Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN một số biện pháp giúp trẻ lớp 24 36 tháng tuổi sớm thích nghi trường lớp mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.35 KB, 14 trang )

1.MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có
vai trị đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển
của nhân cách con người. Chính vì thế, hầu hết các Quốc gia và các tổ chức Quốc
tế đều xác định giáo dục mầm non là một mục tiêu quan trọng của giáo dục cho
mọi người. Ở Thụy Điển coi giai đoạn mầm non là “thời kỳ vàng của cuộc đời và
thực hiện chính sách”; cịn Luật hệ thống giáo dục quốc gia Indonesia đã công
nhận giáo dục mầm non là giai đoạn tiền đề cho hệ thống giáo dục cơ bản. Và Luật
Giáo dục Thái Lan nhấn mạnh: Gia đình và Chính phủ phải cùng chia sẻ trách
nhiệm đối với giáo dục mầm non nhằm thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ
em.
Như vậy, để thực hiện được nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ người giáo
viên ln phải tìm tịi học hỏi, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
tận tâm tận lực cho công tác chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ trên hết là người giáo
viên phải có cả tâm lẫn đức. Đối với trẻ mầm non, việc chăm sóc giáo dục trẻ ngay
từ những ngày đầu đến trường phải thật nhẹ nhàng phải mang đến cho trẻ một tâm
thế thật thoải mái, học bằng chơi, chơi mà học, trẻ phải thật u thích trường lớp,
từ đó tạo tiền đề cho trẻ phát triển ở những bậc học tiếp theo; Khi đã mang lại kết
quả như mong đợi thì việc chăm sóc giáo dục trẻ sẽ đạt được những thành công
nhất định. Mỗi năm đối tượng các trẻ khác nhau và cách làm quen của giáo viên
đối với trẻ cũng khác nhau. Đề giúp trẻ sớm hồ nhập vào mơi trường mới Trường mầm non- đã làm tôi trăn trở và suy nghĩ, tìm mọi cách giúp các bé thích
nghi thật sớm với trường lớp của mình, vì vậy tơi chọn “Một số biện pháp giúp trẻ


lớp 24 -36 tháng tuổi sớm thích nghi trường lớp mầm non” làm đề tài nghiên cứu
của mình với mong muốn tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất giúp trẻ thật sự u
thích trường lớp của mình và cũng là để cho phụ huynh thấy được mỗi ngày trẻ
đến trường là một niềm vui.
1.2. Điểm mới của đề tài:
Đề tài của tôi đi sâu vào nghiên cứu một số biện pháp giúp trẻ lớp 24 -36


tháng tuổi vùng dân tộc thiểu số sớm thích nghi trường lớp mầm non, đề xuất một
số biện pháp để góp phần cho trẻ thích nghi trong các trường mầm non.
1.3. Phạm vi áp dụng đề tài:
Đề tài này trước hết áp dụng đối với nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi lớp tôi đang
phụ trách sau đó áp dụng rộng rãi đối với các lớp nhà trẻ trong toàn trường.
2. NỘI DUNG
2.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu:
Năm học 2019 – 2020 bản thân tôi được nhà trường phân công dạy lớp nhà trẻ
với tổng số 10 cháu, có một số cháu chưa nói được nên có phần ảnh hưởng đến
việc học của trẻ. Phần lớn bố mẹ của các cháu là dân tộc BruVân Kiều, công việc
chủ yếu là làm nương rẫy nên việc quan tâm đến con em còn hạn chế.
* Đặc điểm tình hình của lớp
Thực hiện kế hoạch huy động số lượng đạt chỉ tiêu của nhà trường giao,
ngay từ đầu năm học tôi đã huy động đầy đủ số lượng là 10 cháu đạt 100% số trẻ
và 100% số trẻ đều là trẻ dân tộc Vân Kiều. Trong quá trình nghiên cứu đề tài bản
thân gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:


- Bản thân luôn được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường, chỉ đạo
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đã tạo điều kiện mua sắm đầy đủ về cơ sở vật
chất cũng như tài liệu, trang thiết bị phục vụ giảng dạy.
- Giáo viên nhiệt tình, u nghề mến trẻ, năng động sáng tạo, có trình độ trên
chuẩn, có ý thức học hỏi đồng nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng.
- Được nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi bồi dưỡng chuyên môn định kì,
nâng cao năng lực giảng dạy cho giáo viên, được cấp các tài liệu để bồi dưỡng
thêm chuyên môn nghiệp vụ.
- Bản thân ln u nghề, mến trẻ, có năng lực chuyên môn vững vàng và một
phần cũng nhờ phụ huynh phối hợp khá tốt với hai giáo viên trong cơng tác chăm
sóc, giáo dục trẻ.

* Khó khăn:
- Phần lớn trẻ là con em người dân tộc BruVân Kiều, khả năng giao tiếp bằng tiếng
Việt còn hạn chế, nên bản thân gặp khơng ít khó khăn trong việc giao tiếp với trẻ
hàng ngày.
- Đa số phụ huynh là người dân tộc Vân Kiều nên nhận thức về việc học của con
em đang còn hạn chế.
- 100% trẻ mới lần đầu đến trường.
- Trẻ khóc nhiều nên tâm lý của phụ huynh lo lắng, đưa trẻ đi học không chuyên
cần nên ảnh hưởng đến sự thích nghi của trẻ tại trường, lớp.
- Diện tích phịng sinh hoạt của trẻ chưa đảm bảo.
- Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động chưa phong phú.
- Bản thân là giáo viên trẻ nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức các
hoạt động cho trẻ.


Vào đầu tháng 9, tôi tiến hành khảo sát để đánh giá về khả năng thích nghi
trường lớp mầm non của trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại lớp tôi đang giảng dạy. Tôi đánh
giá mức độ: Đạt, không đạt, để từ đó có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể:

Đạt
Số lượng

Khơng đạt
Số lượng
%

%

3


30

7

70

TT
1

Các chỉ số
Trẻ thích đến trường, lớp mầm

2
3

non
Trẻ khơng khóc nhè
Trẻ thích tham gia vào các hoạt

2
4

20
40

8
6

80
60


4

động
Trẻ thích nghi với chế độ sinh

3

30

7

70

hoạt tại trường, lớp mầm non
Đứng trước thực trạng đó, tơi đã suy nghĩ, xây dựng và áp dụng một số biện pháp
giúp cho trẻ lớp 24 -36 tháng tuổi sớm thích nghi trường lớp mầm non như sau:
2.2. Các giải pháp:
Giái pháp 1: Tạo sự thân thiện với trẻ và niềm tin đối với phụ huynh.
Những ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy của
trẻ. Khi được ba mẹ đưa đến lớp những ngày đầu tiên trẻ thường ôm chặt lấy ba
mẹ khơng muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dị xét. Nếu lúc đó cơ giáo
đến ôm chầm và tách rời trẻ ra khỏi tay mẹ thì tơi nghĩ trẻ sẽ rất ghét và rất sợ cơ,
sợ đi học. Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ tôi chào hỏi, tươi cười và
làm quen bằng những câu hỏi đơn giản thân mật như: “ Con tên gì?”, “ Con mấy
tuổi?”, “ Con có muốn vào lớp chơi cùng cô và các bạn không ? ”…. Sau đó trị
chuyện với phụ huynh và từ từ vuốt ve trẻ, kế đến là nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng,


đó là bước khởi đầu để trẻ cảm thấy an lòng. Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn chỉ ngồi

trong lòng ba mẹ mà không chịu chơi cùng bạn. Tôi vẫn tiếp tục cùng phụ huynh
trị chuyện về thói quen, tập qn, sở thích của trẻ để dễ dàng tìm kiếm biện pháp
thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cơ, từ đó trẻ sẽ
chơi với cơ và các bạn trong lớp.
Khi đón trẻ tôi thường an ủi phụ huynh là điều trước tiên, vì họ rất thương
con lo lắng cho con, sợ con sẽ khóc nhiều làm ảnh hưởng khơng tốt đến sức khoẻ.
Những lời động viên sẽ giúp họ an tâm hơn và khi nhận trẻ từ tay ba mẹ tôi nắm
tay trẻ, ở gần bên trẻ và nói chuyện thật nhẹ nhàng.
Giải pháp 2: Hết lòng mến trẻ, yêu nghề và tạo sự gần gũi với trẻ.
Trong q trình cơng tác của mình tơi ln tâm đắc một câu nói: “Con
đường đến với trái tim trẻ chỉ có thể là tình yêu thương của cô”. Từ những kinh
nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm học hỏi từ đồng nghiệp tôi đã áp dụng trong
những năm học qua, nên tôi đã đến với trẻ của bằng chính tình thương của mình,
bằng lịng u nghề, u trẻ như chính con đẻ của mình, ln hồ mình vào thế
giới của trẻ, ln đáp ứng kịp thời những nhu cầu của trẻ nhưng không vượt qua
giới hạn, chăm sóc, u thương trị chuyện để mỗi ngày trẻ đến lớp càng có thêm
nhiều niềm vui, trẻ yêu thích đến lớp và ngày càng ngoan ngỗn lễ phép hơn.
Những ngày đầu, khi đón trẻ tơi cũng thường dặn phụ huynh đón trẻ sớm để
trẻ tập quen dần với mơi trường mới và sẽ khơng có cảm giác bị ba mẹ bỏ lại
trường.
Trong giờ ngủ, nếu trẻ chưa chịu ngủ, tôi cũng không ép trẻ vào nằm chung
với các bạn, tôi sẽ để trẻ tạm thời tự do mà trẻ thích, sau đó tơi sẽ đến nói với trẻ:
“Lại đây nằm chơi với cô” hoặc “ con chỉ cần nằm chơi tí xíu khi nào các bạn ngủ


dậy cô sẽ cho con về”... Hay tôi sẽ ngồi thuyết phục trẻ đến khi trẻ thấy buồn ngủ
thì lúc đó tơi sẽ để trẻ vào gối nằm và mở nhạc nhẹ nhàng cho trẻ ngủ.
Giải pháp 3: Xây dựng môi trườnghọc tập hấp dẫn thu hút sự chú ý trẻ.
Yếu tố trường lớp cũng là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của trẻ.
Lớp tơi có khơng gian rộng rãi, thống mát, khu vực chơi ngồi trời sạch sẽ, đồ

chơi phong phú thu hút được trẻ.
Trong lớp tơi ln chú ý sưu tầm hình ảnh đẹp để trang trí các góc lớp để
thu hút sự chú ý của trẻ.
Bên cạnh đó cũng quan tâm đến việc sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng,
thuận tiện, trẻ dễ thấy và dễ lấy.
Tôi dắt trẻ ra sân chơi, tổ chức nhiều trò chơi dân gian như dung dăng dung
dẻ…hoặc chơi các trò chơi vận động đơn giản như đi, nhảy lị cị, ơ tơ và chim sẻ,
cho trẻ chơi xích đu, chơi bập bênh... sẽ gây hứng thú và chiếm được nhiều cảm
tình của trẻ.
Trong lớp tơi ln tìm tịi sáng tạo bổ sung thêm nhiều góc chơi: Góc xem ai
khéo hơn, góc cùng nhau trổ tài, cùng nhau học tập,bé tập làm kỹ sư, bé với vận
động, bé yêu thiên nhiên. Tôi chuẩn bị đồ dùng hấp dẫn đẹp mắt để lôi cuốn trẻ.
Tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi ý hỏi trẻ những đồ vật, đồ chơi này tên là gì để trẻ
trả lời, nếu trẻ trả lời khơng được hoặc khơng thích trả lời, tơi sẽ gợi ý và giúp trẻ
trả lời.
Giải pháp 4: Tổ chức các hoạt động phù hợp, hấp dẫn trẻ
Trong quá trình hoạt động tơi tổ chức cho cả lớp cùng chơi một số trò chơi
nhằm gây hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ mới vào lớp. Ví dụ như trị
chơi “ Chim kiếm mồi”; Tơi đã nhập vai cùng chơi với trẻ để tạo sự thân thiện gần


gũi. Qua đó giúp trẻ sớm hịa nhập với các bạn, cơ giáo và dần thích nghi với
trường lớp mầm non.
Để trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động thì tơi chuẩn bị các loại đồ
dùng, đồ chơi, lựa chọn phương pháp tổ chức phù hợp nhằm giúp trẻ tích cực tham
gia ví dụ như hoạt động kể chuyện, đọc thơ... Từ đó trẻ càng sớm thích nghi với
các hoạt động tại lớp học, kích thích nhu cầu thích đến lớp của trẻ. Tôi luôn cố
gắng trở thành người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn thu hút trẻ vào những trò
chơi nhỏ, hay vào những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao nhằm tạo sự quen
thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ.

Sau khi trẻ đã quen trường, quen lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ một số kỹ
năng tự phục vụ, cách chào hỏi cô khi đến lớp, chào mẹ con đi học và thưa ba mẹ
khi đi học về, biết nói cảm ơn khi cô và mẹ cho quà, sữa, bánh ….
Giải pháp 5: Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh.
- Giáo viên cần tuyên truyền cho trẻ về tầm quan trọng của việc đưa trẻ đến trường
đúng độ tuổi.
- Thường xuyên trao đổi những thông tin cần chú ý về trẻ như đặc điểm sức khỏe,
thói quen ăn ngủ... Yêu cầu phụ huynh phối hợp với giáo viên để giúp cho bố mẹ
và cô giáo đều hiểu trẻ, kịp thời động viên an ủi trẻ khi trẻ cần.
- Trao đổi với phụ huynh về chế độ sinh hoạt trong ngày của trẻ ở trường mầm non
để thiết lập chế độ sinh hoạt cho trẻ ở nhà vào những ngày cuối tuần giống với chế
độ sinh hoạt của trẻ trong trường mầm non
- Khi trẻ đi học về, cha mẹ cần dành thời gian cho con nhiều hơn như trò chuyện
và lắng nghe con kể về những việc xảy ra ở trường mầm non. Không đáp ứng


những địi hỏi vơ lý của trẻ. Tuyệt đối khơng lấy việc đi học hay lấy cô giáo ra làm
biện pháp răn đe, trừng phạt khi con không nghe lời.
- Lắng nghe những lời khuyên, tư vấn của giáo viên, khi đó trẻ nhìn thấy mối quan
hệ tốt đẹp, thái độ thân thiện của cha mẹ và cô giáo... trẻ sẽ nhanh chóng thích ứng
với mơi trường mới.
Giải pháp 6: Làm đồ dùng đồ chơi.
Để khắc phục tình trạng thực tế của lớp là: Đồ dùng đồ chơi cịn ít, chưa
phong phú, bên cạnh việc mua sắm của nhà trường tôi phối hợp với giáo viên trong
lớp tạo ra nhiều đồ chơi hấp dẫn, làm mới, làm bổ sung những đồ dùng cịn thiếu,
đã hư hỏng.
Tích cực sưu tầm đồ dùng phế liệu trong đời sống, chúng tôi thường xuyên
làm đồ dùng, phục vụ ở các góc ngày càng nhiều hơn giúp trẻ hứng thú, tích cực
tham gia vào các hoạt động, tránh sự nhàm chán cho trẻ.
Giải pháp 7: Giáo viên giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu vui chơi của mình.

- Về khơng gian: Các góc chơi cần bố trí đảm bảo ngun tắc động- tĩnh; Số lượng
góc chơi: từ 3 - 4 góc, có sự thay đổi sau mỗi chủ đề; Cần tận dụng mọi khơng gian
có sẵn: Sân, hiên lớp học... để tạo góc chơi cho trẻ; Các giá thấp, ngăn cách các
khoảng khơng gian để có thể di chuyển khi cần không gian cho hoạt động của
nhóm lớp; Tranh ảnh trưng bày ở các góc khơng chỉ sử dụng để trang trí, mà phải
cung cấp kỹ năng chơi, giáo viên gợi cho trẻ thực hiện các ý tưởng mới, tranh nên
treo vừa tầm mắt trẻ để trẻ dễ thấy và thực hiện theo.
- Về đồ dùng, đồ chơi, phương tiện, học liệu: Các đồ chơi trẻ phải được sử dụng
thường xuyên hàng ngày, không phải để dùng cho những dịp/kỳ đặc biệt; Đủ để
cho mỗi trẻ chơi tránh xung đột, tranh giành; Phải có nhãn/ ký hiệu để trẻ biết cái


gì - cất giữ ở đâu; Bổ sung đồ dùng đồ chơi phải cân bằng giữa các góc và phải phù
hợp tuổi của trẻ, trẻ hiểu cách sử dụng, cách chơi…
- Xây dựng và duy trì bầu khơng khí thân thiện, tôn trọng và tin cậy:
+ Cô giáo cần khen trẻ nhiều hơn, nên chú trọng quá trình tham gia mà
không nhấn mạnh vào lỗi hay kết quả của trẻ.
+ Khi trẻ có hành vi khơng tốt, cơ cần nói với trẻ về hành vi đó, khơng quy
kết nhân cách của trẻ, chê bai hay mắng mỏ trẻ.
+ Cố gắng thể hiện lời khen, đánh giá... trẻ một cách chân thành từ giọng
nói, thái độ, ánh mắt... để trẻ tin tưởng vào cô nhằm tạo sự an tâm cho trẻ.
+ Nên giao tiếp với trẻ bằng ánh mắt, cử chỉ thân thiện... từ đó trẻ hứng thú
hơn với các hoạt động cùng cô và cùng các bạn
Giải pháp 8: Tập cho trẻ quen với nề nếp mới bắt đầu từ những thói quen
cũ của trẻ.
Có thể vài ngày đầu, tơi vẫn sẽ chiều theo nhiều thói quen khơng tốt của trẻ
như : Ơm cặp bên mình, khơng chịu bỏ cặp vào, ơm gối, khơng ăn thịt, rau, hay ăn
rất ít cơm,….Tơi sẽ từ từ tập dần thói quen nề nếp của trường lớp cho trẻ đến khi
trẻ quen dần và hiểu chuyện tôi sẽ đưa trẻ vào nề nếp ăn ngủ, vệ sinh.
Đến giờ ăn tôi thường để các bé khóc nhiều ngồi gần mình, dỗ dành trẻ ăn

hết suất ăn chứ không ép buộc hay dọa nạt, mắng mỏ trẻ mà khen trẻ ăn giỏi, nếu
trẻ vẫn không ăn thì tơi khơng ép trẻ ăn, tơi sẽ cho trẻ uống sữa, ăn bánh và dặn
phụ huynh cho trẻ ăn nhiều hơn khi về nhà. Nếu trẻ không muốn ăn nữa hoặc
muốn ói tơi sẽ ngưng cho trẻ ăn vì nếu để trẻ ói thì trẻ sẽ rất sợ thức ăn ở trường.
Khi đó tơi sẽ cho trẻ uống sữa nhằm bù lại phần ăn cho trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn


tăng dần lên vài muỗng cơm, trẻ sẽ dễ thích nghi với thức ăn ở trường, sau đó sẽ ăn
nhanh gọn và hết suất ăn của mình.
* Kết quả đạt được.
Qua việc vận dụng một số biện pháp giúp cho trẻ lớp 24 -36 tháng tuổi sớm
thích nghi trường lớp mầm non tôi đã thu được một số kết quả sau:
Đạt
Số lượng

Khơng đạt
Số lượng
%

%

9

90

1

10

TT

1

Các chỉ số
Trẻ thích đến trường, lớp mầm

2
3

non
Trẻ khơng khóc nhè
Trẻ thích tham gia vào các hoạt

8
8

80
80

2
2

20
20

4

động
Trẻ thích nghi với chế độ sinh

7


70

3

30

hoạt tại trường, lớp mầm non
- Sau gần 01 năm học tôi nhận thấy phụ huynh đã tin tưởng vào cô giáo và
nhà trường; sẵn sàng chia sẻ, hợp tác trong mọi hoạt động của lớp, của nhà trường:
Đưa trẻ đi học đúng giờ, trẻ đi học chun cần hơn, ít khóc nhè hơn...
- Phụ huynh đã phối hợp chặt chẽ với nhà trường cùng ni dưỡng- chăm
sóc và giáo duc các cháu cũng như giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngày càng được
nâng cao và duy trì thường xun.
- Trẻ thích nghi với môi trường và chế độ sinh hoạt của lớp, ngoan ngỗn và
biết nghe lời cơ giáo, hứng thú tham gia các hoạt động tại trường, lớp.
- Sau khi áp dụng các biện pháp giúp trẻ lớp 24 -36 tháng sớm thích nghi
trường lớp mầm non, kết quả trên trẻ đạt khá cao so với đầu năm khi chưa áp dụng
sáng kiến. Đây cũng là kết quả khích lệ cho bản thân tơi khi cố gắng tìm ra các giải
pháp thiết thực, tối ưu hơn nữa trong năm học này và những năm học tiếp theo.


3. Phần kết luận:
3.1. Ý nghĩa của đề tài.
Từ những cơ sở thực tiễn trên, tôi nhận ra rằng giữa giáo viên, nhà trường và gia
đình trẻ phải có sự thống nhất, kết hợp trong tồn bộ q trình chăm sóc, bảo vệ và
giáo dục trẻ. Trẻ mầm non cịn rất non nớt, không thể tự phát triển mà không có vai
trị dẫn dắt của người lớn .Vì vậy việc giáo dục mầm non phải thể hiện được vai
trò chủ đạo của giáo viên, đưa ra những yêu cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân,
vốn sống của trẻ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải trẻ nào cũng có thể sớm

thích nghi với trường mầm non mà chỉ có những trẻ dễ ăn ngủ cũng như khả năng
thích ứng với sự thay đổi của môi trường sống và quan hệ người – người mới có
thể thích nghi tốt với những ngày đầu đi học. Ngay cả người lớn cũng thế, “cơ địa”
của mỗi người sẽ quy định sự thích ứng ở mỗi người khác nhau với mơi trường
sống thông qua những “điểm đổi thay” trong cuộc đời: Lập gia đình, mất người
thân, thay đổi nơi ở… Trẻ con càng dễ nhạy cảm hơn với những sự thay đổi như
thế. Điều quan trọng là phải tạo điều kiện cho trẻ thích nghi dần dần chứ khơng
nên chạy bỏ cái khó vì u trẻ…
Qua q trình nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ lớp 24 -36
tháng tuổi sớm thích nghi trường lớp mầm non”. Tơi cảm thấy mình đã rất cố gắng
hồn thành tốt vai trị của một cô giáo mầm non. Từ những trẻ cá biệt có thể xem
là rất khó hịa nhập với mơi trường mới tôi cũng đã dần dần tạo được sự thân thiện,
gần gũi, hướng trẻ hòa nhập vào trường lớp một cách tốt nhất. Tôi đã tạo được
niềm tin vui, an tâm, tin tưởng cho các bậc phụ huynh khi trao con trẻ cho tơi. Các
cháu ở lớp tơi sớm thích nghi với trường lớp mầm non, trẻ ngoan ngoãn mạnh dạn
hơn khi giao tiếp, khả năng tự phục vụ ngày càng tốt hơn.


3.2 Kiến nghị
* Đối với nhà trường:
- Bổ sung thêm cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi cho trẻ tham gia các hoạt
động một cách thoải mái.
- Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên để có những
tiết dạy hay, hấp dẫn trẻ.
- Tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan, học tập để cùng trao đổi, chia
sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp trong trường và trong huyện.
* Đối với giáo viên:
- Nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm với công viêc, yêu nghề, mến trẻ có
tinh thần đồn kết, chia sẽ, học hỏi bạn bè, đồng nghiệp.
- Ln có ý thức tự học, tự rèn, nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ,

làm tốt công tác tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học với các bậc
phụ huynh và cộng đồng.
Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ lớp 24 -36 tháng tuổi sớm thích nghi
trường lớp mầm non mà bản thân tơi đã tìm tịi, áp dụng trong thời gian qua và đã
đưa lại kết quả khả quan. Tuy nhiên trong q trình thực hiện khơng tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong sự góp ý chân thành của Hội đồng khoa học các cấp để
đề tài thực hiện ngày càng tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD & ĐT


……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………



×