Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

“Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học lịch sử dân tộc cho học sinh lớp 12 Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.32 KB, 38 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

MỤC LỤC


<b>MỞ ĐẦU...4</b>


1. Lý do chọn đề tài...4


2. Mục đích nghiên cứu...5


3. Nhiệm vụ nghiên cứu...5


4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu...5


5. Phạm vi nghiên cứu...6


6. Phương pháp nghiên cứu...6


7. Cấu trúc của SKKN...6


<b>NỘI DUNG...7</b>


<b>Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN...7</b>


1.1. Cơ sở lý luận...7


1.1.1. Lý luận chung...7


1.1.2. Khái quát về chương trình lịch sử dân tộc (lịch sử Việt Nam) lớp 12- Ban
cơ bản...7


1.2. Cơ sở thực tiễn...8



1.2.1.Thực tiễn dạy – học lịch sử ở trường phổ thông...8


1.2.2. Thực tiễn dạy học ở Trung tâm GDTX & DN Tam Đảo...10


<b>Chương 2. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY </b>
<b>HỌC TRONG PHẦN LỊCH SỬ DÂN TỘC LỚP 12 Ở TRUNG TÂM </b>
<b>GDTX&DN TAM ĐẢO ĐẠT HIỆU QUẢ...13</b>


2.1. Giải pháp cũ...13


2.2. Giải pháp mới...15


2.2.1. Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin...15


2.2.1.1. Ứng dụng công nghệ thông tin để tường thuật diễn biến một sự kiện lịch
sử...16


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

2.2.1.3. Ứng dụng cơng nghệ thơng tin để tìm hiểu tài liệu tham khảo...22


2.2.1.4. Ứng dụng cơng nghệ thơng tin để tìm hiểu hình ảnh lịch sử...25


2.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm...25


2.2.3. Sử dụng yếu tố văn thơ trong dạy học lịch sử...27


2.2.3.1. Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh họa những
sự kiện đang học...27


2.2.3.2. Dùng một đoạn trích để cụ thể hố sự kiện, nêu ra một kết luận khái
quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kỳ, một sự kiện lịch sử...30



2.2.3.3. Sử dụng tài liệu văn học trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của học sinh...32


2.2.4. Sử dụng yếu tố âm nhạc trong dạy học lịch sử...33


2.3. Kết quả...34


<b>KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...35</b>


1. Kết luận...35


2. Kiến nghị...35


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT</b>


- HS: Học sinh
- GV: Giáo viên


- THPT: Trung học phổ thông
- GDTX: Giáo dục thường xuyên


- GDTX&DN: Giáo dục thường xuyên và dạy nghề


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>1. Lý do chọn đề tài</b>


Tầm quan trọng của giáo dục nhân tài đối với sự hưng thịnh của đất nước
đã được dân tộc ta đặc biệt chú trọng từ thời phong kiến, nhất là dưới thời Lê
sơ (thế kỷ XV). Trên tấm bia Tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu Quốc Tử
Giám ghi lại dịng chữ: “… Hiền tài là ngun khí của quốc gia, ngun khí


thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, ngun khí suy thì thế nước yếu mà
thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc
giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng ngun khí quốc gia làm cơng
việc cần thiết…” (Tiến sĩ triều Lê, Thân Nhân Trung). Và để giáo dục một
con người trở thành “hiền tài” của quốc gia thì vai trị của bộ mơn lịch sử
cũng góp một phần đáng kể.


Lịch sử là một trong những môn khoa học rất quan trọng, vì mơn Lịch sử
giúp các em biết được quá trình phát triển của lịch sử lồi người, nhất là biết
được q trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua bốn nghìn năm lịch sử.
Đó là một q trình lao động cần cù, sáng tạo và chiến đấu lâu dài, gian khổ, hi
sinh của các thế hệ người Việt Nam. Qua việc học lịch sử, giúp các em hiểu
được giá trị của cuộc sống và bồi dưỡng cho các em lòng tự hào dân tộc, sự biết
ơn những người có cơng với nước, từ đó các em ý thức được trách nhiệm của
mình đối với cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học lịch sử dân</i>
<i>tộc cho học sinh lớp 12 Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo” làm đề tài nghiên cứu</i>
của mình năm nay.


<b>2. Mục đích nghiên cứu</b>


Nhằm góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn
lịch sử trong trường phổ thông, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kì hội
nhập, đổi mới dạy học lịch sử trở thành một yêu cầu cấp thiết góp phần thay
đổi nhận thức của xã hội về vị trí cũng như tầm quan trọng của bộ môn lịch sử
đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Tuy nhiên, với việc lạm dụng những phương
tiện dạy học hiện đại một cách quá mức không những không tăng thêm hiệu
quả cho bài học mà còn làm giảm sút chất lượng dạy học lịch sử. Giáo viên
nên kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong một bài học sẽ làm thay đổi


được tâm lí, tạo sự bất ngờ, khơng làm cho học sinh bị nhàm chán.


<b>3. Nhiệm vụ nghiên cứu</b>


Phải nêu được thực trạng học lịch sử của học sinh hiện nay là gì. Sau đó sẽ
đưa ra giải pháp mới – sử dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, làm việc
nhóm, sử dụng tài liệu văn học, âm nhạc trong dạy và học lịch sử. Qua từng bài
giảng, giáo viên sẽ đưa những mẩu chuyện, những đoạn văn thơ (đã chọn lọc)
vào bài học để minh họa làm rõ, sinh động hơn nội dung truyền đạt cho học sinh


Cuối cùng ta thấy được hiệu quả khi sử dụng giải pháp mới bằng bảng số
liệu về kết quả học tập của học sinh học lịch sử có tăng lên.


<b>4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu</b>


- Học sinh Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo khối 12.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>5. Phạm vi nghiên cứu</b>


- Soạn giảng bộ môn Lịch sử khối 12 theo chuẩn Kiến thức kỹ năng được điều
chỉnh giảm tải trong năm học 2011 – 2012.


- Cụ thể là học sinh lớp 12A, 12B (năm học 2016 - 2017)
<b>6. Phương pháp nghiên cứu</b>


- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Tơi sử dụng phương pháp này theo hướng
sưu tầm tìm đọc các tài liệu liên quan để phục vụ cho việc xây dựng cơ sở lí luận
của đề tài.


- Phương pháp thực nghiệm: Tôi tiến hành dạy lớp 12A có sử dụng tài liệu văn


học trong q trình giảng, lớp 12B sử dụng phương pháp dạy truyền thống, sau
đó cho làm bài kiểm tra 15 phút và bài một tiết.


- Qua dữ liệu kết quả thu thập được trước và sau khi sử dụng các phương pháp
gây hứng thú cho học sinh để minh họa làm sinh động bài học giữa 2 lớp 12A
và 12B, để thấy được hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp gây hứng thú
cho học sinh trong dạy học lịch sử.


<b>7. Cấu trúc của SKKN</b>


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 2 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>NỘI DUNG</b>
<b>Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN </b>
<b>1.1. Cơ sở lý luận</b>


<i><b>1.1.1. Lý luận chung</b></i>


Môn lịch sử ở trường phổ thơng nhằm giúp học sinh có được những kiến
thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình
thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất
nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành
động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy phương pháp
dạy học mơn Lịch sử rất phong phú, đa dạng, bao gồm các phương pháp hiện
đại (thảo luận nhóm, đóng vai...) và các phương pháp truyền thống (trực quan,
kể chuyện...). Để việc dạy học có hiệu quả, người giáo viên phải biết lựa chọn
các phương pháp phù hợp với bài học, với đối tượng học sinh nhằm tạo cho
học sinh hứng thú học tập.



Theo luật giáo dục Việt Nam, "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tư duy, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tư tưởng tình cảm đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh"


<i><b>1.1.2. Khái quát về chương trình lịch sử dân tộc (lịch sử Việt Nam) lớp 12- </b></i>
<i><b>Ban cơ bản</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Mỗi sự kiện là mốc đánh dấu
một thời kỳ phát triển của lịch sử dân tộc.


Tiến trình lịch sử cách mạng đầy vẻ vang đó cũng luôn gắn liền với một
thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền văn học cách mạng. Những chiến công
Lịch sử hào hùng của dân tộc chính là mảnh đất màu mỡ ươm mầm những tác
phẩm bất hủ. Văn học gắn liền với Lịch sử, mỗi nhà văn, nhà thơ là một chiến
sĩ hăng hái trên mặt trận văn hoá. Nền văn học cách mạng đã tái hiện rõ nét
hình ảnh lịch sử oanh liệt của dân tộc trong thế kỷ XX.


<b>1.2. Cơ sở thực tiễn</b>


<i><b>1.2.1 .Thực tiễn dạy – học lịch sử ở trường phổ thông </b></i>


Thực tế cho thấy rằng, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội thì chiến lược giáo
dục và đào tạo cũng ln được đẩy mạnh, vai trò của giáo dục ngày càng được
tăng cường, vị trí của các mơn học trong nhà trường ngày càng được nâng cao,
trong đó có bộ mơn Lịch sử. Trong vài năm gần đây, mặc dù còn những hạn chế
nhất định, song chất lượng dạy học lịch sử khơng ngừng được nâng cao, điều đó
thể hiện ở đội ngũ giáo viên và học sinh.



● Về phía giáo viên


Nhìn chung đội ngũ giáo viên giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông hiện
nay được đào tạo và bồi dưỡng một cách cơ bản, đa số họ nhận thức được vị trí
của bộ mơn Lịch sử trong việc giáo dục đạo đức, hình thành thế giới quan cho
học sinh, cũng như việc nắm chắc nội dung, truyền đạt kiến thức của bộ môn. Do
vậy, họ rất tâm huyết và đã có những đầ u tư, chuẩn bị cho bài giảng một cách
chu đáo, tìm những phương pháp dạy học mới, ứng dụng công nghệ thông tin
theo yêu cầu của từng bài học và đã có nhiều tiết “dạy tốt”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

hạn chế, thậm chí nhiều giáo viên không quan tâm đến vấn đề này một cách
đúng mức. Hầu hết, giáo viên chỉ sử dụng công nghệ thông tin vào những tiết
học nào thật cần thiết hoặc các giờ dạy mẫu, tiết học có giáo viên dự giờ, tiết học
hội giảng vào dịp 20 - 11 hàng năm. Đa số giáo viên chỉ dạy những gì có trong
sách giáo khoa theo lối truyền thụ một chiều, ít khi huy động được tính tích cực
học tập của học sinh.


Một số giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về vai trị, ý nghĩa của việc ứng
dụng cơng nghệ thơng tin nói riêng và sử dụng đồ dùng trực quan nói chung để
tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh. Nhiều thầy cơ chưa phát huy được tính tích
cực của học sinh thông qua sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học.


Cuối cùng là việc không dễ dàng thay đổi được lối dạy truyền thống của
một số giáo viên lâu năm, thường xuyên dạy lịch sử theo lối “thầy đọc - trị
chép”. Họ cho rằng ứng dụng cơng nghệ thông tin vào dạy học lịch sử không
mang lại hiệu quả mà cịn làm cho học sinh khơng tập trung ghi chép bài, chỉ chú
ý quan sát những hình ảnh trình chiếu mà thơi.


● Về phía học sinh:



Những năm gần đây, chất lượng và số lượng những học sinh giỏi mơn Lịch
sử trong các kì thi học sinh giỏi các cấp được nâng lên một bước. Tuy nhiên,
thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông những năm gần đây luôn khiến cho
dư luận xã hội và cả những người trong cuộc phải “giật mình”, bởi hàng năm, số
thí sinh tham dự các kì thi có mơn Lịch sử đạt điểm dưới trung bình rất lớn. Tiêu
biểu là kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2009 vừa qua, trong 3 mơn thi
khối C thì mơn Lịch sử tiếp tục ở vị trí “đội sổ”, là mơn có điểm thi thấp nhất. Số
thí sinh điểm thi dưới 5 chiếm tỉ lệ cao, trong đó, số bài có số điểm từ 0 - 2 điểm
khơng phải là ít.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

sinh có cách hiểu sai lệch “dạy lịch sử thật dễ, chỉ cần học thuộc sách giáo khoa
là được”. Đa số học sinh chưa hiểu đúng về vai trị, vị trí của bộ mơn Lịch sử.
Các em vẫn có quan niệm coi mơn Lịch sử là “môn học phụ” nên không tập
trung đầu tư thời gian, sức lực.


Đến nay, ngành giáo dục khơng có văn bản nào quy định mơn lịch sử là
môn phụ, nhưng trong thực tiễn, cách điều hành của khơng ít trường vơ tình làm
cho mơn này trở thành mơn phụ. Điều đó ảnh hưởng tới việc giảng dạy của giáo
viên, việc học của HS và định hướng học tập cho con cái của nhiều phụ huynh.
Ngoài ra, cần phải tính đến yếu tố "đầu ra" liên quan đến mơn học này, điều có
thể khiến nhiều HS e ngại. Thực tế cho thấy những người làm việc ở các ngành
khoa học xã hội - nhân văn nói chung thường có thu nhập khơng cao, ít cơ hội
phát triển hơn so với các ngành được cho là "thời thượng" như kinh tế, tài chính,
ngân hàng. Cơ hội việc làm đối với những sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi
trong các ngành học thuộc khối khoa học xã hội - nhân văn cũng khá chật vật…
<i><b>1.2.2. Thực tiễn dạy học ở Trung tâm GDTX & DN Tam Đảo</b></i>


<i>Thuận lợi:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo


viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Học sinh tham gia tích cực
trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến
thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản thông
qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp… các em
đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách
mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.


<i>Hạn chế:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Điều tra cụ thể:</i>


Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập
bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều
tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra
15 phút, kiểm tra 1 tiết.


Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình
bày, cịn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời
chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương
với nhau, chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự
kiện này với sự kiện khác. Cụ thể:


Lớp Sĩ


số


Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém


SL % SL % SL % SL % SL %



12A 26 0 0 12 46,2 10 38,5 4 15,3 0 0


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>Chương 2. KINH NGHIỆM SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY </b>
<b>HỌC TRONG PHẦN LỊCH SỬ DÂN TỘC LỚP 12 Ở TRUNG TÂM </b>
<b>GDTX&DN TAM ĐẢO ĐẠT HIỆU QUẢ</b>


<b>2.1. Giải pháp cũ</b>


Trước đây tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện một số biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả học lịch sử:


<i>Thứ nhất, các em cần có kế hoạch học tập ngay từ đầu. </i>


Thực tế cho thấy, nhiều học sinh có tâm lí đợi biết mơn thi tốt nghiệp thì mới bắt
đầu học thì hiệu quả sẽ rất thấp. Vì lúc này, với áp lực của 6 môn thi tốt nghiệp,
các em sẽ “học gấp, học vội’’ thì khó có thể học hết chương trình, dễ nhớ nhầm,
nhớ sai, dẫn tới tình trạng “râu ơng nọ cắm cằm bà kia”. Hơn nữa, nếu các em có
học hết thì cũng sẽ nhanh quên, không hiểu rõ, hiểu sâu kiến thức và sẽ không xác
định đúng yêu cầu của đề thi, dẫn tới lạc đề. Nếu chúng ta học ngay từ đầu, với
phương châm “mưa lâu thấm đất” thì các em sẽ trang bị đầy đủ kiến thức cho
mình, tự tin hơn, vững vàng hơn trong thi cử.


<i>Thứ hai, các em cần đặt ra mục tiêu học tập cho bản thân. </i>


Nếu các em đã ý thức việc học sử phải bắt đầu ngay từ đầu thì mỗi ngày, các em
cần đưa ra mục tiêu là cần học bao nhiêu câu (hoặc vấn đề). Và tất nhiên các em
nên thực hiện nghiêm túc điều này. Các em có thể nhờ thầy cô, cha mẹ, anh chị
kiểm tra hoặc bạn học cùng kiểm tra chéo.


<i>Thứ ba, trên lớp các em cần chú ý nghe giảng và ơn bài ngay sau đó. </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

ơn tập lại bài. Từ đó học sinh có thể khắc sâu kiến thức đã học thay vì đến tiết sử
hơm sau mới xem lại kiến thức đã học.


<i>Thứ tư, các em cần tích cực phát biểu trong mỗi giờ học. </i>


Các em xây dựng bài trong tiết học sẽ giúp mình và giúp các bạn trong lớp học
tốt hơn. Để phát biểu ý kiến của mình thì các em đã tư duy và qua việc tình bày
ý kiến của mình trước lớp học thì các em được tập diễn đạt ý kiến của mình, mỗi
lần nói là mỗi lần nhớ. Các em cần tránh tình trạng học thụ động “thứ nhất ngồi ì
thứ nhì đồng ý” Như vậy, giờ học của các em sẽ buồn tẻ, khơng chút hào hứng
học tập.Và khi đã khơng có hứng thú thì các em thấy “ngại” và “sợ” học bài


<i>Thứ năm, các em nên học theo đề cương, chủ đề, chủ điểm. </i>


Học theo phương pháp này các em có thể dễ dàng bao quát, hệ thống hóa kiến
thức từng bài, chương trình học. Và các em sẽ tránh được tình trạng nhớ lộn xộn,
lung tung… Ví dụ:


Đối với phần lịch sử thế giới hiện đại từ 1945-2000, các em cần nắm được:
+ Trật tự thế giới sau chiến tranh


+ Liên Xô và các nước Đông Âu từ 1945- 1991 và Liên Bang Nga từ 1991-2000
+ Các nước Á, Phi, Mĩ la tinh từ 1945-1991


+ Các nước Mĩ, Tây Âu và Nhật Bản 1945-2000


<i>Thứ sáu, các em nên học tập và ôn tập bằng việc “sơ đồ hóa” kiến thức. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Trong q trình học bài, những số liệu, ngày tháng có thể ngẫu nhiên trùng với


những con số hay ngày tháng ấn tượng với các em. Khi đó, sẽ tạo nên dấu ấn
giúp các em nhớ lâu hơn


Ví dụ: Số đại biểu quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa thì
gắn liền với con số ấn tượng của bia 333


Khi học về chiến dịch nào thì bao giờ cũng có 3 phần: Hồn cảnh, diễn biến và
kết quả.


<i>Thứ tám, làm quen với đề thi</i>


Thực hiện điều này, sẽ giúp các em nhận ra cấu trúc một đề thi như thế nào để
có hướng ôn tập hiệu quả. Đồng thời, đây cũng là một cách ôn tập hiệu quả. Và
các em sẽ biết được khả năng học tập của mình đến đâu để có hướng điều chỉnh,
bổ sung kịp thời.


<i>Thứ chín, sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử</i>


Và trong các cách đó, tơi đã chọn lọc (cách sử dụng tài liệu văn học) và bổ sung
thêm các cách (sử dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, làm việc nhóm, sử
dụng yếu tố âm nhạc) trong dạy học lịch sử, tôi thấy học sinh hứng thú với bài
học và cũng ghi nhớ lâu hơn.


<b>2.2. Giải pháp mới</b>


<i><b>2.2.1. Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Qua thực tế và kinh nghiệm giảng dạy của tôi, có thể khẳng định rằng:
việc ứng dụng cơng nghệ thông tin vào hỗ trợ dạy học là phương pháp đem lại
hiệu quả cao. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hình thành kiến thức cho học


sinh trong dạy học lịch sử sẽ làm cho giờ học trở nên sinh động không bị khô
khan, tẻ nhạt, lôi cuốn được học sinh tham gia học tập tích cực, chủ động, tạo
cho các em động cơ và khơng khí học tập thoải mái. Đây là nền tảng cho việc
tiếp thu kiến thức khoa học lịch sử một cách hiệu quả, qua đó giáo dục và phát
triển tồn diện học sinh và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Công nghệ
thông tin làm nhiệm vụ hỗ trợ cho các phương pháp dạy học khác, cho nên giáo
viên có thể ứng dụng nó để hỗ trợ cho việc tường thuật, hoặc miêu tả các sự
kiện, hiện tượng lịch sử...kết hợp với lời trình bày sinh động của giáo viên. Giáo
viên cũng có thể chiếu một đoạn phim tài liệu hoặc tư liệu tham khảo để các em
đọc và tìm hiểu. Sau đây là một số phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin.
<i>2.2.1.1. Ứng dụng công nghệ thông tin để tường thuật diễn biến một sự kiện lịch</i>
<i>sử. </i>


Ví dụ: Bài 18 - Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
<i>thực dân Pháp (1946 - 1950), khi dạy về chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm</i>
1947, tôi sử dụng lược đồ chiến dịch Việt Bắc có kí hiệu, hình ảnh với hiệu ứng
sinh động thể hiện hướng tiến công của quân bộ, quân thủy và quân dù của Pháp;
hướng tiến công của ta và nơi ta bao vây, tiêu diệt địch... Dựa vào lược đồ, chiếu
đến đâu, tôi tường thuật diễn biến của chiến dịch đến đó, tơi thấy học sinh rất chú
ý theo dõi.


Ngày 7/10/1947, từ sáng sớm một binh đoàn dù đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc
Cạn và chiếm thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Ngày 9/10/1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ ngược
sơng Hồng, sơng Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Đài Thị
(Tun Quang) bao vây phía tây Căn cứ địa Việt Bắc.


Tại Bắc Cạn, ngay từ đầu, quân ta đã chủ động, kịp thời phản công và tiến
công địch, tiến hành bao vây, chia cắt, cô lập chúng, tổ chức tập kích vào những


nơi địch chiếm đóng, phục kích trên đường từ Bắc cạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn.
Vừa chặn đánh địch, ta vừa bí mật, khẩn trương di chuyển các cơ quan Trung
ương, Chính phủ, công xưởng, kho tàng đến nơi an tồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Ví dụ: Dạy bài 20 - Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, khi
tường thật diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi thực hiện như sau: Chiếu
lược đồ Chiến dịch Điện Biên Phủ




Trước khi tường thuật diễn biến đợt 1, tôi yêu cầu các em nhìn lên lược
đồ trên màn hình xem chú thích. Sau đó tơi bắt đầu tường thuật, kết hợp nêu câu
hỏi.


Giáo viên nêu câu hỏi: Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ bao giờ và chia làm
mấy đợt


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Giáo viên chiếu các địa điểm tiến công đợt 1 của ta và nêu câu hỏi: Dựa vào
lược đồ em cho biết đợt 1, ta tiến công địch ở đâu ?


- Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 1, từ ngày
13 - 3 quân ta bắt đầu tiến công địch ở đồi Độc Lập, Bản Kéo và đồi Him Lam
thuộc phân khu Bắc.


- Giáo viên nêu câu hỏi: Kết quả ra sao?


- Học sinh trả lời, giáo viên thông báo thêm: Trong hai ngày ta đã tiêu diệt
nhanh gọn hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập. Ngày 17 - 3, địch ở Bản Kéo phải
đầu hàng. Đợt tiến công thứ nhất chỉ diễn ra 5 ngày, ta đã diệt hơn 2000 tên
địch, hạ 12 máy bay, bao vây phân khu Trung tâm và uy hiếp trực tiếp sân bay


Mường Thanh. Tên Pi-rốt chỉ huy pháo binh địch ở Điên Biên Phủ choáng váng
dùng lựu đạn tự tử.


- Giáo viên chiếu tiếp các địa điểm tiến công đợt 2 của ta và nêu câu hỏi:
Dựa vào lược đồ em cho biết đợt 2, ta tiến công địch ở đâu?


- Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 2, từ chiều
ngày 30 - 3 ta tiến công tiêu diệt các căn cứ phía đơng phân khu Trung tâm.
Cuộc đánh chiếm đồi A1 và C1 diễn ra suốt 4 ngày đêm, hai bên giành giật nhau
từng thước đất. Cuối cùng mỗi bên chiếm giữ một nửa điểm cao. Sự tổn thất của
hai bên đều nặng nề. Ở trận địa cánh đồng Mường Thanh, việc tiến qn của ta
rất khó khăn vì hỏa lực của địch rất mạnh. Ta chủ trương xây dựng một hệ thống
hầm hào, mới tiến công được. Các đơn vị bộ đội sôi nổi thi đua xây dựng trận
địa. Hào trục, hào nhánh đan nhau ngang dọc dài tới hàng trăm km, dính liền với
hàng vạn chiếc hầm. Với hệ thống chiến hào ngang dọc đã giúp ta đỡ thương
vong, cắt lìa phân khu Nam với phân khu trung tâm, cắt đôi sân bay


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

- Giáo viên chiếu tiếp các địa điểm tiến công đợt 3 của ta và nêu câu hỏi:
Dựa vào lược đồ em cho biết đợt 3, ta tiến công địch ở đâu ?


- Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 3, từ 1 - 5,
qn ta đồng loạt tiến cơng các cứ điểm cịn lại ở Phân khu trung tâm và phân
khu Nam. Tối 6 - 5, đường ngầm của ta đã đào vào tận đỉnh đồi A1, ta dùng một
tấn thuốc nổ mới phá tan được cao điểm cuối cùng này. Sau đó qn ta tổng
cơng kích trên tồn mặt trận. Chiều 7-5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch ở phân
khu Trung tâm. 17 giờ 30 phút cùng ngày, tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ ban
tham mưu của địch ra đầu hàng.


- Giáo viên chiếu hình ảnh tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ ban tham
mưu của địch ra đầu hàng, lá cờ "quyết chiến quyết thắng" tung bay trên nóc


hầm Đờ Ca-xtơ-ri


Lưu ý: Là một câu chuyện,
cho nên khi tường thuật, lời
nói của giáo viên không chỉ
lưu lốt rõ ràng, mà cịn phải
thể hiện tình cảm của mình
theo kịch tính của câu chuyện.
Mở đầu bài tường thuật, giáo
viên có thể trình bày với nhịp
độ vừa phải, nói diễn cảm để
thu hút học sinh vào ngay câu


chuyện, làm cho các em chú ý và hứng thú theo dõi câu chuyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

dung được, tạo cho các em cảm giác dường như đang sống, tham dự, chứng kiến
sự kiện đang xảy ra.


Đến chỗ tình tiết phát triển cao thì lời nói của giáo viên phải hơi lên
giọng, nhịp điệu vừa phải nhưng cần thiết nhấn mạnh những từ ngữ có hình ảnh
để khắc sâu như: ... làm cho học sinh hồi hộp theo dõi câu chuyện.


Khi tình tiết giảm đi thì nhịp điệu nói của giáo viên phải hơi nhanh, hơi hạ
giọng. Kết thúc bài giảng giáo viên phải nói với nhịp độ vừa phải, hạ giọng và
nhấn mạnh khi trình bày về kết quả tốt đẹp của trận chiến đấu, gây ấn tượng sâu
sắc cho học sinh.


Như vậy các em sẽ được theo dõi diễn biến của sự kiện lịch sử trên màn
hình, giống như đang được xem một bộ phim với hình ảnh sinh động nên các em
sẽ dễ nhớ, dễ hiểu và hứng thú học tập.



<i>2.2.1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin để miêu tả một sự vật lịch sử</i>


Ví dụ, khi dạy bài 19 - Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn
<i>quốc chống thực dân Pháp (1950 - 1953), tôi miêu tả Đông Khê như sau: "Đứng</i>
trên núi cao nhìn xuống đồn Đơng Khê như một tuần dương hạm khổng lồ giữa
biển rừng xanh biên giới. Đông Khê nằm giữa đường số 4 cách Cao Bằng 45
km, cách Thất Khê 24 km, xung quanh có 7 vị trí kiên cố đóng trên núi cao như
một bức tường vững chắc bao bọc. Đồn Đơng Khê có hàng chục lô cốt thấp sát
mặt đất, nắp dày trên 1m, có hầm ngầm, tường cao, dây thép gai xung quanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Thanh tập trung hai phần ba lực lượng địch, có cơ quan chỉ huy, trận địa pháo,
sân bay, kho hậu cần và hệ thống cứ điểm trên cao. Phân khu Bắc gồm có cứ
điểm Độc Lập, Bản Kéo cùng với cụm cứ điểm Him Lam. Phân khu Nam là một
cụm cứ điểm có trận địa pháo và sân bay Hồng Cúm. Mỗi cụm cứ điểm là một
hệ thống hỏa lực nhiều tầng có chiến hào ngang dọc, có hàng rào dây thép gai
dày từ 20m đến 50m, có bãi mìn dày đặc, có lưới dây điện sát mặt đất. Một số
cứ điểm cịn có hầm ngầm cố thủ. Lực lượng địch ở đây lúc cao nhất là 16200
qn. Với lực lượng và cách bố trí cơng sự như vậy nên Pháp và Mĩ coi


Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm".


Khi miêu tả giáo viên phải diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, thể hiện thái độ,
tình cảm của mình đối với sự vật miêu tả. Khi miêu tả những sự vật phức tạp,
ngữ điệu của giáo viên phải chậm hơn lúc tường thuật, có những chỗ ngắt giọng
ngắn, thỉnh thoảng giáo viên đặt câu hỏi: "tại sao ? ..." để học sinh suy nghĩ
(song không nhất thiết yêu cầu các em phải trả lời). Ví dụ, khi trình bày xong
vấn đề "Pháp - Mĩ coi Điện Biên Phủ là một pháo đài bất khả xâm phạm" giáo
viên nên ngắt giọng, nêu câu hỏi "Chúng đã bố trí cơng sự và lực lượng như thế
nào mà dám nói là pháo đài bất khả xâm phạm ?". Học sinh suy nghĩ vấn đề đặt


ra song không trả lời câu hỏi, mà giáo viên tiếp tục trình bày về cách bố trí các
cơng sự, lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ để cuối cùng rút ra kết luận và giải
đáp câu hỏi đã đặt ra. Khi kết luận, giáo viên nên nói chậm, nhấn mạnh, hơi
xuống giọng những từ cuối để khắc sâu trí nhớ của học sinh.


Cách giảng như vậy không đơn điệu, buồn tẻ mà khơi gợi sự tò mò, hiểu
biết của học sinh. Các em theo dõi một cách hứng thú, phát huy tính tích cực
trong tư duy và tiếp thu sự kiện một cách dễ dàng.


<i>2.2.1.3. Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu tài liệu tham khảo</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

tham khảo, trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đề cập đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin để tìm hiểu tài liệu tham khảo.


Ứng dụng cơng nghệ thơng tin để tìm hiểu một văn bản.


Ví dụ: Khi dạy bài 16 – Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi
<i>nghĩa tháng Tám (1939-1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mục</i>
3: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 của phần III: Khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền - Lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố, tôi thực hiện như sau:


- Chiếu văn bản Hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh:
<i>Hỡi quốc dân đồng bào</i>


<i>Hỡi các đồn thể cứu quốc</i>


<i> Phát xít Nhật đã gục đầu hàng phục Anh - Mĩ - Nga - Tàu. Quân Đồng minh</i>
<i>sắp tràn vào Đông Dương. Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến ! Dân tộc ta đã đến lúc</i>
<i>vùng dậy cướp lại chính quyền độc lập của mình !</i>



<i> Trước cơ hội có một khơng hai này, tồn thể dân tộc ta phải đem hết lực</i>
<i>lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân giải phóng Việt Nam, tung</i>
<i>xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đổi lấy tự do hạnh phúc cho nhân dân !</i>
<i> Ngày vinh quang ấy đương đòi hỏi những hi sinh quyết liệt, những dũng cảm</i>
<i>phi thường của con em trong nước. Thắng lợi nhất định về ta !</i>


<i> Dấy lên !</i>


<i> </i> <i>Ngày 14 tháng 8 năm 1945</i>
TỔNG BỘ VIỆT MINH


- Sau đó tơi nêu câu hỏi: Em hiểu Hiệu triệu là gì ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Phần lớn học sinh đã tập đọc diễn cảm và xung phong đọc. Tôi gọi khoảng hai
em đọc, so sánh, nhận xét khả năng thể hiện của từng em và khích lệ các em.
Tiếp đến, tôi nêu câu hỏi: Hãy nêu nội dung của lời Hiệu triệu ? (kêu gọi toàn
dân đứng lên khởi nghĩa, khẳng định khởi nghĩa sẽ thắng lợi)


Với phương pháp trên, tôi nhận thấy hầu hết học sinh đều nhìn lên màn
hình, cố gắng đọc diễn cảm, chứng tỏ các em đang bị lơi cuốn vào bài học.


Ví dụ: Khi dạy bài 16 – Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi
<i>nghĩa tháng Tám (1939-1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, dạy</i>
đến sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tun ngơn Độc lập (2 - 9 - 1945), tôi
cho học sinh xem một đoạn video về sự kiện này và yêu cầu các em chú ý nghe
để nêu nội dung của Tuyên ngôn.


Sau khi đoạn phim kết thúc, tôi nêu câu hỏi: Hãy nêu nội dung của Tuyên
ngôn? Học sinh trả lời, giáo viên bổ sung như sau:



- Tuyên ngôn khẳng định quyền bình đẳng tự do và sống sung sướng của mọi
dân tộc.


- Lên án thực dân Pháp chà đạp lên quyền sống của nhân dân ta và hai lần bán
nước ta cho Nhật.


- Nêu bật tinh thần dũng cảm chiến đấu của nhân dân ta chống Nhật - Pháp và vì
vậy khi Pháp bỏ chạy, nhân dân ta dân ta đã giành được độc lập từ tay Nhật.
- Khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập với chủ quyền dân tộc vừa giành lại
được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>2.2.1.4. Ứng dụng cơng nghệ thơng tin để tìm hiểu hình ảnh lịch sử</i>


Ví dụ: Mục V, bài 21 - Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh
<i>chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gịn ở miền Nam (1954 - 1965). Khi trình</i>
bày về cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị của quân và dân ta trong chiến đấu
chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt”. Phong trào đã thu hút đông đảo các
tầng lớp tham gia. tôi chiếu hình ảnh sau đây và hỏi: Các em cho biết, đây là ai
và đang làm gì ? (Hịa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối chính
quyền Diệm)


? Bức ảnh nói lên điều gì


(lịng dũng cảm, tinh thần kiên quyết đấu tranh
chống chính quyền Diệm của nhân


dân ta...)


Như vậy, bức ảnh đã khiến các em rất
tò mò, xúc động và mong muốn khám phá


nội dung của nó.


<i><b>2.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm</b></i>


Thảo luận nhóm là hoạt động diễn ra thường xuyên trong các giờ học,
nhưng giờ nào giáo viên cũng có hình thức tổ chức thảo luận như nhau sẽ dẫn
đến sự nhàm chán, khơng kích thích được hứng thú làm việc của học sinh. Vì
vậy, tơi đã thay đổi hình thức thảo luận như sau:


Đối với những câu hỏi dễ, bắt buộc các nhóm phải trả lời theo chỉ định của giáo
viên, hoặc giáo viên gọi trả lời trên tinh thần xung phong, nhưng khơng ghi
điểm.


Đối với những câu hỏi khó, tơi tổ chức thi giữa các nhóm và tiến hành như sau:
Trước hết, tơi nêu câu hỏi, sau đó đưa ra thể lệ cuộc thi:


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

"Để xin trả lời, một đại diện nhóm phải giơ tay, nhóm nào có tín hiệu sớm nhất
sẽ giành được quyền trả lời. Nếu người đại diện trả lời đúng câu hỏi, cả nhóm sẽ
được ghi điểm vào kiểm tra miệng, nhưng số điểm không đều nhau mà giảm
hoặc tăng dần theo mức độ đóng góp của từng thành viên, trong đó người làm
nhiệm vụ trả lời sẽ được điểm cao nhất. Nếu nhóm trước trả lời khơng đúng, cơ
hội sẽ giành cho nhóm tiếp theo. Tuy vậy, dù nhóm này có trả lời đúng vẫn bị
trừ đều mỗi thành viên một điểm, vì chưa có câu trả lời nhanh nhất"


Ở lớp 12A, tôi đã áp dụng một số câu hỏi để thảo luận thi giữa các nhóm,
ví dụ như:


<i>? Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc có gì mới và khác lớp người</i>
<i>đi trước (các nhà yêu nước như: Phan Bội Châu tìm sang các nước phương</i>
Đơng như Nhật Bản, Trung Quốc gặp gỡ các chính khách của nước đó, xin họ


giúp Việt Nam đánh Pháp và chọn phương pháp đấu tranh bạo động. Phan Châu
Trinh chủ trương ôn hòa. Nguyễn Ái Quốc chủ trương sang phương Tây, nơi có
tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học kĩ thuật phát triển. Trong q
trình đó, Người bắt gặp chân lí cứu nước của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và xác
định con đường cứu nước theo Cách mạng tháng Mười Nga, con đường duy
nhất đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại), (Bài 12- Phong trào
<i>dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925)</i>


<i>Thành quả của Cách mạng tháng Tám 1945 là gì? (giành được chính</i>
quyền), (Bài 16 – Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám
<i>(1939-1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời)</i>


<i>Thành quả của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì? (giải phóng miền Nam,</i>
thống nhất đất nước), (Bài 23 – Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở miền
<i>Bắc, giải phóng hồn tồn miền Nam (1973 - 1975)) ...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Đối với những câu hỏi khó cần được khuyến khích, giáo viên khơng nên
cho điểm dưới 5. Nếu những em điểm 5; 6; 7 muốn chờ cơ hội khác lấy điểm
cao hơn, thì giáo viên cũng không ghi điểm vào sổ.


Trong một bài, giáo viên chỉ nên tổ chức thi một câu để tránh mất nhiều thời
gian.


<i><b>2.2.3. Sử dụng yếu tố văn thơ trong dạy học lịch sử</b></i>


Tài liệu văn học là nguồn tư liệu quan trọng đối với dạy học lịch sử, nó có
ý nghĩa to lớn trong giáo dục, giáo dưỡng và phát triển học sinh. Bằng những
hình ảnh cụ thể, các tài liệu, hình tượng văn học có tác động mạnh mẽ đến tư
tưởng, tình cảm của người đọc. Văn học trình bày những nét đặc trưng, điển
hình về kinh tế, chính trị, xã hội…do đó giữa văn học và sử học có mối quan hệ


khăng khít với nhau.


Trong thực tế, khi tôi sử dụng thơ để hỗ trợ cho bài giảng, tơi thấy các em
chăm chú lắng nghe, có khi tơi đọc đã xong các em còn yêu cầu đọc tiếp. Điều
đó chứng tỏ sử dụng thơ vào giờ học lịch sử đã tạo được hứng thú cho học sinh.


Trong quá trình giảng dạy, để khai thác hiệu quả tài liệu văn học trong
giảng dạy Lịch sử dân tộc tôi đã sử dụng các biện pháp sau:


<i>2.2.3.1. Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh họa những</i>
<i>sự kiện đang học</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Trong quá trình giảng dạy Lịch sử, giáo viên thực hiện biện pháp này
khơng q khó mà lại có hiệu quả và ý nghĩa to lớn trong việc làm cho nội
dung bài học phong phú, giờ học sinh động, khắc sâu kiến thức cơ bản và
trọng tâm.


Ví dụ: Dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919- 1925
Phần II- Mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.


Giáo viên cần làm cho học sinh nắm được các mốc lịch sử quan trọng
trong hoạt động của Người và ý nghĩa của sự kiện đó. Trong số những hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1925 cần khắc sâu sự kiện giữa năm 1920
đọc Bản sơ thảo Luận cương của Lê Nin về "Vấn đề dân tộc và thuộc địa".
Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc,
cái mà người đã tìm kiếm bao năm qua, mở ra con đường giải phóng, chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng bế tắc về đường lối của phong trào cách mạng Việt
Nam. Phút giây đọc được Luận cương của Lê Nin đánh dấu sự thay đổi về
chất trong tư tưởng cứu nước của Nguyễn ái Quốc. Sau này (năm 1960),
Người kể lại cảm xúc của mình khi đọc Luận cương : "Luận cương của Lê Nin


<i>làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui</i>
<i>mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như</i>
<i>đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đày, đau khổ!</i>
<i>Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i> "Luận cương đến với Bác Hồ và Người đã khóc</i>


<i> Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin</i>


<i> Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách</i>


<i> Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin." </i>


Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy lập trường của Liên Xơ và Quốc tế Cộng
sản hoàn toàn ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa phương Đơng. Người đã tìm thấy ở bản Luận cương này vấn đề giải
phóng các dân tộc thuộc địa. Người vui mừng đến phát khóc lên vì tìm thấy
con đường cứu nước giải phóng dân tộc.


Ví dụ: Dạy bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
<i>chống thực dân Pháp xâm lược 1946-1950.</i>


Mục I: Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ


Giáo viên cần phải giúp học sinh nắm được: Vì sao cuộc kháng chiến
tồn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946? Một
mặt hướng dẫn học sinh nắm các sự kiện bội ước và quyết tâm cướp nước ta
một lần nữa của Pháp, đồng thời phân tích "Lời kêu gọi tồn quốc kháng
chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh để thấy được khả năng đấu tranh ngoại giao
hồ bình giữa ta và Pháp là khơng cịn nữa. Thực dân Pháp đã buộc ta phải


cầm súng đứng lên để bảo vệ nền độc lập dân tộc.


<i>“Hỡi đồng bào toàn quốc!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<i>Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất</i>
<i>định không chịu làm nô lệ.</i>


<i>Hỡi đồng bào!</i>


<i>Chúng ta phải đứng lên!</i>


<i>Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,</i>
<i>đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân</i>
<i>Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có</i>
<i>gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân</i>
<i>Pháp cứu nước…” </i>


(Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh)
<i>2.2.3.2. Dùng một đoạn trích để cụ thể hố sự kiện, nêu ra một kết luận khái</i>
<i>quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kỳ, một sự kiện lịch sử</i>


Ví dụ: Dạy bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa
<i>tháng Tám (1939-1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời</i>


Để phác hoạ, miêu tả tình cảnh nhân dân ta dưới hai từng áp bức Pháp,
Nhật nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh để các em nhận thức được lúc này
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là hàng đầu và bức thiết. Giáo viên miêu tả tình
cảnh thê thảm của người nơng dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp cuối
1944 đầu 1945 làm hai triệu người chết đói, giáo viên dùng đoạn trích trong tác
phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân:



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i>Người chết như ngả ra. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ,đi làm</i>
<i>đồng không gặp ba bốn cái thây nằm quằn queo bên đường. Khơng khí vẩn</i>
<i>mùi ẩm thối của rác rưỡi và mùi gây của xác người”.</i>


Chính trong hồn cảnh đó Tràng nhặt được vợ. Sáng hôm sau bà mẹ nấu bữa
cơm đón con dâu mới với niềm vui phấn khởi.


<i>“Bữa cơm ngày đói trơng thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm</i>
<i>rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất</i>
<i>ngon lành” “Niêu cháo lõng bõng, mõi người được có hai lưng bát đã hết</i>
<i>nhẵn”.</i>


<i>“Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lề mề bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút”</i>
<i>bà múc cho con dâu, cho Tràng và nói “Cám đấy mày ạ!.Hì. Ngon đáo để.</i>
<i>Cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả cịn cám mà ăn đấy!”. “Ngồi đình</i>
<i>trống thúc thuế đánh dồn…”. “Trong đầu Tràng thấp thống lá cờ đỏ sao</i>
<i>vàng và đồn người đi cướp kho thóc của Nhật”</i>


Giáo viên dừng lại và nhận xét: “Nông dân sống cầm hơi bằng hớp cháo cám
<i>nhạt và mình trần chịu rét lúc đêm đơng”, các tầng lớp giai cấp khác cũng</i>
không kém phần khốn đốn… Mâu thuẩn dân tộc gay gắt “Cả Việt Nam
<i>giống như một đồng cỏ khô. Chỉ cần một tàn lữa nhỏ sẽ bùng lên thiêu cháy</i>
<i>bè lũ cướp nước và bán nước”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

mảnh vườn cho con dù vô cùng đau khổ, dằn vặt. Lão mang tiền dành dụm
được gửi ông giáo và nhờ ông trông coi mảnh vườn. Không muốn phiền đến
mọi người, lão từ chối hết thảy sự giúp đỡ của ông giáo. Nhưng rồi lão Hạc
bỗng nhiên chết – cái chết thật dữ dội, đau đớn); đặc biệt phải kể đến nhân vật
Chí Phèo của Nam Cao từ một người nông dân hiền lành đã bị xã hội thuộc


địa nửa phong kiến đó biến thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại, bị bần cùng
hóa và cuối cùng cũng phải tìm đến cái chết.


<i>2.2.3.3. Sử dụng tài liệu văn học trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập</i>
<i>của học sinh</i>


Trong giai đoạn hiện nay thực hiện đổi mới giáo dục toàn diện trong đó
có kiểm tra đánh giá. Đến thời điểm hiện tại Văn – Sử - Địa, đề thi vẫn theo
phương pháp tự luận. Để đánh giá khách quan và chính xác học sinh thì
hướng đổi mới trong cách ra đề đang được nhiều người quan tâm. Đó là ra
theo lối “Đề mở” để đánh giá năng lực vận dung của học sinh trong q trình
làm bài. Đối với mơn Lịch sử, trong phương pháp ra đề mở giáo viên có thể
dùng kiến thức văn học để làm đề kiểm tra cho học sinh, vừa hấp dẫn vừa
kiểm tra đánh giá được thực chất kết quả dạy học. Đồng thời góp phần tác
động vào tư tưởng tích cực học tập, tìm tịi của học sinh, phát triển tư duy
nhận thức cho các em.


Ví dụ: “Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm
<i> mưa dầm, cơn vắt</i>


<i> Máu trộn bùn non</i>


<i> Gan không núng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Là những câu thơ diễn tả về diễn biến chiến dịch nào?


Anh (chị) hãy trình bày hồn cảnh, diễn biến, kết quả ý nghĩa của chiến dịch
đó.


<i>2.2.4. Sử dụng yếu tố âm nhạc trong dạy học lịch sử</i>



Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết sử dụng thơ ca để truyền đạt thơng tin, vì
thơng tin qua hình thức đó làm cho người nghe, người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ
đi vào lòng người.


Trong thực tế, âm nhạc đã từng làm nên những điều kì diệu, âm nhạc có
thể làm thay đổi cảm xúc của con người. Con người thường dùng âm nhạc để ca
ngợi cái đẹp và hướng tới cái đẹp, vì vậy đã có rất nhiều ca khúc, ca ngợi các
anh hùng dân tộc, ca ngợi những chiến cơng, ca ngợi tinh thần vượt qua khó
khăn gian khổ, sự hi sinh anh dũng của quân và dân ta trong lịch sử chống ngoại
xâm. Một bài hát với lời ca rộn ràng, hùng tráng phù hợp với nội dung bài học,
được dạo lên trước một giờ học mới sẽ làm vơi đi sự mệt mỏi, tạo sự sảng khoái
để bước vào một giờ học hiệu quả hơn, đồng thời cịn có tác dụng giáo dục lịng
u nước, niềm tự hào dân tộc. Vì vậy, tơi đã sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy
học lịch sử.


Ví dụ, khi dạy bài khi dạy bài 20 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
<i>thực dân Pháp kết thúc, sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một đoạn</i>
ngắn bài hát "Giải phóng Điện Biên" (Đỗ Nhuận) rồi giới thiệu bài mới. Bài hát
mang âm hưởng làn điệu dân ca Tây Bắc dặt dìu và làn điệu chèo mượt mà của
đồng bằng Bắc Bộ, với tiếng kèn thắng trận hùng tráng. Nhịp điệu âm nhạc
trong bài hát là nhịp chân điệu múa xịe hoa của các cơ gái Thái, xen lẫn nhịp
bước hành quân của các chiến sĩ Điện Biên. Bài hát sẽ tạo một tâm trạng sôi nổi
háo hức, để các em đi vào bài học một cách hứng thú hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

em nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng miền Nam" (Lưu Hữu Phước) rồi
giới thiệu bài mới. Nội dung bài hát là lời thơi thúc, cổ vũ, hiệu triệu tồn qn,
tồn dân ta tiến lên tiêu diệt kẻ thù. Như vậy, ngay từ đầu đã tạo được khơng khí
phấn khởi cho các em.



<b>2.3. Kết quả</b>


Sau một thời gian dạy – học (từ tháng 11/2016 đến tháng 2/2017), tôi áp
dụng các biện pháp trên (sử dụng công nghệ thông tin, làm việc nhóm, sử dụng tài
liệu văn thơ, âm nhạc) trong dạy học lịch sử dân tộc từ 1919-1975, qua các bài
kiểm tra miệng, 15 phút, 1 tiết, học kỳ tôi thấy điểm bài làm của các em đã khá
lên, đặc biệt là lớp 12A thì kết quả tăng lên đáng kể:


Lớp Sĩ


số


Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém


SL % SL % SL % SL % SL %


12A 26 1 3,8 16 61,5 9 34,7 0 0 0 0


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b>KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ</b>
<b>1. Kết luận</b>


“Dân ta phải biết sử ta” không chỉ là mối quan tâm của Bác, đó cũng là nỗi
trăn trở của những giáo viên dạy môn lịch sử, chúng tơi ln mong muốn học
sinh của mình hiểu được nội dung bài, hiểu được lịch sử của dân tộc từ đó các
em sẽ cảm thấy yêu thương gắn bó với quê hương đất nước mình hơn. Các
phương pháp trên đã và sẽ được áp dụng tại Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo và
cũng đạt được kết quả phát huy được tính tích cực của học sinh, rèn được kĩ
năng tổng hợp, phân tích, so sánh, các em biết sử dụng sách giáo khoa, vận dụng
kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới. Giúp học sinh hiểu bài nhanh, thu hút sự
cảm hứng đối với môn học này và học sinh có thể hiểu và nhớ bài ngay tại lớp,


đồng thời giúp học sinh nhận thức được một cách sâu sắc về vị trí tầm quan
trọng của lịch sử trong xã hội mà bấy lâu nay hầu như các em chưa mấy quan
tâm. Qua những đoạn văn, đoạn thơ, những hình ảnh, những giai điệu âm nhạc
mà giáo viên sử dụng trong bài học sẽ bồi đắp thêm lòng yêu nước của các em từ
những tấm gương anh hùng của lịch sử dân tộc trong chiến đấu chống giặc ngoại
xâm và trong xây dựng đất nước đi theo chủ nghĩa xã hội.


<b>2. Kiến nghị</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


[1] Nguyễn Thị Cơi, Đồn Văn Hưng, (2008), Thiết kế và sử dụng bản đồ giáo
<i>khoa điện tử trong dạy học lịch sử ở trường phổ thơng, Tạp chí thiết bị Giáo dục,</i>
số 35.


[2] Nguyễn Thị Cơi (Chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng và
<b>các tác giả, (2009), Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử, NXB</b>
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.


[3] Vũ Văn Dụ, (2007), Các trường ĐHSP với việc thực hiện chương trình
THPT phân ban, Tạp chí Giáo dục, số 156.


[4] N.G.Đairi, (1973), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào, NXB Giáo dục, Hà
Nội.


[5] Đảng Cộng Sản Việt Nam, (1997), Văn kiện Hội nghị lần 2, Ban chấp hành
<i>Trưng Ương khóa VIII (02/QG/HNTW,24/12/1996), NXB Chính trị quốc gia, Hà</i>
Nội.


[6] Nguyễn Mạnh Hưởng, (2010), Đặc trưng của việc dạy – học lịch sử và


<i>con đường hình thành kiến thức cho học sinh với sự hỗ trợ của cơng nghệ thơng</i>
<i>tin, Tạp chí Giáo dục, số 235.</i>


[7] Nguyễn Mạnh Hưởng, (2011), Nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở
<i>trường THPT với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư</i>
phạm Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

[9] Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Nguyễn Thị Cơi, Trịnh Đình Tùng, (2009),
<i>Phương pháp dạy học lịch sử tập 2, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà</i>
Nội.


[10] Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), (2011), Ngữ văn 12 tập hai, Nxb Giáo
dục


[11] Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), (2012), Ngữ văn 12 tập một, Nxb
Giáo dục


[11] Tạ Minh, (1982), Xây dựng hệ thống đồ dùng trực quan để giảng dạy
<i>phần lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1929, Luận văn sau đại học.</i>


[12] Trịnh Đình Tùng, (2007), Để nâng cao chất lượng dạy và học mơn Lịch
<i>sử ở trường phổ thơng, Tạp chí Giáo dục, số 155.</i>


[13] Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng, (2009), Hướng dẫn sinh viên
<i>ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng hồ sơ tư liệu trong dạy học lịch sử ở</i>
<i>trường trung học phổ thơng, Tạp chí Giáo dục, số 228.</i>


Website:


1. google.com.vn



</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38></div>

<!--links-->

×