Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Đề tài Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 3 bằng hệ thống câu hỏi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.94 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Tập đọc là phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong Chương trình Tiếng Việt ở tiểu học. Dạy tốt phân môn này không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú tạo điều kiện để các em học tốt các môn học khác. Rèn kĩ năng đọc cho học sinh như đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng, rành mạch, đọc hay là để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, về ngôn ngữ và ngược lại khi hiểu được những văn bản đọc sẽ giúp cho học sinh hiểu được đọc hay. Vì vậy giữa việc đọc đúng, đọc hiểu là hai quá trình có liên quan, gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Qua việc đọc học sinh chiếm lĩnh được tri thức văn hóa của dân tộc, tiếp thu được văn minh của loài người thông qua sách vở. Qua việc đọc, học sinh biết đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Qua hoạt động đọc, tình cảm, thẩm mĩ của các em được nâng lên cao, tầm hiểu biết của các em nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình nhận thức cũng có chiều sâu hơn. Đọc hiểu là kĩ năng ngôn ngữ văn học. Qua đó có tác dụng giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát triển óc sáng tạo và khả năng tư duy cho các em. 1.1. Yêu cầu nhiệm vụ dạy học: Phân môn tập đọc có nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Đọc là một dạng hoạt động lời nói, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết (mã hóa) sang lời nói có âm thanh (giải mã) và không hiểu nó (đọc thành tiếng) là quá trình chuyển tiếp từ hình thức chữ viết thành đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm). Như vậy cả hai hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm đều không thể tách rời đối với hiểu văn bản đọc. Bốn kĩ năng của đọc (đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc hay) được hình thành trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ: đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và đọc hay được. Nhờ đọc đúng mà hiểu đúng, hay chính nhờ hiểu mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy học, không thể xem nhẹ kĩ năng nào cũng như không thể tách rời chúng. Dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Thông qua việc đọc phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng đọc là có ích lợi cho các em trong cả cuộc đời. Phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.. 1 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Như vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn, vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Nó trở thành một đòi hỏi, một nhu cầu đối với người đi học. Đọc là một khả năng không thể thiếu được của con người trong xã hội ngày nay. 1.2. Xuất phát từ thực tế dạy học của phân môn dạy tập đọc, qua nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy, tôi thấy còn có nhiều điều bất cập về phương pháp giảng dạy và nội dung câu hỏi sách giáo khoa, về trình độ học sinh, đội ngũ giáo viên có nhiều vấn đề cần phải làm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy và học tập đọc nói chung và dạy rèn kĩ năng đọc hiểu nói riêng ở tiểu học chưa cao. Bởi về trình độ giáo viên không đồng đều, việc dạy tập đọc còn mang tính truyền thống. Dạy chủ yếu là thầy truyền thụ, học sinh nắm bắt tri thức một cách thụ động và nhiều khi dạy còn mang tính chất áp đặt (về cách hiểu nội dung bài, cách đọc bài). Trong khi dạy giáo viên còn giảng giải quá nhiều từ khó, về ý nghĩa của bài mà còn xem nhẹ phần luyện đọc, ít chú ý đến việc đọc hiểu của học sinh và không biết rằng học sinh đó có hiểu tốt văn bản hay không. Học sinh thì không quan tâm đến phương pháp đọc của mình. Do đó các em rất yếu về năng lực di chuyển kĩ năng đọc được hình thành ở các lớp trước, các bài học trước để giải quyết những vấn đề yêu cầu của bài học mới. Mặt khác do nhiều câu hỏi chưa thật phù hợp với trình độ học sinh, nhiều khi câu hỏi còn mang tính áp đặt và khó hiểu làm cho học sinh không hứng thú và thấy nhàm chán. Qua việc đo thử nghiệm ở trường tiểu học, tôi thấy kết quả như sau: - Biết cách đọc thầm để nhanh chóng tự hiểu nội dung bài đọc 29,2 % - Biết đọc phần chú giải để hiểu đúng một số chi tiết trong bài 25,0 % - Biết cách xác định đề tài của bài 8,3 % - Biết cách suy nghĩ tìm ra điều mà tác giả muốn nói với người đọc 4,2 % - Biết biểu hiện điều mình hiểu qua giọng đọc 16,7% Kết quả trên cho thấy cách dạy tập đọc và tài liệu dạy tập đọc ở lớp 3 chưa tạo ra năng lực tự đọc ở học sinh, vì chưa chú trọng việc dạy học sinh cách đọc văn bản và ứng xử với những điều đọc được. Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn của xã hội hiện nay, cần phải đào tạo thế hệ học sinh trở thành những con người năng động, sáng tạo trong cuộc sống, đáp ứng, đòi hỏi được nhu cầu của xã hội. 1.3. Xuất phát từ nhu cầu về nâng cao nghiệp vụ của bản thân. Hiện nay, tôi thấy cần phải đổi mới phương pháp và trau rồi kiến thức chuyên môn để nâng cao năng lực của mình, phù hợp với xu hướng thời đại – Thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế, mà tôi đã chọn đề tài nghiên cứu này, mong phần nào giúp các em nâng cao trình độ đọc hiểu, để từ đó các em nắm bắt được một cách sâu sắc hơn những gì mà bài tập đọc đưa đến cho các em. 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Phân môn Tập đọc, cụ thế là : “Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 3 bằng hệ thống câu hỏi” 2.2. Mục đích nghiên cứu: 2 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Nghiên cứu lí luận để nhận thức đúng về khái niệm đọc, rèn kĩ năng đọc hiểu, xây dựng các hình thức câu hỏi để tìm hiểu khả năng đọc của học sinh. Việc hiểu được coi là một then chốt của quá trình đọc hiểu, nằm ngay trong quá trình học. Do vậy việc xây dựng các câu hỏi giúp học sinh nắm chắc nội dung văn bản để đọc đúng, đọc hay là mục đích của đề tài. Thông qua câu hỏi xây dựng các nội dung để hiểu văn bản, thực nghiệm để Xem xét các ứng dụng của vấn đề trong thực tế việc dạy tập đọc để nâng cao hiệu quả, khắc phục tình trạng bất cập giúp học sinh hiểu hơn nội dung văn bản được học. 3. Phương pháp nghiên cứu: 3.1. Phân tích các tài liệu dạy học Tôi đã đọc và tìm hiểu các loại sách: Sách tiếng Việt lớp 3 của giáo viên và học sinh ; sách bồi dưỡng giáo viên môn tiếng Việt ; giáo trình phương pháp giảng dạy và các tạp chí ; Hỏi và đáp về phương pháp dạy tập đọc ở tiểu học ; các tập san có liên quan đến đề tài. Thu thập các thông tin, xử lí các thông tin và tài liệu đó, nhằm nghiên cứu nội dung bài đọc được sâu hơn, chính xác hơn. 3.2. Phương pháp điều tra thực tế - Qua dự giờ, phỏng vấn, tọa đàm, trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo phụ trách chuyên môn của trường, của phòng. Tôi nhận thấy rằng các đồng chí giáo viên còn thiên về sử dụng phương pháp truyền thống, còn quá lệ thuộc vào nội dung câu hỏi ở sách giáo khoa và cách tổ chức các hoạt động ở sách hướng dẫn của giáo viên. Nên nhiều khi việc dạy và học còn mang tính áp đặt và hình thức. Do vậy hiệu quả giờ dạy tập đọc chưa cao. - Với học sinh, tôi dùng phương pháp thăm dò TEST vừa đóng vừa mở. Ví dụ: + Em có thích học môn này không ? + Tại sao em lại thích ? + Nếu thích lựa chọn em sẽ chọn môn nào ? + Vì sao em lại chọn môn đó ? + Em có hứng thú học môn này không ? + Vì sao em hứng thú ? ( hay vì sao không hứng thú ?) 3.3. Phương pháp dạy thực nghiệm: Dạy một bài ở lớp 3 Bài : Cửa Tùng Dùng phiếu thực nghiệm kiểm tra khả năng đọc hiểu của học sinh sau khi học xong.. 3 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> PHÂN NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI “Rèn kĩ năng đọc hiểu bằng hệ thống câu hỏi cho học sinh lớp 3” 1.1 Mục tiêu của phân môn Tập đọc giúp học sinh: - Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp 1, 2 ; tăng cường tốc độ đọc, biết đọc lướt để chọn thông tin nhanh ; bước đầu biết đọc phân vai và đọc hay. - Phát triển kĩ năng đọc – hiểu lên mức cao hơn : nắm và vận dụng được một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,... để hiểu ý nghĩa của bài văn, thơ (yêu cầu trọng tâm). - Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình thành nhân cách của con người mới. 1.2. Nội dung dạy tập đọc lớp 3 - Phát triển các kĩ năng đọc và nghe cho HS Thông qua 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí, hành chính, khoa học, ... trong đó có 46 bài văn xuôi, 16 bài thơ. Phân môn Tập đọc lớp 3 tiếp tục phát triển các kĩ năng đọc và nghe cho HS, đọc thành tiếng, đọc thầm và hiểu nội dung, nghe nắm được cách đọc đúng, hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn. Qua phần hướng dẫn sư phạm cuối mỗi bài tập đọc, phân môn Tập đọc còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc – hiểu văn bản cụ thể là : Nhận biết đề tài, cấu trúc của bài Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để hiểu nội dung Phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn chương. Cùng với các phân môn Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, phân môn Tập đọc còn xây dựng cho học sinh thói quen tìm đọc sách ở thư viện, dùng sách công cụ ( từ điển, sổ tay từ ngữ, ngữ pháp) và ghi chép những thông tin cần thiết khi đọc. - Trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của HS về cuộc sống. - Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng ; tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống ; hứng thú đọc sách và yêu thích tiếng Việt. Do đó có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên, xã hội và đời sống, hình thành nhân cách cho học sinh. 1.3. Phương pháp dạy học chủ yếu Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy cô. Các kiến thức về ngôn ngữ, văn học, văn hóa, tự nhiên và xã hội có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được những 4 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng như vậy, những tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện trong thực tế. Đó là những lí do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới – phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học. Tích cực hóa hoạt động của người học được hiểu là phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm, trong đó thầy cô đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển. Trong giờ dạy tập đọc cho học sinh, ta thường sử dụng các phương pháp như sau : - Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan thường để giới thiệu bài ; giảng từ khi tìm hiểu nội dung bài. - Phương pháp đàm thoại thường được sử dụng khi kiểm tra bài và khi học sinh đọc hiểu. - Phương pháp thảo luận nhóm thường được sử dụng khi tìm hiểu nội dung bài. Phương pháp này thực hiện khi học theo nhóm. Thảo luận là một cách học tạo điều kiện cho học sinh luyện tập kĩ năng giao tiếp, khả năng hợp tác và khả năng thích ứng với hoàn cảnh xung quanh. Thông qua thảo luận ngôn ngữ và tư duy của học sinh trở nên linh hoạt và sinh động hơn. Từ đó học sinh tìm ra cách đọc hay của bài văn, giọng đọc của từng nhân vật trong truyện, giúp các em hiểu sâu hơn nội dung bài học. - Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề thường được sử dụng khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu và giảng từ. Dạy học nêu vấn đề là đòi hỏi học sinh tham gia giải quyết vấn đề do tình huống đặt ra. Tình huống có vấn đề đóng vai trò quan trọng trong dạy học nêu vấn đề. Phải có tình huống có vấn đề mới thực hiện được phương pháp dạy học nêu vấn đề. Thông qua việc tham gia giải quyết vấn đề trong tình huống cụ thể. Học sinh vừa nắm vững tri thức vừa phát triển tư duy sáng tạo. Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề có nhiều khả năng phát huy tính độc lập suy nghĩ và trí sáng tạo của học sinh. - Phương pháp luyện tập thực hành là phương pháp được sử dụng nhiều trong dạy học nói chung và trong dạy rèn kĩ năng đọc, đọc hay nói riêng. Hình thức cốt lõi để thực hiện phương pháp thực hành là để rèn kĩ năng đọc hiểu. Hình thức phổ biến để hình thành tri thức cho học sinh tiểu học là thông qua thực hành, có nghĩa là việc cung cấp kiến thức mới không phải là trực tiếp, thuần lí thuyết mà được hình thành dần dần, tự nhiên cho học sinh qua việc rèn đọc câu, đoạn, nội dung bài.. 5 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Chương 2 KHẢO SÁT HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỌC HIỂU SGK TIẾNG VIỆT LỚP 3 Thực trạng việc dạy và học của giáo viên – học sinh cho thấy kĩ năng đọc hiểu của thầy và trò ở tiểu học còn rất nhiều hạn chế. Ngay cả giáo viên có lúc cũng không hiểu sâu nội dung văn bản, nên đã hiểu sai về nội dung bài đọc. Do vậy việc rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh có phần hạn chế, dẫn đến việc đọc hiểu, đọc hay chưa đúng. Có thể tìm thấy nguyên nhân chất lượng đọc hiểu kém của học sinh chính ở ngay những hạn chế của đề tài tập đọc ở tiểu học. Về nội dung của dạy đọc qua các câu hỏi trong sách giáo khoa tiếng Việt 3. Tôi thấy rằng nhiều câu hỏi chưa phù hợp với trình độ học sinh, nhiều khi câu hỏi còn mang tính áp đặt ; hoặc câu hỏi còn quá khó với học sinh ; chưa đảm bảo tính lô gíc của hệ thống câu hỏi đi từ dễ đến khó, từ trình độ tư duy thấp đến trình độ tư duy ở mức cao. Do đó rất khó khăn cho việc học sinh tìm hiểu nội dung bài. Từ đó học sinh không tìm ra được phương pháp tối ưu của việc đọc hiểu và đọc hay. 2.1. Thống kê, phân loại hệ thống câu hỏi đọc hiểu lớp 3 Như chúng ta đã biết “ đọc” không chỉ là sự “ đánh vần” lên thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Đọc thành tiếng không thể tách rời với việc hiểu những gì được đọc. Chỉ khi biết cách hiểu, hiểu sâu sắc, thấu đáo các văn bản được đọc thì học sinh mới có công cụ hữu hiệu để lĩnh hội những tri thức, tư tưởng tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản, có công cụ để lĩnh hội tri thức khi đọc các môn học khác của nhà trường. Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen, hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên. Dạy đọc hiểu tức là dạy kĩ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh văn bản. Dạy đọc hiểu cũng là dạy tiếp nhận, xử lí thông tin. Đọc hiểu là một hoạt động gồm nhiều hành động được trải ra theo tuyến tính thời gian. - Hành động nhận diện ngôn ngữ và người viết dùng để tạo ra văn bản. Ví dụ 1: Trong bài “Cậu bé thông minh” của truyện cổ Việt Nam – SGK tập 1 trang 5 nêu câu hỏi nhận diện như sau: Câu 1: Nhà vua nghĩ ra kế gì để tìm người tài ? Câu 3: Cậu bé đã làm cách nào để vua thấy lệnh của ngài là vô lí ? Ví dụ 2: Trong bài “Ai có lỗi” của A-Mi-Xi (Hoàng Thiếu Sơn dịch) – SGK tập 1 trang 13 có câu hỏi nhận diện như sau: Câu 3: Hai bạn đã làm lành với nhau ra sao ? Câu 4: Bố đã trách mắng En-ri-cô như thế nào ? Ví dụ 3: Trong bài “Chú sẻ và bông hoa bằng lăng” của Phạm Hổ – SGK tập 1 trang 26 có câu hỏi nhận diện như sau: Câu 3: Sẻ non đã làm gì để giúp đỡ hai bạn của mình ? 6 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Ví dụ 4: Trong bài “Nhà bác học và bà cụ”– SGK tập 2 - trang 32 có câu hỏi nhận diện như sau: Câu 4: Nhờ đâu mà mong ước của bà cụ được thực hiện ? Ví dụ 5: Trong bài “Tiếng đàn” của Lưu Quang Vũ – SGK tập 2 - trang 55 có câu hỏi nhận diện như sau: Câu 4: Tìm những chi tiết miêu tả khung cảnh thanh bình ngoài gian phòng như hòa với tiếng đàn ? - Hành động làm rõ nghĩa của các tín hiệu ngôn ngữ (cắt nghĩa) là những câu hỏi yêu cầu giải thích ý nghĩa. Ví dụ 1: Trong bài “Cậu bé thông minh” của truyện cổ Việt Nam – SGK tập 1trang 5 có câu hỏi loại cắt nghĩa như sau: Câu 2: Vì sao dân chúng lo sợ khi nghe lệnh của nhà vua ? Ví dụ 2: Trong bài “Ai có lỗi” – SGK tập 1 - trang 13 có câu hỏi có câu hỏi loại cắt nghĩa như sau: Câu 1: Vì sao hai bạn nhỏ giận nhau ? Câu 2: Vì sao En-ri-cô hối hận, muốn xin lỗi Cô-rét-ti ? Ví dụ 3: Trong bài “Chiếc áo len” của từ Nguyên Thạch – SGK tập 1- trang 21 có câu hỏi loại cắt nghĩa như sau: Câu 2: Vì sao Lan dỗi mẹ ? Ví dụ 4: Trong bài “Bài tập làm văn”– SGK tập 1- trang 47 có câu hỏi loại cắt nghĩa như sau: Câu 2: Vì Sao Cô-li-a thấy khó viết bài tập làm văn ? Ví dụ 5: Trong bài “Nhà ảo thuật” của BLAI-TƠN (Lương hùng dịch) – SGK tập 2 – trang 41 có câu hỏi loại cắt nghĩa như sau: Câu 1: Vì sao chị em Xô-phi không đi xem ảo thuật ? - Kĩ năng bồi đắp văn bản bao gồm kĩ năng đánh giá văn bản và kĩ năng liên hệ của cá nhân với văn bản được đọc. Chương trình tập đọc ở tiểu học thường hình thành ở học sinh kĩ năng đánh giá tính hấp dẫn, tính thuyết phục của nội dung văn bản và kĩ năng liên hệ với bản thân sau khi đọc văn bản. Trong SGK thường đưa ra những câu hỏi phản hồi. Câu hỏi phát hiện được mục đích, ý nghĩa của nội dung bài, mục đích của tác giả muốn gửi gắm vào trong văn bản. Các câu hỏi này thường là những câu hỏi cuối cùng trong bài, yêu cầu trình độ tư duy cao nhất của học sinh. Ví dụ 1: Trong bài “Ai có lỗi” của A-Mi-Xi (Hoàng Thiếu Sơn dịch) – SGK tập 1trang 13 nêu câu hỏi phản hồi như sau: Câu 5 : Theo em, mỗi bạn có điểm gì đáng khen ? Ví dụ 2: Trong bài “Chiếc áo len” của Từ Nguyên Thạch – SGK tập 1- trang 21 có câu hỏi phản hồi như sau: Câu 5: Tìm một tên khác cho truyện. M: mẹ và hai con Ví dụ 3: Trong bài “Đất quý đất yêu” – SGK tập 1- trang 85 nêu câu hỏi phản hồi như sau: 7 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Câu 4: Theo em, phong tục trên nói lên tình cảm của người Ê-ti-ô-pi-a với quê hương như thế nào ? Ví dụ 4: Trong bài “Cảnh đẹp non sông” – SGK tập 1 trang 97 có câu hỏi phản hồi như sau: Câu 3: Theo em, ai đã giữ gìn tô điểm cho non sông ta ngày càng đẹp hơn ? Ví dụ 5: Trong bài “Tiếng ru” – SGK tập 2 – trang 65 có câu hỏi phản hồi như sau: Câu 2: Hãy nêu cách hiểu của em về mỗi câu thơ trong khổ thơ 2. M: Một ngôi sao chẳng sáng đêm. -> Một ngôi sao không làm nên đêm sao sáng. -> Nhiều ngôi sao mới làm nên đêm sao sáng. Trong từng nội dung bài học, đều có các dạng câu hỏi khác nhau. Mỗi dạng câu hỏi đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Chẳng hạn : câu hỏi dạng nhận diện sẽ giúp học sinh tái hiện lại những từ ngữ, hình ảnh, nội dung của bài đọc, phù hợp với trình độ tư duy thấp của học sinh. Còn ở câu hỏi cắt nghĩa và dạng câu hỏi phản hồi có tác dụng phát huy được khả năng sáng tạo, độc lập của từng học sinh, phù hợp với học sinh khá, giỏi. Do các em có hiểu được rõ nghĩa của từ, rõ nội dung thông báo, có kĩ năng làm rõ ý, đoạn, ý chính của văn bản và tìm được ý chung của bài, của đoạn và khái quát hóa tóm tắt nội dung đã học. Biết làm rõ đích của người viết gửi vào văn bản. Học sinh có khả năng tư duy cao, biết đánh giá tính hấp dẫn, tính thuyết phục của nội dung văn bản và kĩ năng liên hệ với bản thân. Bên cạnh những ưu điểm của dạng câu hỏi còn có những điểm hạn chế như sau: - Sự sắp xếp hệ thống nội dung các câu hỏi chưa thật hợp lí. Chẳng hạn câu hỏi dạng cắt nghĩa thường được sắp xếp ở vị trí số 3, số 4 trong bài. Song ngược lại có bài lại đặt ở vị trí số 1, số 2 như đã nêu ở trên. Mặt khác nhiều câu hỏi còn mang tính chất áp đặt, máy móc, diễn đạt còn vụng về và đôi khi còn hỏi đón đầu. Chẳng hạn như câu 3 (dạng nhận diện) trong bài “Ai có lỗi”: + Hai bạn đã làm lành với nhau ra sao ? hoặc câu 1 trong bài “Chiếc áo len”: + Chiếc áo len của bạn Hòa đẹp và tiện lợi như thế nào ? hoặc câu 1 trong bài “Cửa Tùng” : + Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải có gì đẹp ? Căn cứ vào những mặt hạn chế trên. Vấn đề đặt ra là cần “Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 3 bằng hệ thống câu hỏi”. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi đọc hiểu, thực chất là đổi mới phương pháp dạy – học tập đọc ở tiểu học. Sự điều chỉnh nội dung dạy học tập đọc rèn kĩ năng hiểu bằng hệ thống câu hỏi cho học sinh tiểu học với cách làm sau: - Kiểm tra, thống kê lại hệ thống các câu hỏi trong SGK để chuyển đổi hoặc bổ sung những câu chữ sao cho phù hợp với sự sắp xếp thứ tự nội dung câu hỏi theo trình độ tư duy phát triển từ thấp đến cao. Từ đó học sinh sẽ luôn tích cực hóa hoạt động, tự 8 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> giác trong giờ học, phát huy hết nội lực trong bản thân của mỗi học sinh ở các mức độ cao thấp khác nhau. - Điều chỉnh các câu hỏi để tránh sự áp đặt máy móc hoặc câu hỏi quá khó đối với học sinh. - Đảm bảo sự đa dạng phong phú của nội dung câu hỏi, tránh sự thiết kế câu hỏi đón đầu, diễn đạt vụng về, câu, chữ tối nghĩa, mục đích hỏi không rõ ràng. Để khắc phục những nhược điểm trên và hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã tiến hành tìm hiểu học sinh và giáo viên trường tiểu học Kỳ Sơn. + Về học sinh: có nhiều học sinh tiếp thu còn chậm, trình độ văn hóa của các em không đồng đều, số học sinh khá, giỏi còn hạn chế. + Về giáo viên: Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy việc rèn kĩ năng đọc hiểu qua bước tìm hiểu bài bằng hệ thống câu hỏi trong SGK được giáo viên sử dụng một cách máy móc, khuôn mẫu, chưa linh hoạt. Giáo viên thường cứ tuân thủ theo câu hỏi SGK đã viết sẵn, nên học sinh khó trả lời được câu hỏi khi tìm hiểu bài. Khi dạy giáo viên dựa vào câu hỏi để vấn đáp, đàm thoại với học sinh rồi qua câu trả lời của học sinh giáo viên giải thích từ để học sinh tái hiện lại bài tập đọc mà thường là chưa đi sâu vào hiểu nội dung của bài đọc, đôi khi giáo viên còn giảng giải lấn át cả phần luyện đọc của học sinh. Trình độ của giáo viên không đồng đều, một số còn chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp, việc nắm bắt phương pháp còn hơi chậm, chưa thật năng động, sáng tạo. Nhiều khi giáo viên vẫn còn mang thói quen dạy theo lối cũ, chưa tích cực đổi mới phương pháp. Một số giáo viên còn máy móc, lệ thuộc khi sử dụng SGK và sách hướng dẫn của giáo viên. Đôi lúc thể hiện không linh hoạt vận dụng với điều kiện thực tế của lớp, của trường và địa phương mình. Mặt khác phương tiện đồ dùng dạy học, cơ sở vật chất của giáo viên còn thiếu thốn. Xuất phát từ thực tế trên, tôi có đề xuất một số giải pháp nhằm “Rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 3 bằng hệ thống câu hỏi.”. 9 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Chương 3 Sử dụng hiệu quả bằng hệ thống câu hỏi để rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 3. Những đổi mới của phương pháp dạy học tập đọc nằm trong quỹ đạo của đổi mới về phương pháp dạy học của chương trình tiểu học đó là: “ Chương trình tiểu học 2000” chuyển từ dạy học nặng nề về cung cấp kiến thức sang dạy học gắn với thực hành, vận dụng gắn với đời sống thực tế, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Chương trình tiểu học 2000 đặt trọng tâm vào đổi mới cách dạy, cách học, thực hiện dạy học dựa trên các hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức, hướng dẫn, hợp tác của giáo viên, động viên học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề để tự chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng chúng trong đời sống. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi: Lựa chọn các nội dung dạy học cơ bản thiết thực, tinh giản, tích hợp được nhiều mặt giáo dục, gần gũi với đời sống của trẻ em, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Chuyển dạy học theo lối truyền đạt, đọc chép là chủ yếu thành các hoạt động giáo dục trong đó học sinh là chủ thể của hoạt động với sự trợ giúp không thể thiếu được của tài liệu học tập (đặc biệt là SGK) và các đồ dùng học tập với sự hướng dẫn hợp lí của giáo viên. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, trong đó có dạy học theo lớp, theo nhóm nhỏ, dạy học ở trong phòng, ở thư viện, ở vườn trường, ở các nơi khác ở địa phương với nhiều các phương tiện dạy học hiện đại, phù hợp. Đặc biệt là khuyến khích tổ chức các trò chơi học tập để việc học tập của học sinh luôn gắn với đời sống thực tế, giảm bớt những căng thẳng không cần thiết trong dạy học. Đổi mới cách đánh giá kết quả học tập của học sinh. Trọng nghĩa bao quát nhất, phương pháp chính là “Ý thức về hình thức của sự tự vận động bên trong của chính nội dung” (Hê – ghen). Việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt chính là việc ngày càng tìm cách đi vào bản chất của quá trình dạy học này. Và dạy tập đọc cũng nằm trong quỹ đạo đó. Mục đích cuối cùng của dạy tiếng mẹ đẻ là hình thành ở học sinh những kĩ năng hoạt động giao tiếp ngôn ngữ - người học sử dụng được ngôn ngữ như một ngôn ngữ thông tin giao tiếp. Đơn vị của việc dạy và học tiếng là các hành động lời nói chứ không phải là các đơn vị ngôn ngữ đã trìu tượng hóa. Hành động nói năng tạo ra đặc trưng của quá trình dạy và học tiếng. Muốn tối ưu hóa quá trình dạy học tiếng Việt phải tối ưu hóa hoạt động nói năng của học sinh. Ở trường tiểu học, dạy tiếng Việt là tổ chức hoạt động lời nói. Đối với học sinh, có thể xem việc giải bài tập Tiếng Việt (trong đó có cả câu hỏi) là hình thức chủ yếu của hoạt động tiếng Việt. Các bài tập Tiếng Việt là một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ, phát triển tư duy. Hoạt động giải bài tập Tiếng Việt là điều kiện để thực hiện tốt các mục đích dạy học tiếng Việt. Vì vậy tổ chức thực hiện có hiệu 10 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> quả các bài tập Tiếng Việt có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy học tiếng Việt. Trong thực tế dạy học nhiều năm nay, giáo viên lên lớp giờ tập đọc chủ yếu bằng phương pháp truyền thụ kiến thức, trò thụ động tiếp thu. Hoạt động chủ yếu của học sinh lúc này là nghe và thỉnh thoảng trả lời câu hỏi của thầy. Trong giờ tập đọc, các kết luận của giờ dạy đã có sẵn và được giáo viên áp đặt cho học sinh: Giáo viên nêu ra các từ khó hiểu rồi tự giải thích. Khi luyện đọc đúng, đọc hay đôi khi giáo viên cũng áp đặt nó cho học sinh: cần đọc bài với giọng như thế nào, cần nhấn giọng, ngắt nhịp ra sao,...giáo viên nêu ra cách hiểu của mình về bài giảng, cảm thụ của mình cho học sinh nghe, ghi nhớ và nhắc lại. Như vậy, mục tiêu giờ Tập đọc từ đầu giờ đã có ở giáo viên thì cuối giờ vẫn nằm ở phía giáo viên. Học sinh chỉ là người minh họa, làm rõ bằng một số chi tiết hoặc nhắc lại một số kết luận đã có sẵn mà không biết bằng con đường nào để có được kết luận đó. Phương pháp dạy học tập đọc mới đòi hỏi chúng ta phải xây dựng giờ học thành một hệ thống việc làm mà việc thực hiện chúng như một lô-gíc tất yếu sẽ đem lại kết quả giờ học ở phía học sinh. Chính vì vậy, bài tập rất quan trọng trong dạy học tập đọc. Để tiến hành một giờ dạy, giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi thích hợp. Khi xem xét hệ thống câu hỏi, chúng ta cũng có thể dễ dàng hình dung đích của một giờ tập đọc. Có thể nói việc tổ chức hoạt động rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh bằng hệ thống câu hỏi đã tạo ra sự khác biệt về chất giữa tập đọc trước đây và dạy học tập đọc theo kiểu mới hiện nay. Các câu hỏi ở SGK đôi lúc còn mang tính áp đặt, câu từ còn khó hiểu, hệ thống câu hỏi sắp xếp chưa thật phù hợp với đối tượng học sinh ở từng vùng miền theo sự phát triển tư duy cao dần. Điều này gây ra sự hạn chế số lượng học sinh trả lời câu hỏi, hoặc trả lời câu hỏi chưa trọng tâm, dãn đến các em sẽ nhàm chán, chưa thật tích cực hoạt động trong giờ học, không gây cho các em sự hứng thú trong giờ học. 3.1. Trong phương pháp dạy học mới hiện nay, chúng ta phải luôn chú ý đến việc lấy học sinh làm trung tâm. Xem học sinh của lớp mình giỏi hay yếu để điều chỉnh nội dung câu hỏi sao cho phù hợp bằng cách: không nên quá lệ thuộc vào SGK và sách giáo viên, mà giáo viên phải linh hoạt để cắt bỏ những câu hỏi thừa, khó, tách nhỏ ý hoặc điều chỉnh lại hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. 3.2. Khắc phục điều chỉnh những hạn chế của câu hỏi trong SGK. 3.2.1. Sắp xếp lại hệ thống câu hỏi cho phù hợp với sự phát triển tư duy của học sinh, đi từ dễ đến khó. Ví dụ: Đối với bài “Cậu bé thông minh” tôi có thể chỉnh sắp xếp lại hệ thống như sau: Câu 1: Nhà vua nghĩ ra kế gì để tìm người tài ? Câu 2: Cậu bé đã làm cách nào để vua thấy lệnh của ngài là vô lí ? Và chỉnh sửa Câu 3: Hôm sau, cậu bé yêu cầu người về tâu với vua điều gì ? Câu 4: Vì sao cậu bé yêu cầu như vậy ? Câu 5: Vì sao dân chúng lo sợ khi nghe lệnh của nhà vua ? 11 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 3.2.2. Chỉnh sửa, giảm độ khó của câu hỏi: Hoặc ví dụ: Đối với bài “Chiếc áo len” SGK có câu 1 là câu hỏi nhận diện, song diễn đạt câu, chữ còn vụng về, còn mang tính áp đặt, đón đầu. Câu 2 là câu cắt nghĩa, song là một câu hỏi khó đối với học sinh, nên tôi sẽ chỉnh sửa nội dung câu hỏi theo hệ thống sau: Sửa câu 1: Chiếc áo len của Hòa có gì hấp dẫn ? Câu 2: Anh Tuấn nói với mẹ những gì ? Câu 3: Vì sao Lan dỗi mẹ ? Câu 4: Vì sao Lan ân hận ? Câu 5: Tìm một tên khác cho truyện ? Hoặc ví dụ: Đối với bài “ Cửa Tùng” SGK có câu 1, câu 3 là câu hỏi nhận diện nhưng mang tính áp đặt và hỏi đón đầu hoặc còn khó đối với học sinh, nên tôi sẽ chỉnh sửa nội dung câu hỏi theo hệ thống sau: Sửa câu 1: Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải thế nào ? Sửa câu 2: Nước biển Cửa Tùng có mấy sắc màu ? Đó là những màu nào ? Câu 3: Người xưa so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì ? Câu 4: Em hiểu thế nào là “Bà chúa của các bãi tắm” 3.2.3. Biên soạn các phiếu đánh giá kết quả học tập: Sau mỗi tiết dạy hay mỗi tuần, mỗi tháng, học kỳ. Giáo viên cần kiểm tra mức độ nhận thức của học sinh. Vì thế, cần biên soạn phiếu để đánh giá kết quả học tập của học sinh và từ kết quả đó giáo viên điều chỉnh lại phương pháp dạy học của mình sao cho phù hợp để học sinh hiểu bài. Phiếu đánh giá kết quả học sinh cần có: - Đánh giá mức độ hiểu nội dung bài đọc của học sinh bao gồm cả năng lực đọc thể hiện và cảm thụ bài. - Đánh giá mức độ thành thạo các việc làm để tự hình thành các kĩ năng đọc văn bản. Trong một tiết học, tùy từng văn bản, tùy từng nội dung bài đọc cụ thể mà giáo viên lựa chọn các phương pháp cụ thể để giờ học đạt được mục đích trong khuôn khổ thời gian quy định. Để đảm bảo thời gian và chất lượng giờ học thì học sinh cần đọc trước văn bản để tìm hiểu về nội dung và chuẩn bị trả lời câu hỏi trong SGK. - Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ các câu hỏi cho giờ dạy. Những câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài phải đơn giản, cô đọng, hàm xúc, dễ hiểu, gợi mở, nhiều hướng thực hiện, sắp xếp theo một hệ thống hợp lí. Số lượng chừng mực, vừa phải. Mỗi câu hỏi là một bước đi gần hơn tới mục đích giờ học. - Giáo viên phải phối hợp sáng tạo, linh hoạt các phương pháp vào bài giảng sao cho uyển chuyển, nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao. - Đồ dùng dạy học, tranh minh họa phải đầy đủ và có chất lượng, đảm bảo tính khoa học. - Giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm. Luôn trau dồi kiến thức, luôn thay đổi phương pháp trong mỗi giờ dạy. 12 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Chương 4 DẠY THỰC NGHIỆM Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm, những ý kiến đề xuất nêu trên qua bài dạy. Vì tôi thấy phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. 1. Nội dung dạy thực nghiệm: Dạy thực nghiệm ở lớp 3B Dạy bài: “Cửa Tùng” Theo hướng dùng hệ thống câu hỏi, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài. Cuối tiết dùng phiếu thực nghiệm để đo khả năng hiểu bài của học sinh. 2. Địa bàn, đối tượng thực nghiệm: - Địa bàn: Trường tiểu học Kỳ Sơn - Đối tượng thực nghiệm: các em đều là học sinh vùng nông thôn, chủ yếu là học sinh thuộc địa bàn trong xã, trình độ dân trí còn có phần hạn chế, kinh tế còn khó khăn. Do vậy, việc học tập của các em đại đa số chỉ dừng ở mức độ đạt chuẩn. 3. Dạy lớp 3B tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phỏng vấn giáo viên, dự giờ thăm lớp. Dự tiết tập đọc, quan sát nội dung phương pháp dạy của giáo viên, quá trình làm bài ở lớp, việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp của học sinh . Trao đổi với các bạn đồng nghiệp, với học sinh. - Nghiên cứu các tài liệu chuyên môn, nghiên cứu thực trạng - Phương pháp đo kết quả, thống kê và xử lí số liệu - Dạy thử, rút kinh nghiệm, xây dựng bằng hệ thống câu hỏi 4. Thực nghiệm: a. Nội dung phiếu học tập và phiếu thực nghiệm: PHIẾU HỌC TẬP Bài: “Cửa Tùng” Họ và tên: Lớp : Trường : Câu 1: Tác giả đã chọn những chi tiết nào để tả cảnh hai bên bờ sông Bến Hải ? Câu 2: Nước biển Cửa Tùng có mấy sắc màu ? Đó là những màu nào ? Câu 3: Người xưa so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì ? Câu 4: Em hiểu thế nào là “Bà chúa của các bãi tắm” ? b. Nội dung giáo án:. 13 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> BÀI SOẠN NGHIÊN CỨU MÔN: TẬP ĐỌC Bài dạy: “Cửa Tùng” Người dạy: chủ đề tài Lớp dạy: 3B. Trường tiểu học Kì Sơn. I. MỤC TIÊU:. - Đọc rành mạch, trôi chảy, bước đầu biết đọc với giọng có biểu cảm, ngắt nghỉ hơi đúng các câu văn. - Hiểu ND: Tả vẻ đẹp kì diệu của Cửa Tùng – một cửa biển thuộc miền Trung nước ta. - GDHS cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, từ đó thêm yêu quý môi trường xung quanh, có ý thức BVMT. II. ĐỒ DÙNG:. - Tranh minh hoạ bài trong SGK. Bản đồ Việt Nam. - Một số tranh, ảnh về Cửa Tùng. Một chiếc nhẫn bạch kim. - Nội dung phiếu học tập. Bảng phụ ghi nội dung cần hướng dẫn luyện đọc. III. HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC:. Hoạt động của GV 1. Kiểm tra bài cũ: ( 5’ ) - Mỗi em kể lại một đoạn câu chuyện Người con của Tây Nguyên. - Câu chuyện ca ngợi ai? - HS, GV nhận xét, đánh giá. 2. Dạy bài mới: ( 30 – 32’ ) - GV treo tranh minh hoạ và yêu cầu HS kể các màu có trong bức tranh minh họa Cửa Tùng. - Giới thiệu: Bài tập đọc hôm nay sẽ đưa các em đến thăm Cửa Tùng một cửa biển đẹp nổi tiếng ở miền Trung. Cửa Tùng là một cửa biển kĩ vĩ, nước biển thay đổi theo tưng thời điểm trong ngày tạo nên bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. - Ghi tên bài lên bảng. 2.2. Luyện đọc a) Đọc mẫu - GV đọc mẫu toàn bài một lần. b) Hướng dẫn luyện đọc kết hợp giải nghĩa từ - Gọi đọc từng câu đến hết bài. Hoạt động của HS - 2 HS lần lượt kể đoạn 2, 3 của truyện.. Thuyết minh - HS dưới lớp nghe và nhận xét bạn kể.. - 1 HS trả lời.. - HS quan sát tranh và kể ... - Nghe giới thiệu. - 1 HS nhắc lại tên bài, lớp ghi vở. - Theo dõi GV đọc mẫu - HS nối tiếp nhau. - HS khác 14. Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> + GV theo dõi HS đọc và phát hiện tiếng, từ HS đọc chưa chuẩn và ghi lên bảng. VD: Cứu nước, lũy tre làng, nước biển xanh lơ, chiếc lược,... - Hướng dẫn đọc từng đoạn và kết hợp giải nghĩa từ khó. + Bài được viết xuống dòng mấy lần ? + GV : mỗi lần xuống dòng là một đoạn. Vậy bài được chia làm mấy đoạn ? + Yêu cầu HS đọc từng đoạn trước lớp. Theo dõi HS đọc bài và hướng dẫn nhấn giọng, ngắt, nghỉ hơi ở câu dài. + Theo em trong bài câu nào dài, khó đọc ? VD: Bình minh, /mặt trời như chiếc thau đỏ ối /chiếu xuống mặt biển,/ nước biển nhuộm màu hồng nhạt.// Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục.// Hoặc câu: Người xưa đã ...của sóng biển. + GV gạch chân 1 số từ và ngắt nghỉ hơi trong câu + GV cùng HS tập giải nghĩa 1 số từ khó + GV cho HS quan sát chiếc nhẫn bạch kim. + GV giảng thêm từ: dấu ấn lịch sử. đọc câu - 1 số HS nhìn bảng đọc cá nhân, đồng thanh.. theo dõi bạn đọc. - Cả lớp đồng thanh.. - 1 HS trả lời:.. 3 lần. - 1 HS trả lời - 3 HS nối tiếp nhau đọc bài. - HS nêu - HS nêu nhấn giọng ; ngắt, nghỉ hơi trong câu văn.. - 1 HS đọc chú giải SGK: Bến Hải, Hiền Lương, đồi mồi, bạch kim,.. - Nghe GV. - GV treo bảng phụ viết câu HS nêu. - HS tự phát hiện cách đọc.. - HS quan sát nhẫn và nhận biết bạch kim. - Cả lớp theo dõi.. - Yêu cầu HS nối tiếp nhau đọc bài trước lớp, - 3 HS nối tiếp nhau mỗi em đọc 1 đoạn. đọc bài - Yêu cầu HS luyện đọc theo nhóm - Mỗi nhóm 3 HS, lần lượt từng HS đọc 1 đoạn trong nhóm. - Tổ chức thi đọc giữa các nhóm - 2 nhóm thi đọc tiếp - Các nhóm nối. khác theo dõi, bình chọn + HS, GV cổ vũ, động viên. nhóm đọc tốt. 2.3. Hướng dẫn tìm hiểu bài: - Gọi HS đọc lại cả trước lớp - 1 HS đọc - Cả lớp theo dõi. - Yêu cầu HS đọc đoạn 1 - 1 HS đọc thành - Cả lớp đọc tiếng. thầm theo. + Cửa Tùng ở đâu ? - 1 HS có thể + GV treo bản đồ, giới thiệu vị trí sông Bến - Nghe giảng lên chỉ trên 15 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Hải. + Câu 1: Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải thế nào ? - Yêu cầu HS đọc đoạn 2 của bài + Câu 2: Nước biển Cửa Tùng có mấy sắc màu ? Đó là những màu nào ? + Câu 3: Người xưa so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì ? + GV cho HS quan sát 1 số tranh, ảnh về Cửa Tùng + Câu 4: Em hiểu thế nào là “Bà chúa của các bãi tắm” + Hỏi thêm: Em thích nhất điều gì ở Cửa Tùng ? * GV củng cố: ý đúng và cho HS liên hệ về việc bảo vệ môi trường xung quanh, giáo dục HS có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi cảnh đẹp của quê hương, đất nước. 2.4. Luyện đọc lại bài: - Tổ chức cho HS luyện đọc lại đoạn 2 của bài. - 1 HS trả lời - 1 HS đọc thành tiếng, HS cả lớp đọc thầm và tự đặt câu hỏi cho bạn trả lời. - 1 HS hỏi – 1 HS trả lời. - 1 – 2 HS lần lượt trả lời. - HS quan sát, cảm nhận vẻ đẹp.. bản đồ. - HS khác nhận xét, bổ sung. - HS thảo luận nhóm đôi. - HS khác nhận xét, bổ sung.. - 1 vài HS nêu - Vài HS phát biều theo suy nghĩ riêng của mình. - HS tự liên hệ - 1 HS đọc mẫu đoạn 2. - HS cả lớp tự luyện đọc. - 3 – 5 HS thi đọc đoạn 2. - HS, GV nhận xét, bình chọn bạn đọc đúng, đọc hay nhất, động viên, ghi điểm. 3. Củng cố, dặn dò: ( 3’ ) - Nêu nội dung bài học hôm nay ? Bài viết về - 1 HS nêu gì ? Ở đâu ? - Nhận xét tiết học, về chuẩn bị trước bài sau.. - Cả lớp nghe.. 16 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> PHIẾU KIỂM TRA 15 PHÚT BÀI: Cửa Tùng Câu 1: Tìm trong bài những hình ảnh tả ảnh hai bên bờ sông Bến Hải ? Câu 2: Nêu những màu sắc thay đổi theo thời gian của nước biển Cửa Tùng ? Câu 3: Người xưa so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì ? C, Kết quả: Tổng Điểm Lớp số HS Giỏi Khá TB Yếu TS % TS % TS % TS % 3B dạy thực nghiệm. 24. 8. 33. 12. 50. 4. 17. 0. 0. 3A không dạy 24 5 21 8 33 11 46 0 0 thực nghiệm d) Nhận xét: Qua việc thực nghiệm dạy học, tôi thấy phương pháp dạy tập đọc hiểu bằng hệ thống câu hỏi có những ưu điểm sau: Hoạt động của học sinh đã trở thành hoạt động trung tâm trong giờ học. Học sinh được hoạt động tích cực, tự giác. Học sinh vừa hiều nội dung bài vừa hình thành và rèn luyện các thao tác đọc văn bản, phát huy được nhịp độ cá thể trong giờ học, tự đọc và tham gia đánh giá kết quả của mình, được giao lưu, hợp tác trong quá trình học, được rèn luyện để phát huy tư duy, phát huy tính năng động, sáng tạo để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Học sinh có những biến đổi về nhân cách như: thói quen đọc lập suy nghĩ, làm việc tự tin, ham học và năng lực hợp tác với bạn, hợp tác giữa các nhóm,... trong các công việc cần giải quyết. Kết quả học tập được nâng lên rõ rệt. Giáo viên có điều kiện tổ chức mọi hoạt động của học sinh, cùng HS tham gia nhận xét, đánh giá và tìm hiểu để cùng đưa ra kết luận đúng. Do đó mối quan hệ giữa thầy và trò gần gũi hơn, học sinh tự tin và năng động, sáng tạo hơn. Hệ thống câu hỏi đa dạng, hợp lí, phù hợp với trình độ học sinh, gây hứng thú, thi đua trong học tập. Rèn thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Chính vì vậy nên chất lượng đọc hiểu của học sinh theo giáo án thực nghiệm cao hơn thực tế dạy học.. Số lượng HS khá, giỏi tăng lên rõ rệt. Số HS đạt chuẩn về chất lượng đạt 100 %.. 17 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> PHẦN KẾT LUẬN. Để học sinh tiểu học có năng lực và kĩ năng đọc hiểu, việc đầu tiên người thầy cần xác định rõ mục tiêu, nội dung dạy học cho từng giờ tập đọc, cần phải dạy đọc hiểu có định hướng, có kế hoạch ngay từ lớp đầu cấp, nhưng không phải bằng cách tăng thời gian tìm hiểu bài, giảm thời gian luyện đọc mà là coi trọng dung lượng đọc. Tức là xác định được nội dung đọc hiểu như xác định ngữ điệu nội dung từng đoạn của bài để xác định các yếu tố nghệ thuật và giá của chúng trong việc diễn đạt nội dung. Khi giảng dạy giáo viên cần chú ý đến nội dung của bài tập đọc, những bài có yếu tố nghệ thuật, tránh sự áp đặt. Cách chuyển những yếu tố nghệ thuật tới HS không chỉ lí thuyết giảng từ, đàm thoại mà phải thông qua rèn kĩ năng đọc hiểu bằng hệ thống câu hỏi cho HS. Qua nghiên cứu và thực hành dạy tập đọc hiểu thông qua việc sử dụng hệ thống câu hỏi, tôi thấy: Đây là một phương pháp có hiệu quả hơn hẳn so với phương pháp dạy học truyền thống. Song việc xây dựng các câu hỏi phải phù hợp với trình độ từ lớp, trường, từng bài cụ thể. Khi dạy, Giáo viên phải đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ nội dung bài, đọc câu hỏi SGK để chỉnh sửa cho hợp lí. Học sinh phải có đủ tài liệu, đồ dùng học tập và chuẩn bị bài chu đáo thì tiết học mới đạt hiệu quả cao. Mặt khác muốn việc dạy – học đạt hiệu quả cao, người thầy phải biết vận dụng phù hợp các phương pháp dạy học, bởi không một phương pháp nào là vạn năng cả.. 18 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> ĐỀ XUẤT CÁ NHÂN. I. Đối với cấp cơ sở: 1, Đối với HS: - Cần chuẩn bị đọc và nghiên cứu nội dung bài trước khi đến lớp. - Trong lớp tích cực, chủ động học tập. - Có đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng để học tập 2, Đối với giáo viên: - Luôn say mê với nghề nghiệp, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục. - Tích cực học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp, học tập chuyên san, chuyên đề, tạp chí giáo dục Tiểu học. - Thường xuyên tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho bản thân để không ngừng đổi mới phương pháp dạy và học, đáp ứng nhu cầu học tập hiện nay. - Tạo điều kiện về thời gian để nghiên cứu kĩ nội dung bài học. Từ đó có biện pháp khắc phục, chỉnh sửa những câu hỏi khó, những từ ngữ còn diễn dạt vụng về, sắp xếp nội dung các câu hỏi sao cho phù hợp với mức độ phát triển tư duy của học sinh theo từng nội dung bài học. - Đi sâu đi sát học sinh để nắm được trình độ của từng em, của từng lớp mà giáo viên có yêu cầu cụ thể. II. Đối với các cấp lãnh đạo: - Cần có thêm trang thiết bị, tài liệu phù hợp hơn, để phục vụ cho giảng dạy. - Tăng cường tổ chức các hội thảo, chuyên đề để thống nhất về nội dung, phương pháp, khắc phục những mặt còn hạn chế về hệ thống câu hỏi ở SGK. Luôn chú ý chỉnh sửa nội dung câu hỏi cho phù hợp với thực tế đối tượng học sinh của từng vùng, miền trong từng bài học - Tạo điều về thời gian, về cơ sở chất để cho giáo viên đi sâu nghiên cứu về nội dung và phương pháp giảng dạy. Cần cắt bỏ những việc làm chỉ mang tính hình thức không hiệu quả cao trong giáo dục. Trên đây là một số kinh nghiệm của riêng tôi, xin mạnh dạn được trao đổi cùng các bạn. Trong quá trình thực hiện viết sáng kiến, không sao tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và sự giúp đỡ của các cấp lãnh đạo để bản sáng kiến thêm phong phú và hoàn thiện hơn.. ..........., ngày ........tháng 3 năm 2012. 19 Lop3.net.

<span class='text_page_counter'>(20)</span>

×