Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Môn: Xây dựng sản phẩm du lịch Bài tập: Xây dựng sản phẩm mới: “Hương xưa làng cổ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.88 KB, 30 trang )

Bài tập thuyết trình: từ những ý tưởng của mình, anh (chị) hãy xây dựng
1 sản phẩm du lịch mới. (thể hiện thơng qua 1 chương trình du lịch trọn gói).
Bài tập: Xây dựng sản phẩm mới: “Hương xưa làng cổ”
Môn: Xây dựng sản phẩm du lịch

1. Mở đầu:
Du lịch nơng nghiệp trên thế giới rất được coi trọng vì đã chứng minh
được sự đóng góp to lớn khơng những về mặt kinh tế mà còn về các mặt xã
hội, bảo vệ môi trường gốc rễ về tự nhiên, văn hóa và lịch sử. Trong tiến trình
cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa các nước đều dùng giải pháp này để giảm
thiểu khoảng cách bất công giàu nghèo về khoảng cách thu nhập giữa thành
thị và nông thôn khi chỉ chú trọng thái quá đến sự phát triển bất động sản đô
thị và xây dựng các khu công nghiệp .Thực chất đây là một hình thức phát
triển mối giao hịa về mặt tự nhiên, văn hóa và con người giữa các đô thị và
nông thôn thông qua việc đến ở (homestay) hoặc tham quan có mục đích
nhằm hưởng thụ các sản vật địa phương tại từng nơng hộ gia đình hoặc trang
trại. Bên cạnh đó cịn được thưởng ngoạn các danh lam thắng cảnh và tham
gia văn hóa đồng quê nên du lịch nông nghiệp đã được khẳng định là một hình
thức du lịch mang tính cộng đồng bình đẳng và bền vững. cùng với đó du
khách có thể cùng hoạt động, trải nghiệm công việc hàng ngày với cư dân địa
phương.
Việt Nam là một quốc gia có bề dày lịch sử phát triển nền sinh thái
nông nghiệp dựa trên nền sinh thái thiên nhiên có tài nguyên đa dạng sinh
học. Đa dạng sinh học là chiếc nôi sống, nơi sản sinh ra các thảm phủ sinh
1


thái tự nhiên cho việc phát triển và tồn tại bền vững một nền sinh thái nông
nghiệp với các sản vật thiên nhiên độc đáo. Đó cũng là cái lõi chính để đặt
nền móng cho việc phát triển các sản phẩm du lịch nông nghiệp bền vững đủ
sức cạnh tranh trên thi trường quốc tế ở một nước nông nghiệp như Việt nam.


Sự nghiệp nông nghiệp, nông thôn và nông dân đang tiến hành sâu rộng
theo chủ trương đổi mới nơng thơn về các mặt của Đảng và Chính phủ hiện
nay sẽ tạo một môi trường thuận lợi cho việc phát triển du lịch nông nghiệp
tại các làng nghề nông lâm ngư nghiệp truyền thống ở nước ta và ngược trở
lại du lịch nông nghiệp sẽ là động lực thúc đẩy cho việc thực hiện phong trào
nông thôn mới với tốc độ vừa nhanh vừa bền vững do không những tham gia
tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ,mở rộng đầu ra của sản phẩm mà
còn bảo tồn được các giá trị văn hóa gốc của nơng thơn hoặc giá trị về thương
hiệu hàng hóa đặc thù .
Ở Việt Nam, rất nhiều địa phương đã tổ chức thành cơng hình thức du
lịch nơng nghiệp, nơng thơn, và làng Đường Lâm cũng là một địa điểm khá
thích hợp cho việc tổ chức du lịch này.
Đường Lâm là một xã thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội, Việt Nam. Đường
Lâm trở thành làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước trao bằng Di tích
lịch sử văn hóa quốc gia ngày 19 tháng 5 năm 2006.
Đây là quê hương nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố Cái Đại
vương Phùng Hưng, Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của hai Bà
Trưng), bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh

2


Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm
còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Ngô Quyền và Phùng Hưng
Tuy gọi là làng cổ nhưng thực ra Đường Lâm từ xưa gồm 9 làng thuộc
tổng Cam Giá Thịnh huyện Phúc Thọ trấn Sơn Tây, có 5 làng Mơng Phụ,
Đơng Sàng, Cam Thịnh, Đoài Giáp và Cam Lâm liền kề nhau. Các làng này
gắn kết với nhau thành một thể thống nhất với phong tục, tập quán, và tín
ngưỡng hàng ngàn năm nay không hề thay đổi. Đầu thế kỷ 19, Đường Lâm là
nơi đặt lỵ sở của trấn Sơn Tây.

Vị trí:
Làng cổ Đường Lâm nằm bên hữu ngạn sơng Hồng (bờ phía Nam),
cạnh đường Quốc lộ 32, tại ngã ba giao cắt với đường Hồ Chí Minh. Con sơng
Tích Giang chảy từ hướng hồ Suối Hai huyện Ba Vì, qua Đường Lâm, để vào
thị xã Sơn Tây. Đường Lâm giáp xã Cam Thượng (tức Cam Giá Thượng)
huyện Ba Vì ở phía Tây và Tây Bắc. Tây Nam giáp xã Xn Sơn, phía Nam
giáp xã Thanh Mỹ, phía Đơng Nam giáp phường Trung Hưng, phía Đơng giáp
phường Phú Thịnh, đều của thị xã Sơn Tây. Phía Bắc Đường Lâm tiếp giáp
với huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ranh giới là sông Hồng.
Di sản kiến trúc
Ngày nay, làng Đường Lâm vẫn giữ được hầu hết các đặc trưng cơ bản
của một ngôi làng người Việt với cổng làng, cây đa, bến nước,
sân đình, chùa, miếu, điếm canh, giếng nước, ruộng nước, gò đồi. Hệ thống
đường xá của Đường Lâm rất đặc biệt vì chúng có hình xương cá.

3


Một điểm đặc biệt là Đường Lâm còn giữ được một cổng làng cổ ở
làng Mông Phụ. Đây không phải là một cổng làng như các cổng làng khác ở
vùng Bắc Bộ có gác ở trên mái với những mái vịm cuốn tị vị mà chỉ là một
ngơi nhà hai mái đốc nằm ngay trên đường vào làng. Cũng ở làng Mơng Phụ
có đình Mơng Phụ - được xây dựng năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê
Hy Tông) - là ngơi đình đặc trưng cho đình Việt truyền thống. Sân đình thấp
hơn mặt bằng xung quanh nên khi trời mưa, nước chảy vào sân rồi thoát ra
theo hai cống ở bên tạo thành hình tượng hairâu rồng. Hàng năm, đình tổ chức
lễ hội từ mùng Một đến mùng Mười tháng Giêng âm lịch với các trò chơi như
thu lợn thờ, thi gà thờ...
Về nhà cổ, ở Đường Lâm có 956 ngơi nhà truyền thống trong đó các
làng Đơng Sàng, Mơng Phụ và Cam Thịnh lần lượt có 441, 350 và 165 nhà.

Cị nhiều ngơi nhà được xây dựng từ rất lâu (năm 1649, 1703, 1850...). Đặc
trưng của nhà cổ truyền thống ở đây là tất cả đều được xây từ những khối
xây bằng đá ong.
Trong số 8 di tích lịch sử - văn hóa ở Đường Lâm (có đình Mơng
Phụ), chùa Mía (tức Sùng Nghiêm tự) được Bộ Văn hóa Thơng tin xếp vào
loại đặc biệt. Chùa có 287 pho tượng gồm 6 tượng đồng, 107 tượng gỗ và 174
tượng đất (làm từ đất sét, thân và rễ cây si).
2. Tên tour: hương xưa làng cổ
Tour du lịch trải nghiệm làng quê, du lịch nông nghiệp, nông thôn tại
làng Việt cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
4


3. Lợi ích của khách hàng:
Du lịch trải nghiệm làng quê với điểm nhấn: giúp du khách có trải
nghiệm, cảm nhận không gian làng quê cổ ở làng quê cổ. có thể trả nghiệm
những cơng việc của cư dân nơng nghiệp, các nghề truyền thống tại làng cổ
Đường Lâm. Sau những ngày học, làm việc vất vả, mệt mỏi, mọi người có
một chuyến du lịch về Đường Lâm – một vùng quê cổ và thanh bình.
Tại đây khách hàng được tham quan 1 trong số những di tích lịch sử văn hóa của văn hóa xứ Đồi.
Du khách cũng được tham gia trải nghiệm quá trình tạo ra sản vật để
hiểu về nguồn gốc và lịch sử văn hóa canh tác, sơ chế, chế biến và q trình
thương mại hóa sản phẩm. Nói cách khác các sản vật mang tính văn hóa địa
phương đã được các cộng đồng dân cư nơng nghiệp của các làng q sản sinh
ra theo dịng lịch sử tồn tại của mình và rất gắn kết sâu sắc với thiên nhiên bản
địa. Đó cịn là sản phẩm của trí tuệ và kinh nghiệm của cả một cộng đồng
nơng nghiệp làng xóm đã tạo ra các làng nông nghiệp truyền thống với các
sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của mình.

4. Chương trình tour:

Chương trình du lịch: Hương xưa làng cổ.

5


Loại hình: Du lịch trải nghiệm làng quê với điểm nhấn: giúp du
khách có trải nghiệm, cảm nhận khơng gian làng quê cổ ở làng quê
cổ.
Điểm đến: làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
Phương tiện: ô tô.
Thời gian: 2 ngày 1 đêm.
Thị trường khách: cả khách nước ngoài và người Việt Nam. Nhưng
chủ yếu là hướng tới thị trường khách du lịch nước ngoài.
Các điểm tham quan:
 Cổng làng Mơng Phụ, Xích Hậu, đình Mơng Phụ,
 Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh, tham quan 1 số ngơi nhà cổ
tiêu biểu,
 Tham quan chùa Mía
 Thăm Đình thờ Phùng Hưng, đền và lăng Ngơ Quyền
Lộ trình:
Với mục đích cho du khách được trải nghiệm những cơng việc
của người dân Việt xưa, cơng ty tổ chức chương trình du lịch: “Hương xưa
làng cổ” với lịch trình như sau:
Thời gian
8h30

Nội dung chương trình
Hướng dẫn viên đón đồn tại khác sạn và di
chuyển bằng ô tô đến cổng làng Mông Phụ.
Du khách sẽ được tham quan các điểm: cổng

6


làng Mơng Phụ, Xích Hậu, đình Mơng Phụ, nhà thờ
Thám hoa Giang Văn Minh, tham quan 1 số ngôi nhà cổ
tiêu biểu, tham quan chùa Mía nơi lưu giữ 287 pho
tượng Phật lớn nhỏ với kiểu kiến trúc độc đáo, phong
phú và sinh động.
Từ chùa Mía lên xe đi thăm đình thờ Phùng
Hưng, đền và lăng Ngơ Quyền, rặng duối nghìn năm
tuổi – tương truyền nơi vua Ngơ Quyền đã buộc voi
Trưa
11h30
13h00
13h30

chiến, ngựa chiến.
Ăn trưa tại nhà cổ
Nghỉ ngơi tại nhà cổ
Quý khách tập trung di chuển tới địa điểm gia
đình nghệ nhân làm sản phẩm truyền thống
Chia nhóm
Các nhóm tham gia học tập và trải nghiệm làm
sản phẩm truyền thống.
Nghệ nhân làm sản phẩm truyền thống, giới
thiệu các công cụ và nguyên liệu để chuẩn bị làm sản
phẩm truyền thống (chảo, bếp, má đánh bột, máy đánh
bột, các loại lá, mẹt, gáo, chum, nguyên liệu,…)
Nghệ nhân làm sản phẩm truyền thống, hướng
dẫn quy trình thực hiện làm sản phẩm.

Du khách lựa chọn một trong các hoạt động trải
nghiệm sau:
7


 Làm chè lam
 Làm bánh rán
 Làm chè kho
 Làm bánh gai
 Làm kẹo truyền thống lạc vừng
 Làm đậu phụ
 Làm bánh tẻ…
Khách du lịch cùng chế biến (đóng gói) và
thưởng thức sản phẩm đã thực hiện trải nghiệm cùng gia
đình nghệ nhân. Điều đặc biệt, khách du lịch có thể
mang sản phẩm do chính mình làm ra về làm quà.
Đặc biệt với những ngày áp tết, khách du lịch
được trải nghiệm gói bánh trưng, cùng với hoạt động
luộc bánh, vớt bánh trưng,…
Kết thúc chương trình trải nghiệm.

16h30

Khách về nghỉ ngơi và ăn tối
Khách tập trung tại sân nhà văn hóa thưởng

20h00


thức nghệ thuật truyền thống (chèo, tuồng,… )

Khách du lịch có thể tham gia thường xuyên quanh năm với

hoạt động trải nghiệm làm nghề truyền thống.
Thời gian
8h30

Nội dung hoạt động
Quý khách tập trung tại địa điểm, tham gia học
tập và trải nghiệm nông nghiệp.
Người dân giới thiệu cho khách biết các công
cụ lao động (cuốc, cà, nơm, rá,…)
Người dân sẽ hướng dẫn quy trình thực hiện
trải nghiệm:
8


1.
Trồng rau – củ - quả:
Cùng làm đất, xới đất, trồng rau, tưới nước.
người nông dân hướng dẫn cách chăm sóc và làm tơi
đất, cách hạn chế sâu bọ, làm cỏ,…
2.
Thu hoạch rau quả:
Các nhóm được phát rổ tre hoặc dụng cụ
chuyên dụng thu hoạch, phân loại rau - củ - quả, cách
thu hoạch, cách sơ chế theo hướng dẫn.
Khách du lịch có thể cùng chế biến và thưởng
thức sản phẩm đã thu hoạch được cùng gia đình người
dân. Cũng có thể mang sản phẩm do chính mình thu
11h30

13h30

hoạch về làm quà.
Ăn trưa tại nhà cổ
Nghỉ ngơi tại nhà cổ
Hướng dẫn đưa đoàn tham quan trải nghiệm
hoạt động úp cá – nướng cá. Khách du lịch sẽ được
hướng dẫn và trải nghiệm cách úp nơm cá tại ao, kĩ thuật

16h00

để bắt được cá, nướng cá bằng rơm và thưởng thức.
Kết thúc chương trình.
Xe đưa khách du lịch trở về khách sạn.

Hoạt động xảy ra theo mùa:
 Tát nước, cày bừa, cấy lúa: tháng 2, tháng 6 – 7
Thu hoạch: tháng 9 – 10
 Trồng rau:
Rau mồng tơi: tháng 3,4,5,6
9


Rau muống: tháng 2,3,4,5,6
Rau mùa đông (su hào, bắp cải, súp lơ): tháng 11,12
Ngơ: tháng 1,2,7,8
Lạc: tháng 2,3,6


Chi phí:


Đối với hoạt động trải nghiệm (chưa bao gồm ăn, ở, phí tham quan):
Khách VN: 50 000đ/khách/hoạt động trải nghiệm
Khách nước ngoài: 5USD/khách/hoạt động trải nghiệm.
(áp dụng với đoàn từ 10 khách trở lên)


Lưu ý:

Khách được lựa chọn các hoạt động để trải nghiệm. chương trình có
thể thay đổi theo thời điểm, số lượng khách và yêu cầu riêng của từng đoàn.
5. Thuyết minh các điểm đến:
a.Cổng làng Mơng Phụ:
Có nhiều lối vào Làng cổ Đường Lâm, tuy nhiên cổng làng Mông
Phụ là cổng cổ còn lại duy nhất cho đến ngày nay. Ý thức dựng làng, giữ
làng để phát triển cho đời sau đã đi vào tâm thức người dân qua bao thế hệ.
Đó cũng là chủ đích của các bậc tiền bối của làng Mơng Phụ xưa, ý thức đó
được thể hiện qua việc chọn hướng đặt cổng làng. Hướng Đông, nơi bắt
nguồn ánh sáng của sự sống, nơi bắt đầu cho cái mới, nơi đất nhiều nguồn
sinh lực nhất, đã được ấn định làm vị trí cho cổng làng. Cổng làng Mông
Phụ được xây dựng vào thời gian đời vua Lê Thần Tơng (1553), nó mở lối
10


cho trục đường chính dẫn vào làng. Cổng được làm theo kiểu “Thượng gia
hạ mơn” có nghĩa là trên là nhà, dưới là cổng. Cổng được xây bít đốc, có trụ
đỡ mái và đầu nóc, bên trong có khung gỗ, kèo, hồnh, rui, trên mái lợp ngói.
Thượng lương cịn rõ dòng chữ khắc trên gỗ “Thế hữu hưng nghi đại”, nghĩa
là “Cuộc đời muốn được hưng thịnh cần phải thích nghi”. Tường của cổng
làng được làm bằng đá ong đào từ lịng đất, cát thì lấy trên gị trong vùng rồi

trộn vơi với mật, tạo thành hỗn hợp kết dính để xây cổng. Tường xây đá ong
trần chít mạch, khơng “đao, đấu, diềm, mái”. Hai cánh cổng được làm bằng
gỗ lim theo hình “cánh dế” dày chừng bốn năm phân, xoay trên hai cối cổng
bằng đá và hai bánh xe gỗ bọc thép. Cổng làng xưa chỉ đủ cho vài người
gánh lúa nghỉ ngơi, là chỗ trú cho vài người đi tuần làng. Có thể nói, đây là
nơi phân định khơng gian lao động ở phía ngồi và khơng gian sinh sống
phía trong Làng.
b. Đình Mơng Phụ:
Đình Mơng Phụ được xây dựng trên một khu đất trung tâm và cao
nhất của làng, rộng khoảng 1.800 m². Mặt tiền Đại đình ngó ra hướng Tây
Nam.
Chưa biết chính xác năm xây dựng ngơi đình. Tuy nhiên, xét về kiểu
dáng kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc thì đình được làm vào thời Lê trung
hưng. Về sau, đình được tơn tạo, tu sửa vài lần; nhưng vẫn giữ nguyên dạng
kiến trúc, điêu khắc ở đầu thế kỷ 19. Trong số ấy, theo tài liệu, thì năm 1858,
dưới triều vua Tự Đức, đình được sửa chữa lần thứ nhất [1]. Gần đây
(2006 - 2008), đình cũng đã được tu sửa lớn [2].
11


Diện mạo của ngơi đình hiện nay được xây dựng theo kiểu chữ
"Công" (chữ Hán: 工), gồm Nghi môn (cổng chính), sân đình, Tả Mạc (nhà
bên trái), Hữu mạc (nhà bên phải) và Đại đình (hay tịa Đại bái, tức tịa đình
chính). Ngồi ra, ở bên ngồi đình (phía tay phải từ đình nhìn ra) có nhà
Xích hậu. Đây là nơi tiếp khách, và là nơi chuẩn bị lễ trước khi vào đình.
Lược kể:
 Nghi mơn: gồm bốn trụ vng xây gạch, hai trụ lớn và hai trụ nhỏ.
Bốn đầu trụ tạo tác lồng đền hình vng có chạm nổi tứ linh, trên đỉnh hai
trụ lớn có hai con sư tử ngồi nhìn ra phía giữa, đỉnh hai trụ nhỏ đội hai bình
hoa. Ba mặt trụ có các câu đối chữ Hán chạm nổi.

 Sân đình và Tả Hữu mạc: Sân đình rộng, lát gạch Bát Tràng, hai
bên có Tả Hữu mạc, mỗi nhà có năm gian nhỏ. Đây là nơi thờ tổ tiên các
dòng họ trong làng và người có cơng với làng…
 Đình chính: gọi là tịa Đại bái gồm năm gian hai chái. Hậu cung
(đình trong) là một tịa nhà nối ba gian giữa của đình ngồi kéo dài ra phía
sau như cán chày. Hai bên đình có hai cái giếng cổ (tục gọi là hai mắt rồng).
Mái đình hình võng nhẹ, lợp ngói mũi hài, hai đầu nóc có chạm hình hai con
rồng. Góc mái uốn ngược lên thành hình rồng. Các vì kèo được thiết kế theo
kiểu giá chiêng chồng rường, dựa trên sáu hàng chân. Những đầu dư của các
xà ở gian chính và những kẻ hiên là những trọng điểm để trang trí. Những
mơ típ trang trí như rồng, hổ, cá, chim, hoa lá, mây,...đều được chạm nổi,
chạm lộng hoặc chạm ren. Đình chính khơng có tường vách ngăn che, tất cả
đều để trống, chỉ có một lan can có chấn song hình con tiện bao quanh ba
12


mặt đến tường của Hậu cung. Đình có sàn ở hai gian bên, ở gian giữa có cửa
võng hình lưỡng long chầu nguyệt sơn son thiếp vàng. Một ban thờ lớn trang
trí bằng tượng rồng, hổ phù ngậm chữ "Thọ" (chữ Hán: 工), mây... Hậu cung
chỉ có sườn gỗ bào trơn, có tường xây kín ba mặt, Bệ thờ đặt giữa Hậu cung,
có ngai và bài vị thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Thờ phụng, giá trị: Khánh đồng cổ ở trong đình
Trong đình thờ thần Tản Viên Sơn Thánh (tức thần Tản Viên), là
một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt (Tứ bất tử), làm Thành
hoàng làng. Cùng với chùa Mía, đình Mơng Phụ là một cơng trình kiến trúc
có giá trị nghệ thuật ở làng cổ Đường Lâm. Trong nội thất của đình hiện cịn
bảo lưu được rất nhiều hiện vật quý báu có giá trị. Một trong số ấy là bức
hoành phi với 4 chữ Hán: "Dũng cảm cả tưởng" do vua Thành Thái ban tặng
cho làng sau một trận săn bắt cướp...
Đình Mơng Phụ đã được Bộ Thơng tin - Văn hóa (nay là Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc
gia năm 1984
c. Chùa Mía
Chùa Mía tên chữ là: Sùng Nghiêm tự, 工工工 đó là một ngôi chùa ở
xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Xưa kia, vùng này là
Cam Giá, tên Nơm là Mía, nên chùa này được quen gọi là chùa Mía. Đây
chính là ngơi chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam (287
tượng)
Lịch sử:
13


Ban đầu, chùa có quy mơ nhỏ, được xây dựng từ xa xưa. Năm 1632,
Phi tần trong phủ chúa Trịnh Tráng là Ngơ Thị Ngọc Diệu (cịn có tên là
Nguyễn Thị Ngọc Dong) thấy miếu bị hoang phế điêu tàn nên đã cùng cha
mẹ và người dân các làng thuộc tổng Cam Giá (tức Tổng Mía) cùng nhau tơn
tạo lại. Phi tần Ngọc Dong vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An) trong
Tổng Mía, nên được người mến mộ gọi là "Bà Chúa Mía.", đồng thời đã tạc
tượng đưa vào phối thờ ở chùa và cịn có đền thờ riêng. Về sau chùa được tu
bổ nhiều lần, song đến nay quy mơ tơn tạo thời Bà chúa Mía dường như vẫn
được bảo tồn nguyên vẹn.
Kiến trúc
Gác chuông của 3 gian làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Các
góc mái đều gắn đao triện. Sàn nhà bằng gỗ, ở tầng gác có hàng lan can tiện.
Các ván long, xà nách đều được bào xoi cạnh và chạm trang trí đề tài hoa lá.
Trên gác treo một quả chuông đúc năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) và một
khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1864).
Gần gác chuông và cây đa cổ thụ là tòa bảo tháp Cửu phẩm Liên
Hoa cao 13 m thờ vọng Xá Lợi đức Phật.
Trong tiền đường, ở gian phải có tấm bia khắc năm 1634, nói về

việc trùng tu chùa năm 1632. Bia trang trí đẹp, cao hơn 1,6 m, rộng 1,2 m,
dựng trên lưng một con rùa. Gian trái tiền đường có bàn thờ chúa Liễu Hạnh.
Sau tiền đường là chùa Trung, tiếp theo là chùa Thượng - hậu đường. Có hai
dãy hành lang nối chùa Trung và chùa Thượng, bao quanh lấy Phật điện ở
giữa.
14


Chùa Trung và chùa Thượng còn giữ được bộ khung gỗ mà có nhiều
phần điêu khắc có từ thế kỷ 17. Chùa Mía khá nổi tiếng với số lượng có ở
đây: có đến 287 pho tượng lớn, nhỏ, trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho
tượng gỗ và 174 pho tượng bằng đất luyện được sơn son thếp vàng. Ở chùa
Trung có hai pho tượng Hộ Pháp lớn và 8 pho tượng Kim Cương. Mỗi pho
tượng là hình tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu để
trừ tà bảo vệ phật pháp. Hình khối, bố cục vững chắc, thân hình cân đối,
đường nét thoải mái và khỏe. Tại chùa Thượng, người ta còn thấy các động
bằng đất đắp. Trong và xung quanhcác động có khá nhiều tượng. Trong một
động có cả tượng Phật Thích Canhập Niết bàn. Pho tượng Tuyết Sơn cao
0,76 m và Quan Âm Tống Tử cao 0,76 m ở đây cũng rất đẹp. Tượng Quan
Âm thường được gọi là tượng Bà Thị Kính. Tượng này diễn tả một người
phụ nữ thùy mị, có duyên, vẻ mặt hơi buồn nhưng rất hiền từ nhân hậu, ẵm
một đứa bé bụ bẫm kháu khỉnh. Đường nét chạm khắc mềm mại, trau truốt.
Người làng Mía có câu ca dao về pho tượng:
Nổi danh chùa Mía làng ta,
Có pho Tống Tử Phật Bà Quan Âm
Với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc độc đáo, với
quy mơ bề thế và đẹp. Chùa Mía đã được Bộ Văn hóa - Thơng tin xếp hạng
là di tích kiến trúc nghệ thuật.
d. Nhà thờ thám hoa Giang văn Minh:
“Lễ nghĩa bách niênMông Phụ ấp

Phong thanh thiên cổ Thám hoa môn”
15


Tạm dịch là:
Lễ nghĩa trăm năm làng Mông Phụ
Tiếng thơm nghìnthuở cửa Thám hoa
Đây chính là câu đối trong từ đường thờ cụ Thám hoa Giang Văn
Minh...Thám hoa Giang Văn Minh sinh vào giờ Tuất, ngày Nhâm Ngọ, tức
ngày 6/9 năm Q Dậu 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mơng Phụ, tổng Cam Giá,
huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây trước năm 1945), (nay thuộc xã Đường Lâm,
thị xã Sơn Tây , Hà Nội. Tương truyền thủa nhỏ ông là bạn học với 2
người: Phùng Công Thế và Lã Công Thời. Hai ơng này sau đó cũng đã thi
đỗ đến bậc tiến sỹ vào năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời
vua Lê Thần Tông. Giang Văn Minh dự khoa thi đình và đỗ Đệ nhất giáp tiến
sỹ cập đệ tam danh (khoa thi này khơng có thi sinh đỗ Trạng nguyên) nên
ông đã đỗ ở mức cao nhất, khi bước sang tuổi 55. Sau đó, ơng được Triều
đình tấn phong nhiều chức quan và được cử đi trấn giữ, cai quản vùng đất
Nghệ An, vào năm 1637.
Hiện nay, lăng mộ ông và quán Giang (nơi đặt thi hài) cùng nhà thờ
đều nằm ở địa phận thôn Mông Phụ. Khu nhà thờ có diện tích 400 m2, được
dựng theo hình chữ Nhị, bao gồm nhà Bái, Hậu đường quay theo hướng
đơng. Ngồi ra cịn có các hạng mục khác như: sân, cổng, vườn, nét kiến trúc
họa tiết trang trí hoa văn mang phong cách thuộc niên đại triều Nguyễn.
Trong nhà thờ còn lưu giữ một số di vật quý như câu đối, bia đá, lư hương,
đỉnh đồng.
16


Ngày 2/6 âm lịch (ngày giỗ ông) hàng năm, nhân dân và chính

quyền địa phương cùng con cháu họ Giang khắp nơi đều tề tựu về đây để
tưởng nhớ công lao to lớn của ông với dânvới nước.
Nằm trong trung tâm của quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm, di
tích Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh đang trở thành điểm đến tham
quan, tìm hiểu của nhiều du khách trong và ngồi nước. Di tích là nơi linh
thiêng ghi công trạng của Thám hoa và cũng là nơi giáo dục truyền thống
yêu nước cho thế hệ trẻ.
Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh được Nhà nước xếp
hạng Di tích lịch sử văn hố ngày 24/5/1991.
e. Đền thờ và lăng Ngô Quyền:
Xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là nơi được mệnh danh là vùng đất
“địa linh nhân kiệt”. Đến làng quê yên ả này, du khách sẽ được thăm đền thờ
và lăng Ngơ Quyền, di tích đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, nơi thờ vị vua lừng danh trong lịch sử dân tộc, người
nổi tiếng với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938, đánh đuổi quân Nam
Hán ra khỏi bờ cõi, mở ra một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho dân tộc Việt
Nam.
Đền và lăng Ngơ Quyền được xây dựng trên một đồi đất cao,
có tên là đồi Cấm, mặt hướng về phía đơng. Đền thờ được xây ở phía trên,
cách lăng khoảng 100m. Phía trước lăng là một cánh đồng rộng nằm giữa 2
sườn đồi; một nguồn nước gọi là vũng Hùm chảy ra sơng Tích; bên cạnh đó
17


là đồi Hổ Gầm, tương truyền xưa là nơi thuở nhỏ Ngô Quyền thường cùng
bạn chăn trâu, cắt cỏ và tập luyện võ nghệ. Đây có lẽ là vị trí đẹp nhất của ấp
Đường Lâm xưa.
Đền thờ Ngô Quyền được xây dựng từ lâu đời và đã qua nhiều lần
trùng tu. Lần tu sửa gần đây nhất là vào thời Vua Tự Đức (1848 – 1883).
Đền có quy mơ khá khiêm tốn, gồm: Nghi Môn, Tả Mạc, Hữu Mạc, Đại
Bái (Tiền Đường) và Hậu Cung 1. Đền được xây bằng gạch, lợp ngói mũi

hài, có tường bao quanh. Đại Bái đền thờ là một nếp nhà 5 gian, bộ khung
bằng gỗ, được thể hiện chủ yếu thiên về sự bền chắc, tơn nghiêm; gian
giữa có treo bức hồnh phi đề bốn chữ Hán “Tiền vương bất vong” (Vua
Ngô Quyền sống mãi). Hiện nay, Đại Bái còn được dùng làm phòng trưng
bày về trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng và thân thế, sự nghiệp của
Ngô Quyền. Hậu Cung là một ngôi nhà dọc 3 gian, bộ khung nhà bằng gỗ
được trang trí hình rồng, hoa, lá... Gian giữa có đặt tượng thờ Ngô Quyền .
Lăng mộ Vua Ngô Quyền được xây dựng năm Tự Đức thứ
27 (1874) và trùng tu năm Minh Mệnh thứ 2 (1821). Lăng được xây kiểu
nhà bia có mái che, cao khoảng 1,5m. Giữa lăng là ngai, trong có bia đá
ghi bốn chữ Hán “Tiền Ngơ Vương Lăng” (Lăng mộ Vua Ngô Quyền).
Đặc biệt, trong quần thể đền và lăng Ngô Quyền, 18 cây duối cổ - tương
truyền là nơi Ngô Quyền buộc voi, ngựa - đã được công nhận là “Cây di
sản” cấp quốc gia.
Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 8 âm lịch (ngày giỗ Vua Ngô
Quyền) nhân dân trong vùng lại về đây để tưởng nhớ công ơn của ông - vị
18


vua “đã mở nước xưng vương”, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở
đầu một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho lịch sử dân tộc.
f) đền thờ Phùng Hưng
Vào nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống trị của triều đình Trường An đã
bắt đầu suy yếu. Chiến tranh giữa "phiên trấn" và "triều đình" - mà đỉnh cao là
loạn An Sử - càng làm cho nhà Đường lụn bại. Uy quyền của bọn tiết độ sứ và
đô hộ ngày một tăng, chúng tự ý trưng thu thuế má. Cao Chính Bình, hiệu úy
châu Vũ Định (miền Việt Bắc), năm 767 giúp kinh lược sứ An Nam Trương
Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Java) ở Chu Diên,
sau đó y được cử làm đơ hộ An Nam. Y ra sức bòn rút của cải của nhân dân ta,
đánh thuế rất nặng. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác

vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của nhân dân, lợi dụng khi quân lính ở
Tống Bình nổi loạn, người hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm,
huyện Ba Vì, Hà Nội) là Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn
chống chính quyền đơ hộ.
Sử liệu gốc ghi lại về Phùng Hưng không nhiều. Chỉ biết, Phùng
Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm. Đường Lâm
xưa kia vốn là vùng đồi gò và rừng cây rậm rạp, thú vật dữ tợn thường hay lui
tới, nên nơi đây tục gọi là Đường Lâm hay Cam Lâm.
Phùng Hưng có tên tự là Cơng Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái người đã từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ, đời Đường Vũ Đức (618626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng
là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ. Khoảng năm Nhâm Tuất
19


(722) đời Đường Khai Nguyên, ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai
Thúc Loan. Sau đó, ơng trở về q chăm chú cơng việc điền viên, trở nên giàu
có, trong nhà ni nơ tỳ có đến hàng nghìn người (theo bia Quảng Bá).
Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh
một lần được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức
khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ 2 là Phùng Hải
(tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em
18 tuổi thì bố mẹ đều mất.
Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng Hưng vẫn chưa rõ.
Một nguồn dã sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý
(760) (tức 5-1-761) và chết ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802),
thọ 41 tuổi. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí
phách đặc biệt. Ơng được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài
đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ơng đánh được 2 con trâu mộng
đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được hổ dữ, bằng
mưu kế, đem lại bình n cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm
còn lưu truyền về câu chuyện đó.

Phùng Hưng cịn là vị anh hùng đầu tiên trong những người con ưu
tú của đất Đường Lâm. Và Phùng Hưng cũng là người anh hùng đầu tiên đã
đánh chiếm lại thành Tống Bình (Hà Nội), trị sở của chính quyền đơ hộ lúc đó
và xây dựng nền tự chủ trong khoảng gần chục năm.
Thoạt kỳ thủy, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi
nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc
20


Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là: Đô
Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân
đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem qn đi đàn áp nhưng
chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng
lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5
đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ
tướng Phùng Hưng tiến cơng vây thành. Qn của Cao Chính Bình (khoảng
hơn 4 vạn bia Quảng Bá) đem ra chống cự. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt
trong khoảng 7 ngày, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ
trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì
và vào phủ Đơ hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc trong 7
năm ấy, sử sách không để lại một nguồn tài liệu nào về ông. Sau khi mất, con
trai ông là Phùng An lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. An
nối nghiệp được hai năm thì chính quyền lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa
mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm.
Sử liệu và truyền thuyết dân gian ở vùng Đường Lâm kể lại rằng:
Phùng Hưng chết rồi rất hiển linh, thường hiện hình trong dân gian, giúp dân
trong lúc hoạn nạn. Dân làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường
Lâm. Tương truyền sau này, Phùng Hưng cịn hiển linh giúp Ngơ Quyền đánh
thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Thấy vậy, Ngô Quyền cho lập đền thờ quy mô

to lớn hơn trước. Sự ngưỡng mộ đối với người anh hùng dân tộc họ Phùng
còn thể hiện ở việc lập đền thờ phụng của nhân dân như ở đình Quảng Bá (Hà
21


Nội), đình Triều Khúc (Hà Tây), thờ ở lăng Đại áng, Phương Trung, Hoạch
An, phủ Thanh Oai (Hà Tây),v.v. Trong đó, đình thờ ở làng Cam Lâm - xã
Đường Lâm - thị xã Sơn Tây có quy mơ bề thế nhất. Hiện chưa rõ niên đại
xây dựng nhưng các triều đại phong kiến đã có nhiều sắc phong ghi nhận công
lao của Ngài như các năm: Trung Hưng thứ nhất (1285), Trung Hưng thứ 3
(1287), Hưng Long (1312). Việc ngôi đình có hình dáng như ngày nay là do
có một đợt trùng tu lớn vào năm 1889 (đời Thành Thái). Tấm bia Phùng tự bi
ký ở đình Đồi Giáp được tạc vào năm Hồng Đức thứ 4 (1473) đã chép lại rất
nhiều thông tin liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Ngài. Đền chính thờ
Ngài ngày nay mang dáng dấp kiến trúc đời nhà Nguyễn vào những năm đầu
thế kỷ XX gồm các hạng mục cơng trình như: Tả - Hữu Mạc, Đại Bái, Hậu
Cung. Một số hoa văn, linh vật được trang trí trong đình như: bờ nóc, đầu xà,
điểm nối giữa các bộ vì, kèo, cột. Tượng Ngài được an toạ ở Hậu Cung, xung
quanh đền có một số cây lấy gỗ, ăn quả đã có niên đại lâu đời như: lim, nhãn,
đa. Khu vực thôn Cam Lâm vẫn cịn địa danh đồi Hổ Gầm, thơn Đồi Giáp có
gị Bố Về - nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của Bố Cái Đại Vương.
Ngày 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, nhân dân Đường Lâm và con
cháu họ Phùng, du khách thập phương lại hội tụ về đây để tỏ lịng thành kính
đối với ơng.
g) Những ngôi nhà cổ
Làng cổ ở Đường Lâm nổi tiếng bởi hệ thống nhà cổ được xây bằng
đá ong - vật liệu sẵn có đào lên từ lịng đất, rất phổ biến ở vùng Sơn Tây - xứ
Đoài xưa. Ở đây nhà xây bằng đá ong, cổng làng, cổng nhà, tường rào, giếng
22



nước cũng thường được xây bằng đá ong. Có thể nói làng cổ ở Đường Lâm là
làng cổ đá ong.
Theo thống kê hiện nay ở Mông Phụ, Cam Thịnh, Đông Sàng cịn
hơn 800 ngơi nhà cổ. Ngồi chất liệu tường xây bằng đá ong, hầu hết các nhà
cổ ở Đường Lâm được tạo bởi các thành phần chủ yếu như cổng, tường rào,
sân vườn, bình phong, nhà chính, nhà phụ, bếp chuồng chăn nuôi, nơi vệ sinh,
giếng nước…
Bố cục kiến trúc trong khn viên là hình thức liên kết giữa nhà
chính và nhà phụ, thường kết cấu theo kiểu chữ Nhất, chữ Nhị, chữ Đinh và
chữ Mơn, trong đó có những ngôi nhà được xây dựng từ năm 1803 và nhiều
ngôi nhà từ giữa thế kỷ 19.
Trong khuôn viên, ngôi nhà chính là hạng mục lớn nhất, là nơi cư trú
của gia đình, là nơi thờ cúng tổ tiên … có từ ba đến bốn thế hệ cùng sinh
sống, với những đặc điểm gồm bộ khung, hệ thống cột cái, cột quân, cột hiên
và các bộ vì kèo, kẻ bẩy, ván mê, mái nhà…
Ở Đường Lâm có những ngơi nhà cổ được xây dựng trên 200 năm.
Đây là loại nhà cổ nhất như nhà của gia đình ơng Hà Văn Lâm, Hà Nguyên
Huyến, Cao Văn Toàn, bà Vũ Thị Ấm, thuộc loại những ngơi nhà cổ điển
hình.
Khn viên tồn bộ ngôi nhà và vườn khoảng vài ba trăm mét vuông.
Nhà kết cấu theo kiểu năm gian hai chái, năm hàng chân cột, dựng theo kiểu
quá giang vượt tường. Gian giữa là nơi thờ tự và tiếp khách làm theo kiểu cổ,
mái được làm bằng ngói ta, nền lát gạch nung. Tường đá ong, rui mè đều làm
23


bằng gỗ. Nhà chính phân biệt với hiên bằng cửa gỗ. Ngồi hiên có tám hàng
cột chạy ngang từ đầu đến cuối nhà. Cột nhà và cột hiên được kê trên tảng đá
tròn. Các nhà loại này còn tương đối nguyên vẹn như thời khởi dựng.

Loại nhà xây trên 100 năm và dưới 200 năm, số lượng cịn khá nhiều.
Nhìn chung, kết cấu của dạng nhà này rất phong phú từ một, đến hai, ba, bốn,
năm hàng chân, gồm ba gian hai chái, dựng theo kiểu “Quá giang vượt
tường”, “Nội tự ngoại khách”, gian giữa là gian chính để ban thờ, gian buồng
là nơi ở của phụ nữ.
Mái nhà lợp ngói mũi, tường xây bằng đá ong, rui hồng bằng gỗ, cột
được kê trên hòn đá. Bức đố lụa ngăn gian bên với buồng cũng bằng gỗ. Có
nhà trang trí hoa văn, có nhà chỉ để gờ nổi. Những ngơi nhà loại này còn giữ
được khá nguyên vẹn kiểu thức ban đầu. Cổng được xây bằng đá ong, gạch và
lợp bằng ngói ri.
Bao quanh các ngơi nhà cổ là đường làng, ngõ xóm quanh co thấp
thống những hàng cau, vườn cây lưu niên xanh tốt, thấp thống bên những
mái đình, cây đa, cổng làng, giếng nước, điếm canh, tạo nên một khơng gian
cổ kính, trầm mặc.
Ngơi làng Việt cổ nổi tiếng đang bị mai một từng ngày bởi sức phá
của thời gian, con người và thiên nhiên. Để giữ gìn văn hóa của ngơi làng Bắc
bộ điển hình, chủ nhân của những ngôi nhà cổ vừa phải bảo đảm cuộc sống
của mình với con trâu, cái cày, vừa phải chăm lo giữ gìn sửa chữa thường
xun những ngơi nhà cổ để giữ nguyên dáng vẻ của nó. Tuy nhiên, sức người

24


và sức của có hạn, làng cổ đang rất cần những hướng dẫn bảo tồn và sự hỗ trợ
của Nhà nước và các nhà khoa học.
6. Mức giá:
Mức giá cố định:




Mức giá với đồn 15 người:
- Xe ơ tơ: 2.000.000đ/đồn
- Ăn (1 sáng + 2 trưa + 1 tối) cho 2 ngày: 450.000đ/người
15 người: 450 000 x 15 = 6.750.000đ
- Vé vào: 20.000đ/người
15 người: 20 000 x 15 = 300.000đ
- Ở: + với khách Việt: 50 000đ/đêm
15 người: 50 000 x 15 = 750 000đ
+ với khách nước ngoài: 100 000đ/đêm
15 người: 100 000 x 15 = 1 500 000đ
- Tiền thuê hướng dẫn viên:
Với khách Việt: 500 000đ/ngày
Với khách nước ngồi: 700 000đ/ ngày


Tổng chi phí: Với khách Việt: 10 800 000đ => 1 khách: 720

000đ
Với khách nước ngoài: 11 950 000đ => 1 khách: 797 000
đ


Với những chi phí phát sinh, tham gia các trải nghiệm, du

khách tự chi trả, chứ khơng được tính trong mức giá cố định.
25


×