
cũng trở thành chuyện của ngày nay, một tác phẩm xa lạ ở nước ngoài cũng trở nên
gần gũi, chuyện của nhân vật trong tác phẩm cũng trở thành chuyện của cá nhân
mình... Từ đó mà tác phẩm có sự tác động sâu sắc, để lại dấu ấn bền chặt trong tâm
hồn người đọc.
<b>7.3.2. Giúp học sinh phân biệt được các vấn đề về so sánh văn học.</b>
<b>7.3.2.1. So sánh dưới góc độ là một biện pháp tu từ nghệ thuật:</b>
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học do Hồng Phê chủ biên thì
“so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau
<i>hoặc sự hơn kém”.</i>
Theo Từ điển Tu từ – phong cách học – thi pháp học của tác giả Nguyễn Thái
Hoà (NXB Giáo dục) thì “so sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật
<i>này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó</i>
<i>để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc,</i>
<i>người nghe”.</i>
Từ những khái niệm trên vận dụng vào việc rèn kĩ năng cảm thụ văn học cho học
<i><b>cách toàn diện, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế đời sống , so sánh</b></i>
<i><b>trở thành một thao tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức,</b></i>
<i><b>đánh giá của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.</b></i>
So sánh là sự đối chiếu sự vật này với sự vật khác có nét tương đồng để làm tăng
sức gợi hình , gợi cảm cho sự diễn đạt
Ví dụ: <i> </i> <i>“Trong như tiếng hạc bay qua</i>
<i> Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”</i>
Với thủ pháp nghệ thuật so sánh sẽ tạo ra được những hình ảnh cụ thể, sinh
động. Phần lớn phép so sánh đều lấy cái cụ thể để so sánh với cái không cụ thể
hoặc kém cụ thể hơn, giúp mọi người hình dung được sự vật, việc cần nói tới và
cần miêu tả.
Ví dụ: “Cơng cha như núi Thái Sơn
<i> Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”</i>
So sánh còn giúp cho văn hàm súc gợi trí tưởng tượng của ta bay bổng. Vì thế
trong thơ văn người ta hay sử dụng phép tu từ so sánh.
Song ở chuyện đề này tôi không đưa ra cách cảm thụ văn thông qua phép tu từ
so sánh.Mà cảm thụ văn dưới các dạng bài so sánh văn học.
<b>7.3.2.2.Biện pháp so sánh trong phân tích văn học</b>
ni dưỡng nó. Tuy nhiên, khả năng và giới hạn so sánh không chấp nhận trường
hợp lạm dụng tùy tiện, chủ quan mà đòi hỏi phải được xác định trên nguyên tắc
chặt chẽ và có cơ sở khoa học xác đáng.
Chẳng hạn, khi phân tích nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm “Lão Hạc”,
muốn làm rõ ý nghĩa điển hình của nhân vật này, khơng có biện pháp nào hiệu quả
hơn việc so sánh Lão Hạc với Chi Dậu (trong “<i>Tắt đèn</i>” của Ngô Tất Tố) và anh
Pha (trong “<i>Bước đường cùng</i>” của Nguyễn Công Hoan). Cơ sở để đi vào lựa
chọn, so sánh là cả ba tác phẩm này đều có sự gần gũi về loại hình tác phẩm, về đề
tài và thời điểm sáng tác, đồng thời những nhân vật này cũng có hồn cảnh gần
giống nhau. Tuy nhiên, chị Dậu và anh Pha đều được tác giả miêu tả bằng ngòi bút
lý tưởng hóa, khơng mang tính điển hình tha hóa như nhân vật Lão Hạc. Bên cạnh
đó, biện pháp so sánh này còn giúp HS thấy rõ phương thức trần thuật rất sáng tạo
và mang tính đặc trưng riêng của Nam Cao. Nếu như lối trần thuật của Ngô Tất Tố
nghiêm túc, tỉnh táo “<i>nhìn trước ngó sau</i>”, lối trần thuật của Nguyễn Cơng Hoan
đầy hóm hỉnh, tinh qi thì Nam Cao có lối kể dửng dưng, lạnh lùng, chua chát đến
tàn nhẫn. Người đọc không sao quên được <i>“cái chết thê thảm ”</i> của Lão Hạc, <i>...</i>
Như vậy, có thể thấy so sánh là một trong những biện pháp rất cần thiết trong phân
tích và dạy tác phẩm văn học. So sánh đúng chỗ, đúng lúc, đúng phạm vi sẽ giúp
cho thế giới thẫm mỹ của HS không những được phát triển tự nhiên và phong phú,
mà bản thân việc phân tích tác phẩm cũng được thuận lợi hơn, sâu sắc hơn. Giáo
viên xử dụng tốt thao tác này trong các giờ giảng văn sẽ giúp cho học sinh có hứng
thú và có khả năng ghi nhớ tác phẩm, đặc điểm của tác phẩm tốt hơn.
<b>7.3.3. Giúp học sinh nắm các kiểu bài so sánh giúp tăng cường năng lực cảm</b>
<b>thụ văn của học sinh THCS- so sánh văn học dưới dạng một kiểu bài nghị</b>
<b>luận.</b>
<b>7.3.3.1. Khái niệm:</b>
So sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu
văn”(1) .
Thứ ba, nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi
viết bài nghị luận”(2), tức là như một kiểu bài nghị luận cạnh các kiểu bài nghị
luận về một đoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn
xuôi… ở sách giáo khoa Ngữ văn 9. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu bài
nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập. Vì vậy, từ việc
xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho
kiểu bài này thực sự rất cần thiết.Đặc biệt đối với những học sinh giỏi. Bởi không
nắm được dạng , kiểu bài này các em sẽ khó làm được những tác phẩm, những đề
văn đòi hỏi phải có sự khái qt so sánh, đối chiếu.
<b>7.3.3.2. Mục đích của so sánh văn học:</b>
Chỉ ra được sự giống nhau và khác nhau về các bình diện của tác phẩm văn
học như: đề tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tơi trữ tình, chi tiết nghệ thuật
của các tác phẩm văn học trong chương trình THCS.
Trên cơ sở giống nhau chỉ ra được điểm khác nhau về các mặt, các bình diện
như trên trên cùng một tác giả hay các tác giả khác nhau. Thấy được sự khác nhau
giữa các giai đoạn, các thời kì văn học. Qua đó thấy được sự kế thừa và phát huy
của các tác giả. Trên cơ sở đó học sinh lí giải được nguyên nhân của sự khác nhau
đó.
<b>7.3.3.3. Kiểu bài so sánh văn học:</b>
giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa
phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau cũng cần phải tính tốn hợp lí với năng
lực của các em. Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng trong từng bài, từng cấp học sẽ là
căn cứ để kiểm định những vấn đề này.
Cụ thể có các kiểu bài sau đây:
- So sánh các tác phẩm.
- So sánh các đoạn tác phẩm (hai đoạn thơ hoặc hai đoạn văn xuôi.)
- So sánh các nhân vật văn học.
- So sánh các tình huống truyện.
- So sánh các cốt truyện.
- So sánh cái tơi trữ tình giữa các bài thơ.
- So sánh các chi tiết nghệ thuật.
- So sánh nghệ thuật trần thuật.
<b>7.3.4. Giúp học sinh nắm được bố cục của bài văn nghị luận so sánh văn học.</b>
<b>7.3.4.1.Mở bài :</b>
Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
<b>7.3.4.2.Thân bài:</b>
Phân tích cảm thụ hai đối tượng trong thế đối sánh:
Cách trình bày, triển khai ý, thơng thường có hai cách là nối tiếp và song
<i><b>song.</b></i>
<i><b>Cách 1 – Cách nối tiếp: Lần lượt phân tích, cảm thụ từng đối tượng sau đó chỉ ra</b></i>
cái giống và khác nhau. Cụ thể mơ hình của phần thân bài như sau:
1-Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập nhưng
chủ yếu là thap tác lập luận phân tích).
3.So sánh: Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội
dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập lụân so sánh).
4-Lý giải sự khác biệt: Thực hiên thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh
xã hội, văn hoá mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp
của thời kỳ văn học…(bước này vận dụng nhiều thao tác lập luân nhưng chủ yếu là
thao tác lập luận phân tích).
Cách này dễ làm nhưng khó hay, dài, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái so sánh dễ bị
chìm. Sự liên kết giữa các đối tượng cảm thụ thường rất lỏng lẻo, rời rạc, làm mất
đi tính chỉnh thể của bài viết. Do u cầu mang tính phổ thơng nên đáp án thi đại
học thường trình bày theo cách này.
<i><b>Cách 2 – Cách song song: Tức là song hành đối sánh trên một bình diện của hai</b></i>
đối tượng theo hai mảng lớn giống – khác đồng thời lí giải nguyên nhân của sự
giống, khác đó. Với học sinh giỏi nên chọn cách trình bày này. Trước hết phải sử
dụng thao tác đồng nhất – tìm cái chung (tư duy tổng hợp) sau đó mới đi tìm cái
riêng – thao tác phân tách (tư duy phân tích).
1-Giới thiệu vị trí, sơ lược về hai đối tượng cần so sánh.
2-So sánh nét tương đồng và nét khác biệt giữa hai hay nhiều đối tượng theo từng
tiêu chí trên cả hai bình diện nội dung, nghệ thuật. Ở mỗi tiêu chí tiến hành phân
tích ở cả hai tác phẩm để có thể thấy được điểm giống, điểm khác.
Học sinh có thể dựa vào một số tiêu chí sau để tìm ý (tất nhiên tùy từng đề cụ thể
có thể thêm, hoặc bớt các tiêu chí).
– Tiêu chí về nội dung: Đề tài, chủ đề, hình tượng trung tâm (tầm vóc, vai trị, ý
nghĩa của hình tượng), cảm hứng, thơng điệp của tác giả…
– Tiêu chí về hình thức nghệ thuật: Thể loại, hệ thống hình ảnh, ngơn từ, nhịp điệu,
giọng điệu, biện pháp, nghệ thuật..
3-Sau khi chỉ ra điểm giống, điểm khác cần lí giải vì sao có điểm giống, điểm khác
này, nguyên nhân chủ yếu:
+ Do hoàn cảnh lịch sử
+ Do sự chi phối của ý thức hệ và thi pháp hệ thống quan điểm thẩm mĩ.
+ Do cá tính của tác giả.
+ Cơ sở lí luận văn học: Mỗi tác phẩm là số phận của một cá nhân cụ thể, tác phẩm
muốn tồn tại phải có cái khác người, độc đáo, có sự sáng tạo.
Cách này hay nhưng khó, nó khắc phục được tất cả các nhược điểm của cách thứ
nhất. Nhưng điểm mạnh sẽ thành điểm yếu nếu học sinh khơng có tư duy chặt chẽ
logic để tách vấn đề, khơng có sự tinh tế trong việc lựa chọn các yếu tố để cảm
nhận, lời bình khơng biết nhấn, biết lướt. Nếu vậy bài viết hoặc sẽ rất rối hoặc
thiên về liệt kê so sánh đối chiếu khô cứng.
<b>7.3.4.3.Kết bài:</b>
Khái quát lại những nét tương đồng và khác biệt cơ bản, nêu cảm nghĩ của
bản thân. Có nhiều cách kết bài nhưng có thể lựa chọn cách Mở – Kết tương ứng.
Mở bài dẫn dắt từ đâu nên kết lại ở đó (lí luận văn học, đề tài, chủ đề, giai
đoạn…)nhất là mở ra những vấn đề LLVH mới.
Song cần chú ý, để đạt được kết quả mong muốn học sinh cần phải biết tổ
chức bài viết một cách hợp lí và việc lựa chọn cách làm cũng phải linh hoạt, dựa
vào từng dạng đề bài cụ thể và sở trường cá nhân của từng người viết. Chẳng hạn,
nếu đề bài u cầu phân tích, đối sánh khơng phải hai mà là nhiều đói tượng cùng
một lúc thì rõ ràng cách làm nên chọn là cách thứ hai, nghĩa là phân tích, đánh giá
các đối tượng ấy theo hai luận điểm lớn là điểm giống nhau và điểm khác nhau chứ
khơng nên phân tích lần lượt rồi mới so sánh.
Bên cạnh đó, cần nhớ rằng trong q trình so sánh, các ý phải được tạo lập,
bố trí, sắp xếp một cách mạch lạc, rõ ràng. Đặc biệt, để có thể so sánh văn học, cần
phải dựa trên những tiêu chí nhất qn giữa các đối tượng. Nếu khơng phân tách
đối tượng ra thành các bình diện, các tiêu chí để so sánh thì sẽ dẫn đến lối viết
chung chung, rối rắm hoặc thiếu ý…Đây là lỗi mà học sinh hay mắc phải – kể cả
học sinh giỏi.
(như hoàn cảnh thời đại, đặc điểm cuộc đời nhà văn…)với một hàm lượng thông tin
phù hợp.
Tuy nhiên, khi triển khai đề so sánh văn học đối với đề thi đại học, cao đẳng,
chúng ta triển khai theo cách làm thứ nhất để phù hợp với đông đảo đối tượng học
sinh phổ thông cũng như đáp án của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
<i><b>7.3.5.Giúp học sinh nắm được số dạng bài so sánh văn học thường gặp của học</b></i>
<i><b>sinh THCS:</b></i>
<i><b>7.3.5.1. So sánh về nghệ thuật tả cảnh:</b></i>
Ví dụ : Tả cảnh ngày xuân khi chị em Thúy Kiều đi chơi xuân Nguyễn Du có viết:
<i>“Cỏ non xanh tận chân trời</i>
<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”</i>
<i> (Nguyễn Du)</i>
Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã có cảm hứng về mùa thu ở làng quê Bắc Bộ như sau:
<i>“ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao</i>
<i>Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”</i>
<i> (Thu Vịnh)</i>
Cảm nhận của em về nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên qua những câu thơ trên.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện các bước trên theo dàn ý chung. Cụ
thể như sau:
Ở phần mở bài:
Giới thiệu đối tượng so sánh ở đây là nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên của hai
nhà thơ Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến.
Ở phần thân bài:
- Tác giả: Nghệ sĩ tài hoa, tâm hồn nhạy cảm, u thiên nhiên, có ngịi bút miêu tả
thiên nhiên đặc sắc
- Nội dung: Bức tranh thiên nhiên đẹp. Qua đó thể hiện tấm lịng u thiên nhiên
sâu sắc của nhà thơ.
* Khác nhau
Bình diện Truyện Kiều Thu Vịnh
Tác giả - Nguyễn Du là nhà thơ lớn của
dân tộc, nổi bật trong các sáng
tác của ông là tinh thần nhân
đạo, thành công trong Truyện
Kiều phải kể đến là nghệ thuật
tả cảnh thiên nhiên.
- Nguyễn Khuyến được mệnh danh
là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.
Nhắc đến Nguyễn Khuyến ta không
thể không nhắc đến chùm thơ thu.
Đó là một bức tranh thu ở làng quê
Bắc Bộ.
Đề tài Chọn bức tranh mùa xuân Chọn bức tranh mùa thu
Thể loại Thể thơ lục bát- truyện thơ
Nôm. Hai câu thơ là một phần
Thể thơ thất ngôn bát cú Đường
luật. Đây là đặc trưng bao trùm
toàn bài. Câu chữ gị bó theo niêm
luật. Hai câu này có vị trí, nhiệm vụ
trong toàn bài (2 câu đề)
Nội dung Bức tranh xuân tươi đẹp , giàu
hình ảnh, màu sắc, giàu sức
sống.
Học sinh phân tích hai câu thơ
Câu thơ mở ra một không gian rộng
lớn, bao trùm là màu xanh của trời
thu. “Cần trúc lơ thơ…” hai từ láy
“lơ phơ”, “hắt hiu” sự nhẹ nhàng,
gợi một nỗi buồn man mác, đặc
trưng của cảnh mùa thu.
* Lưu ý: Trong quá trình so sánh để chỉ ra các bình diện của tác phẩm học sinh
cần phải phân tích từng khía cạnh của vấn đề.Mỗi một khía cạnh học sinh sẽ triển
khai thành một đoạn văn.
Ở phần kết luận:
<i><b>7.3.5.2. So sánh các tác phẩm cùng đề tài:</b></i>
Ví dụ : Hình tượng người lính qua hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài
thơ về tiểu đội xe khơng kính ” của Phạm Tiến Duật.
a.Mở bài:
- Một trong những đề tài chủ yếu của văn học cách mạng 1945-1975 là đề tài
người lính
- Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ quyết liệt của dân tộc,
biết bao thế hệ đã hát về anh- một đề tài chẳng bao giờ cạn. Hai bài thơ tiêu biểu
mà ta phải kể đến đó là “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe
khơng kính ” của Phạm tiến Duật.
b. Thân bài:
* Nét chung trong bút pháp thể hiện:
- Sử dụng chất liệu hiện thực của cuộc chiến tranh. Cảm hứng lãng mạn cũng bắt
nguồn từ đó, cảm hứng bi tráng, hào hùng cũng bắt nguồn từ đó.
- Cả hai bài thơ đều được viết bằng thứ ngôn ngữ giản dị, chân thật. Nhất là bài
thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính ” của Phạm Tiến Duật thì giàu chất văn
xi, có như vậy mới đưa được hết chất liệu sống đang ồ ạt, dạt dào cảm xúc và
nhạc điệu làm nên hai thi phẩm xuất sắc, hai hình tượng đặc sắc.
* Nét chung về hình tượng
Hình tượng người chiến sĩ trong “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe khơng
kính” cùng có chung một hồn cảnh, một phẩm chất.
- Đó là điều kiện xuất thân, họ đều từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến
đấu. Khi đất nước có chiến tranh họ sẵn sàng hi sinh cả tài sản tính mạng
- Đó là tinh thần bất khuất , dũng cảm, kiên cường.
- Đó là tinh thần lạc quan, tin yêu cuộc sống, bất chấp mọi khó khăn gian khổ.
- Đó là tình u đồng chí đồng đội, sẻ chia vui buồn, sống chết có nhau.
*Nét đặc sắc riêng:
Người lính trong buổi đầu kháng
chiến chốn Pháp được xây dựng trên bút
pháp hiện thực là chủ đạo.
Họ xuất thân từ nông dân, ra đi từ
những miền quê nghèo khác nhau.
Nét đẹp nổi bật của người lính
khơng phải bằng nét vẽ “bụi trường
chinh” “áo hào hoa”, “giày vạn dặm”…
vv mà là hình ảnh anh vệ túm: đầu
không mũ, chân không giày, áo rách,
quần vá, mong manh, buốt giá, sốt rét
tiều tụy, đứng cạnh bên nhau chờ giặc
tới trong cảnh rừng hoang sương muối.
- Họ chân chất mộc mạc
trong cài nhìn đồng đội. Chân chất
mộc mạc trong nỗi nhớ
- Nét cô đọng chất lọc thể
hiện trong cảm xúc, sử dụng hình
ảnh, ngơn từ của Chính Hữu.
- Người lính thời chống Mĩ.Họ là
người lính của cuộc sống mới.Họ
khơng hồn toàn là những người
chân đất mà còn cả một thế hệ
những người trí thức cũng hăng hái
lên đường
- Trẻ trung trong gian khổ, ngang
tàng trong khó khăn
- Nét phóng túng, tài hoa, sắc sảo
trong sử dụng thủ pháp đối lập giữa
cái khơng có và cái có của Phạm
Tiến Duật.
* Lí giải sự khác nhau:
- Hai tác giả viết về người lính ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau. Sự khác nhau
đó tạo nên sự phong phú cho văn học dân tộc.
c.Kết luận:
- Đánh giá nét chung về hai tác phẩm.
- Nêu suy nghĩ của bản thân .
Ví dụ: Em hãy trình bày suy nghĩ của mình về người nơng dân trước cách
mạng tháng Tám và trong cuộc kháng chiến chống Pháp qua hai tác phẩm Lão Hạc
của Nam Cao và Làng của Kim Lân.
Gv: Cho học sinh tìm hiểu đề
So sánh để thấy được :
<b>Cuộc đời và số phận của các nhân vật :</b>
Trước hết là Lão Hạc của Nam Cao được viết năm 1943 , nhà văn đã xây
dựng lên bức tranh chân thực về người nơng dân Việt Nam nghèo đói, xác xơ trên
con đường phá sản, bần cùng, thê thảm qua số phận của Lão Hạc. Đây là người
nông dân tiêu biểu cho những người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm bị xã
hội thực dân nửa phong kiến bị đẩy đến bước đường cùng.
Thứ nhất, vợ lão Hạc chết sớm. Lão không đủ tiền cưới vợ cho con. Con trai
lão phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cai su, chỉ còn lão và con chó cơi cút ở nhà. Lão bị
ốm một trận hai tháng mười tám ngày đã tiêu diệt gần hết số tiền dành dụm được
cho con trai.Làng lại mất vé sợi, cơn bão đi qua bỏ lại phía sau vườn tược, hoa màu
tan tác…tuổi già sức yếu lão không thể làm thuê để kiếm sống được nữa. Lão lâm
vào cảnh khốn cùng. phải bán con chó u q của mình và chuẩn bị cho cái chết.
Lão gửi lại ông giáo ba sào vườn cho con trai, gửi lại ba mươi đồng bạc để làm ma
cho mình rồi ăn bả chó chết một cách đau đớn thê thảm.
Thứ hai, số phận lão Hạc tiêu biểu cho bao người nông dân Việt Nam trước
cách mạng tháng Tám 1945. Cuộc đời đói nghèo, bị đẩy tới bi kịch thê thảm là do
xã hội phong kiến dã man, tàn bạo, bị áp bức bóc lột người nông dân đến tận xương
tủy. Cái chết bi thương của lão là lời lên án , tố cáo cái xã hội bất công phi nhân
đạo ấy.
Ông Hai đi tản cư cùng đồng bào là đi kháng chiến. Ở nơi tản cư ông luôn
nhớ về làng Chợ Dầu giàu đẹp và giàu tinh thần kháng chiến của mình. Song đột
nhiên ơng lại nghe được cái tin thất thiệt: làng chợ Dầu theo giặc lập đề. Ông xấu
hổ đau đớn nhục nhã, ê chề. Lương tâm ông bị cắn dứt, giằng xé. Nếu làng chợ Dầu
theo giặc thật thì ơng phải thù làng. Lịng dặn lịng quyết đi theo cụ Hồ, đi theo
kháng chiến. Suốt mấy ngày ông chỉ quanh quẩn trong nhà, chẳng dám ra ngoài gặp
ai. Bỗng lại có tin cải chính, lịng ơng vui phơi phới. Ông lại khoe với mọi người:
Làng chợ Dầu bị tây đốt sạch phá sạch, cả ngôi nhà của ông cũng vậy. Với ông dó
là một minh chứng xác đáng để rửa tiếng nhơ làng theo giặc.
<b>Sự tương đồng và nét khác biệt của hai nhân vật:</b>
<i>Nét tương đồng: Lão Hạc và ông Hai đều là những người nông dân hiền lành</i>
chất phác, lao động cần cù, có phẩm chất trong sáng.
Sự khác biệt ở hai nhân vật này là họ sống ở hai giai đoạn khác nhau của đất
nước:
Lão Hạc sống trong chế độ thực dân nửa phong kiến, người nơng dân lúc đó
chưa tiếp cận được với ánh sáng của Đảng, nên đời sống vẫn ngập chìm trong đêm
trường tăm tối, khơng có người chỉ đường dẫn lối, lão phải tìm đến cái chết thê
thảm . Cịn ông Hai hơn hẳn lão Hạc là được hưởng cuộc sống độc lập , khơng cịn
bị áp bức một cổ hai tròng, nhưng lại phải cùng đất nước đương đầu với cuộc tái
xâm lược của thực dân Pháp. Ông Hai quý những giây phút của con người tự do
nên rất yêu Đảng, yêu cụ Hồ, yêu kháng chiến, nguyện đi theo cách mạng để gìn
giữ nền độc lập tự do. Hình tượng ơng Hai là dấu ấn trên con đường đi lên và được
đổi đời của người nông dân dưới ánh sáng của Đảng, Bác Hồ . Ông Hai đã có nhiều
tiến bộ trong nhận thức tư tưởng: người nơng dân khơng chỉ dừng lại ở tình u
thương con, lịng nhân hậu, một người cha mẫu mực như lão Hạc mà tiến lên một
bước vượt bậc đó là tình u làng, yêu nước, yêu kháng chiến; đồng thời đây cũng
<b>7.3.5.4. So sánh hai đoạn thơ cùng đề tài.</b>
<i> Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi</i>
<i> Cỏ non xanh tận chân trời</i>
<i> Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”</i>
<i> (“ Truyện Kiều”- Nguyễn Du)</i>
<i> “ Mọc giữa dịng sơng xanh</i>
<i> Một bơng hoa tím biếc</i>
<i> Ơi con chim chiền chiện</i>
<i> Hót chi mà vang trời</i>
<i> Từng giọt long lanh rơi</i>
<i> Tôi đưa tay tôi hứng.”</i>
<i> ( “ Mùa xuân nho nhỏ”- Thanh Hải)</i>
GV Cho học sinh tìm hiểu đề và xây dựng dàn ý theo định hướng sau:
Mở bài: - Giới thiệu đề tài mùa xuân trong văn học.
- Giới thiệu Nguyễn Du và Thanh Hải.
- Giới thiệu tác phẩm và đoạn trích.
Thân bài:
* Khái quát
* Cảm nhận về hai đoạn trích.
- Giống nhau: Cùng là bức tranh mùa xuân tươi trẻ, khoáng đạt, tươi thắm
sắc màu, tràn đầy sức sống với bầu trời cao rộng, cỏ hoa, chim chóc. Tất cả đều
được hịa phối tuyệt diệu bởi những thi sĩ – họa sĩ tài ba.
- Khác:
+ “ Mùa xuân nho nhỏ”: bên cạnh màu sắc, dáng vẻ là âm thanh: xuất hiện
chim chiền chiện nhưng tác giả không miêu tả dáng bay mà đặc tả tiếng hót, tiếng
hót vang trời làm cho bức tranh xuân thêm sống động, tươi vui-> Thiên nhiên thiên
về vẻ đẹp động, trọng tâm miêu tả không rơi vào sự vật chủ thể như: bơng hoa tím,
chim chiền chiện mà rơi vào hoạt động của sự vật. Đó là động thái “mọc” của bơng
hoa và hành động “hót” của chú chim chiền chiện. Những sự vật được chọn là
những sự vật bình dị, dân dã: chim chiền chiện- loài chim nhỏ sống ở đồng ruộng.
* Lý giải:
- Hai bài thơ của hai tác phẩm ở hai thời đại khác nhau: “Truyện Kiều” thuộc
văn học trung đại thiên về cái đẹp cao quý, trang nhã. “Mùa xuân nho nhỏ” thuộc
văn học hiện đại thiên về cái đẹp bình dị, đời thường- chịu sự chi phối của quan
điểm thẩm mĩ thơ ca hiện đại
- Tình xuân trong “Truyện Kiều” là tình yêu niềm vui trước vẻ đẹp của mùa
xuân được biểu hiện một cách điềm tĩnh, nhẹ nhàng, kín đáo. Đoạn thơ “Mùa xuân
nho nhỏ” là cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân được biểu hiện một
cách sôi nổi, hào hứng, say mê.
- Chủ thể của “ Truyện Kiều” là một trí thức Nho học. Chủ thể của “ Mùa
xuân nho nhỏ” là một nghệ sĩ- chiến sĩ, người đã từng tham gia hai cuộc kháng
Nói tóm lại, các dạng đề so sánh dưới góc độ là một bài văn nghị luận có
một vai trị hết sức quan trọng trong q trình phân tích và cảm thụ văn học.Nhờ có
nó học sinh vừa nắm chắc phương pháp làm vừa nắm chắc, khắc sâu nội dung tác
phẩm. Từ chỗ nắm được các nội dung cơ bản liên quan đến tác phẩm, các em hiểu
tác phẩm, trên cơ sở đó u thích tác phẩm, thấy được cái hay trong tác phẩm. Và
sâu xa hơn các em sẽ yêu thích mơn văn. Từ việc u thích bộ mơn các em sẽ có
kết quả cao về mơn học.
<b>9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Học sinh nhận thức đều, đặc</b>
biệt là yêu thích mơn học, có năng khiểu văn chương, đủ sách giáo khoa và tài liệu
tham khảo, có các thiết bị dạy học hiện đại ( máy chiếu…)
Nhờ việc áp dụng rèn kĩ năng cảm thụ văn của học sinh như đã nêu ở trên kết
quả môn học của tôi đạt được như sau:
<b>10. Kết quả thu được:</b>
Sau vài năm cùng trao đổi trong nhóm văn, cùng hướng dẫn học sinh học văn
giải thích, chứng minh, phân tích, luyện các dạng đề so sánh theo những cách trên,
chúng tôi thấy học sinh hiểu bài hơn, có kĩ năng làm dạng đề so sánh tốt hơn. Đặc
biệt cả chất lượng học sinh đại trà và học sinh giỏi đều cao hơn những năm học
trước.
<b>10.1 Kết quả thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo</b>
<b>ý kiến của tác giả:</b>
Sau khi áp dụng sáng kiến trên tôi nhận thấy học sinh có hứng thú học và
làm bài hơn khi các em bắt gặp các đề văn dạng so sánh văn học. Vì thế chất lượng
học văn của các em cao hơn đặc biết là chất lượng học sinh đi thi học sinh giỏi môn
ngữ văn đều cao hơn so với các năm học trước đó.
Kết quả HS đại trà
Năm học TSHSKS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
2016-2017
72 7 9.7 32 44.6 29 40.2 04 5.5
3/2017-11/2017
72 9 12.5 33 51.0 28 33.8 2 2.7
<i>Bảng 2: Bảng thống kê khảo sát HS sau khi triển khai chuyên đề</i>
Trong các giờ học, HS hứng thú, sôi nổi hơn.
<b>10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp áp dụng</b>
<b>sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:</b>
<b> Tổ KHXH của trường sau khi nghe báo cáo kết quả sáng kiến đánh giá nhận</b>
như sau:
Sáng kiến đã tập trung những giải pháp cơ bản để giúp học sinh nắm được
những cách thức khi tiến hành làm một bài văn nghị luận dạng so sánh văn học.
Sáng kiến đặc biệt có tác dụng khi dạy học sinh giỏi lớp 9. Áp dụng sáng kiến chắc
chắn sẽ nâng cao chất lượng cảm thụ văn đặc biệt là chất lượng bồi dưỡng học sinh
giỏi.
<b> 11. Danh sách các tổ chức cá nhân đã tham gia áp dụng thử nghiệm hoặc áp dụng</b>
sáng kiến khinh nghiệm lần đầu:
STT Tên tổ chức/ cá nhân Địa chỉ Phạm vi/ Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến.
1 Học sinh lớp 9
Trường THCS
…………..- Vĩnh
Tường- Vĩnh Phúc.
Giờ Luyện đề các
buổi học ngoại
khóa.
Giờ học bồi đội
tuyển học sinh
giỏi.
<b>Thủ trưởng đơn vị</b>
<b>Người viết sáng kiến</b>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>
STT Tên tài liệu Tên tác giả, nhóm tác giả
1. Nâng cao Ngữ văn 9 Tạ Đức Hiền… ( Nxb Hà Nội)
2. Bồi dưỡng Ngữ văn 9 Thái Quang Vinh ( Nxb GD)
3. Một số kiến thức - kĩ năng và bài
tập nâng cao Ngữ văn 9
Nguyễn Thị Mai Hoa, Đinh Chí Sáng
( Nxb GD)
4. 100 bài làm văn hay lớp 9 Lê Xuân Soạn…( Nxb GD)
5. Tuyển chọn đề thi học sinh giỏi
THCS môn Ngữ văn
Lã Minh Luận.. ( Nxb ĐHSP)
6. Tuyển chọn đề thi tuyển sinh vào 10
chuyên môn Ngữ văn
Lã Minh Luận..( Nxb ĐHSP)
7. Lý luận văn học Hà Minh Đức ( Nxb GD)
8. Sách giáo khoa, SGV ngữ văn 9 Nxb GD