Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.73 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>BÁO CÁO KẾT QUẢ</b>
<b>NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN</b>
<b>1. Lời giới thiệu</b>
Tiểu học được coi là cấp học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình
thành, phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo
dục phổ thông và hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục tiểu học nhằm tạo cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm my
và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lớp trên.
Trong trường tiểu học cùng với các môn học khác, môn Toán có vị trí quan
trọng. Với tư cách là một môn khoa học, Toán học nghiên cứu một số mặt của thế
giới khách quan, có khả năng phát triển tư duy logic, bồi dưỡng và phát triển
những thao tác trí tuệ cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực. Nó có vai trò to lớn
trong việc rèn luyện suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học, toàn
diện, chính xác, phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, linh hoạt sáng tạo của
con người. Những tri thức toán học, những kĩ năng toán học cùng các phương pháp
toán học đã trở thành công cụ để học tốt những môn học khác. Kĩ năng tính toán,
vẽ hình, ước lượng và sử dụng công cụ toán học có nhiều ứng dụng trong khoa học
và trong thực tiễn; đồng thời phát triển tư duy và nhân cách của học sinh. Đó là
đức cần cù, cẩn thận, sự sáng sạo, có nề nếp và tác phong khoa học. Đó còn là khả
năng phát hiện, tìm tòi và tự chiếm lĩnh tri thức, sự tự tin và hứng thú cao trong
thực hành toán.
phải biết chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Việc
giải đúng một bài toán lời văn là sự vận dụng tổng hợp các kiến thức, kĩ năng.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2, tôi nhận thấy giải toán có lời văn
có vị trí rất quan trọng trong chương trình học và đặc biệt dạy học theo mô hình
trường tiểu học mới. Các em được làm quen với toán có lời văn ngay từ đầu năm
giải thành thạo, chính xác các dạng bài tập của toán lời văn trong chương trình học,
tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm về: “<i>Rèn kĩ năng giải tốn có lời văn cho học</i>
<i>sinh lớp 2</i>” nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh lớp 2D nói
riêng và chất lượng học tập khối 2 của nhà trường theo mô hình trường tiểu học
mới nói chung.
Với mong muốn sáng kiến sẽ mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy nhưng
do kiến thức, phương pháp áp dụng còn nhiều hạn chế nên chắc chắn không tránh
khỏi thiếu sót. Tôi luôn mong nhận được sự đóng góp ý kiến để sáng kiến được
đầy đủ, hoàn thiện hơn và được áp dụng trong phạm vi rộng hơn.
<b>2. Tên sáng kiến: Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2.</b>
<b>3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Vũ Thị Hiệp.</b>
<b>4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến</b>
Sáng kiến được áp dụng trong giảng dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 2D
và áp dụng rộng rãi đối với học sinh khối 2 trong trường, có thể áp dụng để bồi
dưỡng học sinh năng khiếu khối lớp 2.
<b>5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử</b>
Sáng kiến bắt đầu được áp dụng thử ngày 1 tháng 10 năm 2016.
<b>6. Mô tả bản chất của sáng kiến </b>
<b>6.1. Nội dung của sáng kiến</b>
Nhận thức được tầm quan trọng của giải toán có lời văn, thấy được những
khó khăn của học sinh lớp 2 khi giải toán qua thực tế lớp được phân công giảng
dạy và qua trò chuyện cùng đồng nghiệp, tôi đã ra một đề toán là các bài tập cơ bản
nhất để nắm bắt được ưu, khuyết điểm của các em. Tôi chọn học sinh khối 2 của
trường Tiểu học Hướng Đạo cụ thể là lớp 2A, 2B, 2C, 2E để làm bài thử nghiệm.
Đề kiểm tra có nội dung như sau:
Câu 1 (2 điểm): Tổ một gấp được 15 cái thuyền, tổ hai gấp được 23 cái thuyền. Hỏi
cả hai tổ gấp được bao nhiêu cái thuyền?
Câu 3 (3 điểm): Bình có 15 bông hoa, Tú có nhiều hơn Bình 20 bông hoa. Hỏi Tú
có bao nhiêu bông hoa?
Câu 4 (3 điểm): Năm nay Hòa 15 tuổi và nhiều hơn em gái 5 tuổi. Hỏi năm nay em
Với đề bài trên tôi thu được kết quả như sau:
Lớp Số lượng
học sinh
Nội dung
điều tra
Kết quả điều tra
Hoàn thành Chưa hoàn thành
SL % SL %
2A 34 Kiến thức,
Kĩ năng 28 82,3 6 17,7
2B 34 Kiến thức,
Kĩ năng 27 79,4 7 20,6
2C 34 Kiến thức,
Kĩ năng 28 82,3 6 17,7
2D 35 Kiến thức,
Kĩ năng 30 85,7 5 14,3
2E 34 Kiến thức,
Kĩ năng 26 76,5 8 23,5
Từ kết quả trên, tôi nhận thấy còn tồn tại một số điểm sau:
+ Học sinh tiếp cận với toán có lời văn còn bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn. Các
em chưa nắm được phương pháp giải theo từng dạng bài khác nhau.
+ Học sinh chưa khắc sâu được những kiến thức cơ bản của bài toán và chưa
có được kĩ năng phân tích, nhận dạng khi gặp các bài toán khác nhau. Khả năng
suy luận khi phân tích đề và tìm cách giải các bài toán còn hạn chế. Trong quá
trình giải toán học sinh còn nhầm lẫn giữa việc xác lập mối quan hệ giữa các dữ
liệu; giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán. Học sinh còn
lúng túng khi chọn phép tính thích hợp, trả lời chưa rõ ràng câu hỏi của bài toán.
+ Học sinh trình bày lời giải bài toán không chặt chẽ, thiếu lôgic. Phần đáp
số chưa ghi đầy đủ đơn vị theo yêu cầu của bài toán.
pháp của mình trong việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 với
các nội dung cụ thể như sau:
<b>6.1.1. Nắm bắt nội dung chương trình và phương pháp dạy học</b>
Người giáo viên muốn dạy tốt phải nắm chắc nội dung chương trình và đặc
trưng của môn Toán lớp 2; nhận thức được mạch kiến thức nào là trọng tâm nhất
để thường xuyên ôn luyện cho học sinh, chuẩn bị tốt các phương tiện, các đồ dùng
cần thiết cho tiết học. Luôn chọn cho mình phương pháp dạy phù hợp nhất cho
Để giúp học sinh có kĩ năng trong việc giải toán có lời văn, giáo viên không
những hướng dẫn các em trong giờ học toán khi các em yêu cầu cứu trợ mà còn
luyện cho các em kĩ năng nói trong các tiết học ở môn Tiếng Việt.
Do học sinh lớp 2 còn nhỏ, các em còn rụt rè, chưa tự tin trong giao tiếp nên
khi dạy chương trình trường tiểu học mới, các em được hoà đồng, học hỏi cùng
bạn bè và mạnh dạn đưa thẻ cứu trợ khi chưa làm được bài. Giáo viên gần gũi với
học sinh, khuyến khích các em trong giao tiếp, tổ chức các trò chơi để các em
luyện nói nhằm phát triển ngôn ngữ, tạo sự mạnh dạn, tự tin cho các em. Bên cạnh
đó, người giáo viên phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc và phần tìm hiểu bài của
phân môn Tiếng Việt để từ đó các em có kĩ năng phán đoán yêu cầu cơ bản mà bài
tập toán đề ra.
<b>6.1.2.2. Giúp học sinh nắm được trình tự của việc giải một bài tốn có lời văn</b>
a) Tìm hiểu nội dung bài toán: Đọc đề, tìm hiểu và phân tích đề bài.
Chẳng hạn “Thùng cam có 34 quả, thùng quýt có 53 quả. Hỏi hai thùng
có tất cả bao nhiêu quả cam và quýt?” (bài 8, tr19 – SHDH).
Hay: “Bạn Hùng cao 95cm, bạn Hoa thấp hơn bạn Hùng 5cm. Hỏi bạn
Hoa cao bao nhiêu xăng-ti-mét?” (bài 2a, tr55, SHDH) ...
Mỗi học sinh trong nhóm cần đọc nhẩm nhiều lần đề toán đã cho. Cần
dùng bút chì gạch chân hoặc ghi vào vở nháp những điều kiện đã biết và cái
phải tìm.
Ví dụ: Thùng thứ nhất có 16l dầu, thùng thứ hai có nhiều hơn thùng thứ nhất 3l
dầu. Hỏi thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu?
+ Học sinh đọc đề, tìm hiểu và có thể gạch chân như trên. Sau đó học sinh
có thể nêu được (các em tự hỏi đáp nhau)
* Bài toán cho biết gì? (Thùng thứ nhất có16l dầu, thùng thứ hai có nhiều hơn
thùng thứ nhất 3l dầu)
* Bài toán hỏi gì? (thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu?)
+ Cho học sinh phân tích ngược:
* Bài toán hỏi gì? (thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu?)
* Bài toán cho biết gì? (Thùng thứ nhất có16l dầu, thùng thứ hai có nhiều hơn
thùng thứ nhất 3l dầu)
Giáo viên cũng nên hướng dẫn học sinh chọn hình thức tóm tắt sao cho phù hợp
với yêu cầu bài toán. Có thể chọ cách tóm tắt bằng lời hay bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Chẳng hạn: Trong bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn”, giáo viên nên hướng
dẫn các em chọn cách tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng để nhận thấy rõ mối quan hệ
“nhiều hơn”, “ít hơn”, từ đó lựa chọn phép tính giải dễ dàng và không nhầm lẫn
(giữa cộng và trừ)
Ví dụ: (Bài 4, tr88, SHDH Toán 2, tập 1B)
46l
a) Thùng bé: 24l
? l
32kg
b) Bao gạo:
Bao ngô 5kg
? kg
Còn đối với các bài toán đơn “mô tả” ý nghĩa thực tiễn của các phép tính
nhân hay chia nên hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng lời để nhận rõ “giải thiết, kết
luận” của bài toán, các con số được viết tương ứng như là “đặt tính” dọc, giúp học
sinh dễ nhẩm ra đáp số một cách chính xác nhất.
Ví dụ: Mỗi xe ô tô có 4 bánh xe. Hỏi 7 xe ô tô như thế có bao nhiêu bánh
xe? (Bài 2, tr19, SHDH Toán 2, tập 2A) nên hướng dẫn các em tóm tắt:
1 xe: 4 bánh
7 xe: .... bánh?
Hay trong ví dụ: Có 8 quyển vở, chia đều cho 2 bạn. Hỏi mỗi bạn được mấy
quyển? (Bài 2, tr40, SHDH Toán 2, tập 2A) nên hướng dẫn các em tóm tắt:
2 bạn: 8 quyển
1 bạn:...quyển?
b) Tìm cách giải toán
* Chọn phép tính giải thích hợp
- Sau khi các em đã xác định được đề toán như cái gì đã cho và cái gì phải
tìm cần giúp học sinh chọn phép tính thích hợp: Chọn phép cộng nếu bài toán yêu
cầu: “Nhiều hơn” hoặc “gộp”, “Tất cả”. Chọn phép trừ nếu đề toán ra là “bớt”
hoặc “tìm phần còn lại” “ngắn hơn” hay là “ít hơn” “trong đó”, “cắt đi”. Chọn
phép tính nhân trong các bài tìm tích, phép tính chia trong các bài chia thành các
phần bằng nhau hay chia thành các nhóm với các từ ngữ nhận diện như “xếp đều”,
“chia đều”...
- Lập kế hoạch giải toán nhằm xác định trình tự giải quyết, thực hiện phép tính.
Từ tóm tắt đề toán, một lần nữa cho học sinh nắm lại mối liên hệ giữa đề
toán đã cho và cái cần tìm.
Trong lớp giáo viên phải quan sát, nếu có một nhóm đưa thẻ cứu trợ thì ta
đến nhóm đó để hướng dẫn. Trường hợp nếu có nhiều nhóm cùng đưa thẻ cứu trợ
thì giáo viên nên cho các em cùng quay mặt lên bảng để giáo viên hướng dẫn.
* Hướng dẫn cho học sinh suy luận từ câu hỏi bài toán đến dữ kiện đã cho.
+ Bài toán hỏi gì? (thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu).
+ Trong đó dữ kiện nào đã biết? (thùng thứ nhất có 16l dầu)
+ Đề bài cho biết thùng thứ hai như thế nào so với thùng thứ nhất? (thùng thứ
hai có nhiều hơn thùng thứ nhất 3l dầu)
+ Vậy muốn biết thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu ta thực hiện phép tính
gì? (Thực hiện phép tính cộng: 16 + 3 = 19)
* Cách khác: Học sinh chọn và nêu phép tính sau đó nêu lời giải.
+ Vậy kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không? (Đó là đáp số
của bài toán).
c) Thực hiện cách giải quyết bài toán
- Quá trình tìm cách giải quyết, học sinh tự trình bày bài giải của mình có
thể làm vở ô li, vở nháp.
- Giáo viên có thể lựa chọn nội dung thật tinh giản, xác định rõ các kiến thức
cơ bản, các thuật ngữ quan trọng trong bài, lời giải thích phải ngắn gọn, nhấn mạnh
các chỗ cần thiết, minh họa bằng nhiều ví dụ quen thuộc.
- Sau khi đã hướng dẫn, giáo viên cho các nhóm làm bài vào vở. Bài toán
này có một phép tính nhưng có thể có nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù hợp.
Việc cho học sinh tự tìm nhiều lời giải khác nhau có tác dụng lớn trong việc gây
hứng thú cho học sinh, thúc đẩy các cố gắng tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện óc suy
nghĩ linh hoạt, độc lập.
Học sinh có thể nêu lời giải như sau:
Thùng thứ hai có số lít dầu là (Số lít dầu có trong thùng thứ hai là/ Thùng
thứ hai đựng được số lít dầu là/ Thùng thứ hai chứa được số lít dầu là...)
16 + 3 = 19 (l)
Đáp số: 19l dầu.
<b>Chú ý: Giáo viên cũng nên lưu ý với học sinh khi học về đường gấp khúc và chu</b>
vi hình tam giác, chu vi hình tứ giác, với yêu cầu “tính độ dài đường gấp khúc hoặc
chu vi hình tam giác, chu vi hình tứ giác thì cách trình bày bài giải của các bài toán
Chẳng hạn (bài 2, tr29, SHDH Toán 2, tập 2A):
Một đoạn dây thép được uốn như hình vẽ. Tính độ dài đoạn dây đó.
3cm 3cm
3cm
Bài giải
Độ dài đoạn dây là:
3 + 3 + 3 = 9 (cm)
hay: 3 x 3 = 9 (cm)
Đáp số: 9cm
d) Kiểm tra cách giải bài toán
- Với kết quả bài toán trên có thể hướng dẫn học sinh kiểm tra bằng cách so
sánh số lít dầu của thùng thứ nhất so với thùng thứ hai: 16 lít dầu ít hơn 19 lít dầu.
Tóm lại: Đối với mỗi bài toán, học sinh cần đọc thật kĩ đề bài, tìm hiểu đặc
điểm của bài toán: các dữ kiện đã có và vấn đề cần tìm (các dữ kiện là cái đã cho, đã
biết trong bài; những ẩn số là những cái chưa biết mà ta cần phải tìm; những điều
kiện là các mối quan hệ đã cho giữa các dữ kiện và ẩn số). Sau đó tóm tắt đề toán
bằng sơ đồ minh họa hoặc bằng lời. Rồi tự suy nghĩ hoặc thảo luận theo cặp, nhóm
để tìm ra hướng giải quyết bài toán, lựa chọn cách giải hay nhất, phù hợp nhất.
- Khi giải xong cần kiểm tra thử lại kết quả có đúng và phù hợp không?
- Khuyến khích học sinh tự đánh giá bài làm của mình, của bạn để khắc sâu
kiến thức.
- Đối với bài toán khó học sinh cần phải đọc đi, đọc lại nhiều lần, cố gắng
suy nghĩ tìm ra cách giải cho phù hợp.
e) Ngoài các việc làm nói trên, giáo viên có thể khuyến khích, hướng dẫn học sinh
tự lập đề toán trong các giờ học buổi hai. Làm được như vậy vừa giúp các em phát
triển tư duy độc lập, vừa giúp các em phát triển linh hoạt, sáng tạo của tư duy. Hơn
nữa, cho các em tự lập đề toán còn gây hứng thú học tập, làm cho các em nắm
vững hơn cấu trúc, cách giải của bài toán, tạo điều kiện gắn với cuộc sống vì các
em phải tìm hiểu đời sống, chọn số liệu trong đời sống để đặt đề cho phù hợp, tự
mình nêu và giải quyết vấn đề đó. Khi các em đã tự mình đặt được đề toán cho bản
thân cũng là bước đánh dấu các em đã nắm vững dạng toán đó.
Với học sinh lớp 2, tôi thiết nghĩ có thể cho các em tự lập đề toán theo các
bước từ dễ đến khó như:
- Đưa bài toán thiếu số liệu, học sinh tự tìm số liệu, điền vào chỗ chấm và
giải bài toán đó.
Ví dụ: Hiện nay, Nam 9 tuổi, bố nhiều hơn Nam...tuổi. Hỏi hiện nay bố
Nam bao nhiêu tuổi?
+ Một phép tính
+ Hai phép tính (nhằm phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu).
- Cho học sinh tự lập đề toán theo sơ đồ đoạn thẳng hoặc tóm tắt bằng lời:
Ví dụ: Đặt đề toán sau rồi giải bài toán:
1 cháu: 5 chiếc kẹo
5 cháu:...chiếc kẹo?
hay: 35l
Thùng bé: 18l ? lít
Thùng to:
- Cho học sinh lập đề toán theo các dạng toán đã học.
Ví dụ: Lập một đề toán có dạng “bài toán về nhiều hơn” (trong trường hợp
giải bằng phép tính cộng/phép tính trừ)
Hay: Lập một bài toán có lời văn vận dụng bảng nhân 3 trong giải toán.
Hay: Lập một bài toán tính tuổi của bố (hoặc mẹ em) rồi giải bài toán.
- Cho học sinh lập đề toán tương tự rồi giải bài toán với dạng toán vừa học.
Ví dụ: Có 9 quả bóng xếp đều vào 3 giỏ. Hỏi mỗi giỏ có mấy quả bóng?
Đặt một đề toán tương tự như trên rồi giải bài toán.
- Hoặc cho học sinh tự lập một đề toán theo cách giải đã cho sẵn (dạng bài
này đôi khi được sử dụng trong phần hoạt động ứng dụng trong Sách hướng dẫn
học Toán 2)
Ví dụ: Lập một đề toán có cách giải sau:
* 3 x 8 = 24 (học sinh)
*30 : 5 = 6 (chiếc thuyền)
<b>6.1.2.3. Rèn cho học sinh những thói quen cần thiết trong q trình học tập</b>
<b>mơn Toán</b>
- Rèn cho học sinh tính cẩn thận, chu đáo trong học tập như: Trước khi làm bài
phải nháp, nếu không hiểu thì nên chia sẻ với nhóm trưởng hoặc các bạn khác trong
nhóm.
- Khi thấy đúng mới chép vào vở.
- Yêu cầu học sinh ở từng nhóm phải viết chữ và số trong phép tính rõ ràng.
Trình bày bài giải toán có lời văn đúng, đẹp.
- Diễn đạt lời văn phải chính xác, cụ thể. Tạo cho học sinh tính mạnh dạn để
trao đổi ý kiến trong nhóm hoặc toàn lớp vì sự hỗ trợ giữa các học sinh trong
nhóm, lớp, góp phần làm các em mạnh dạn hơn hiểu bài sâu bài hơn. Giúp học sinh
tự tin hơn vào khả năng của bản thân, tự rút kinh nghiệm về cách học của mình bản
thân mình.Sau khi làm xong bài tập cho các em tự kiểm tra, đánh giá và sửa chữa
bài làm của mình trước khi nộp bài.
- Cần rèn ý chí vượt khó cho các em khi làm bài. Khi giải toán gặp các bài
toán khó, giáo viên cần giúp các em có sự tự tin, không nên nản lòng. Khuyến
khích các em tự lực làm bài, tìm tòi hướng giải quyết để đạt được kết quả cao
trong học tập.
<b>6.1.2.4. Các biện pháp khác giúp học sinh giải toán có lời văn</b>
- Dạy học theo mơ hình trường tiểu học mới đòi hỏi người giáo viên khi chia
nhóm cần chia đủ các đối tượng nhận thức ở các mức độ một, hai, ba, thậm chí là
bốn vào từng nhóm. Khi học tập, làm việc theo nhóm, học sinh thường mạnh dạn
- Giáo viên cần động viên, tuyên dương kịp thời khi đến từng nhóm kiểm tra
để học sinh có sự hứng thú trong học tập. Nhất là các học sinh nhận thức chậm.
Giáo viên phải theo dõi nhận xét, bổ sung khuyến khích, khen các em khi các em
trả lời đúng.
hỏi dưới những hình thức khác nhau để giúp học sinh nắm vững kiến thức và linh
hoạt trong suy nghĩ.
- Tổ chức học sinh nhận thức tốt trong nhóm thường xuyên giúp đỡ các bạn
nhận thức chậm nếu các bạn có yêu cầu về phương pháp vận dụng kiến thức.
- Tổ chức kèm cặp, phụ đạo trong điều kiện thời gian quy định một số buổi
hai trong ngày. Trong các buổi này chủ yếu là việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy
trên lớp, nếu cần ôn tập, củng cố kiến thức để các em nắm vững chắc hơn.
- Phân tích cụ thể bài làm chưa đúng và hướng dẫn phương pháp giải để các em
nắm chắc cách làm. Cho thêm bài vận dụng để học sinh nắm rõ cách làm hơn.
- Cải tiến giảng dạy sao cho sát đối tượng, nói chuyện riêng và giải thích thêm
cho các học sinh trong từng nhóm để học sinh lĩnh hội được nội dung cơ bản của bài
học.
- Cần hướng dẫn cụ thể khi kiểm tra từng nhóm. Giáo viên yêu cầu học sinh
trình bày cách giải hay câu trả lời bằng cách diễn đạt của mình, không nhất thiết
phải lắp nguyên văn theo sách.
- Củng cố kiến thức dưới các hình thức tổ chức trò chơi, tạo sự vui vẻ, hứng
thú trong học tập và khắc sâu kiến thức đã học.
Bên cạnh đó người giáo viên cần phải:
+ Người giáo viên rèn thường xuyên kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn
Tiếng Việt. Luyện kĩ năng hỏi - đáp để các em có vốn từ lưu loát hơn.
+ Người giáo viên kiên trì uốn nắn học sinh trong mọi lúc trong giờ học.
+ Nghiên cứu kĩ SHDH, lập kế hoạch cụ thể cho từng tiết. Trong tiết dạy
phải kiên trì giúp đỡ từng em, biết cách gợi mở và nâng cao tri thức mỗi em.
+ Người giáo viên lên lớp phải có tác phong nhẹ nhàng, giọng nói, lời giảng
rõ ràng, dễ hiểu cũng giúp cho học sinh tiếp thu nhanh và làm bài tốt hơn.
<b>6.2. Về khả năng áp dụng sáng kiến</b>
toán khác nhau. Các em biết đọc và tìm hiểu kĩ bài toán, biết tóm tắt, trình bày bài
giải và kiểm tra bài giải một cách thành thạo, chắc chắn. Từ đó, các em rèn được
khả năng diễn đạt và giải thích cách làm bài của mình một cách chính xác, các em
đã mạnh dạn, tự tin và chủ động hơn khi học toán.
Qua những kết quả đạt được khi áp dụng sáng kiến vào trong thực tế giảng dạy
tôi nhận thấy rằng việc áp dụng sáng kiến vào trong thực tế là hết sức cần thiết để
nâng cao chất lượng giải toán có lời văn ở lớp 2 theo mô hình dạy học trường tiểu học
mới.
<b>7. Những thông tin cần được bảo mật: Không</b>
<b>8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Khơng</b>
<b>9.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng</b>
<b>kiến theo ý kiến của tác giả.</b>
Nhận thấy sự chuyển biến tích cực của học sinh trong các giờ học sau khi áp
dụng các biện pháp nêu trên, tôi tiến hành thử nghiệm với học sinh khối 2 của
trường Tiểu học Hướng Đạo gồm các lớp 2A, 2B, 2C, 2D, 2E.
Đề kiểm tra có nội dung như sau:
Câu 1(2 điểm): Minh cao 9dm, Minh thấp hơn Phong 5cm. Hỏi Phong cao bao
nhiêu xăng-ti-mét?
Câu 2 (2 điểm): Liên cân nặng 35kg và nặng hơn Loan 8kg. Hỏi Loan cân nặng
bao nhiêu ki-lô-gam?
Câu 3 (3 điểm): Mỗi xe ô tô có 4 bánh. Hỏi 7 ô tô như thế có bao nhiêu bánh xe?
Câu 4 (3 điểm): Trên bãi cỏ Tuấn đếm thấy có 16 cái chân trâu. Hỏi có bao nhiêu
con trâu?
Với đề bài trên tôi thu được kết quả như sau:
Lớp Số lượng
học sinh
Nội dung
điều tra
Kết quả điều tra
Hoàn thành Chưa hoàn thành
SL % SL %
2A 34 Kiến thức,
Kĩ năng 31 91,7 3 8,3
Kĩ năng
2C 34 Kiến thức,
Kĩ năng 30 88,2 3 11,8
2D 35 Kiến thức,
Kĩ năng 33 94,3 2 5,7
2E 34 Kiến thức,
Kĩ năng 29 85,3 5 14,7
Từ bài làm của học sinh, tôi nhận thấy chất lượng môn Toán của học sinh
lớp 2 trong giải có lời văn đã nâng lên rõ rệt so với đầu năm.
Học sinh khắc sâu được những kiến thức cơ bản của bài toán và rèn luyện
được kĩ năng phân tích, nhận dạng khi gặp các bài toán khác nhau. Có khả năng
vận dụng các kiến thức cơ bản đó để giải tốt các bài toán có lời văn theo từng dạng
bài học. Kĩ năng trình bày bài tốt, chữ viết cẩn thận, sạch sẽ hơn.
Học sinh thích thú với những tiết học toán hơn vì các em đã biết tiếp cận bài
toán một cách khoa học, toàn diện hơn.
Học sinh làm bài chất lượng của môn Toán tăng lên qua từng giai đoạn, kể
cả học sinh nhận thức chậm. Các em đã nắm được cách trình bày một bài toán có
lời văn trong chương trình, tuy không đòi hỏi mức độ cao ở các em song cũng đủ
đảm bảo để các em đạt các yêu cầu cơ bản của môn học. Đó là cơ sở để các em
bước vào lớp kế tiếp mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Nhờ việc áp dụng một cách có hiệu
quả trong quá trình giảng dạy mà thành tích học tập của các em học sinh trong năm
học nhất là trong học kì I vừa qua được nâng lên rõ rệt.
<b>9.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng</b>
<b>kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân.</b>
<b>10. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu</b>
<b>Số TT</b> <b>Tên tổ chức/</b>
<b>cá nhân</b>
<b>Địa chỉ</b> <b>Phạm vi/Lĩnh</b>
<b>vực</b>
<b>áp dụng sáng</b>
1 Nguyễn Thị Nga Giáo viên dạy
lớp 2A, trường
TH Hướng Đạo
Môn Toán 2
2 Vương Trung
Anh
Giáo viên dạy
lớp 2B, trường
TH Hướng Đạo
Môn Toán 2
3 Lê Thị Ánh Giáo viên dạy
lớp 2C, trường
TH Hướng Đạo
Môn Toán 2
4 Vũ Thị Hiệp Giáo viên dạy
lớp 2D, trường
TH Hướng Đạo
Môn Toán 2
5 Trần Thị Ngọc Giáo viên dạy
lớp 2E, trường
TH Hướng Đạo
Môn Toán 2
<i>Hướng Đạo,</i>
<i>ngày... tháng</i>
<i>2 năm 2017</i>
<b> THỦ</b>
<b>TRƯỞNG</b>
<b>ĐƠN VỊ</b>
<b>Hoàng Thị</b>
<b>Kiều</b>
<i> </i>
<i>Hướng Đạo, ngày 20 tháng 2 năm 2017</i>
<b>TÁC GIẢ SÁNG KIẾN</b>
<i> </i>
<b> Vũ Thị Hiệp</b>