Chuyên đề 1
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI.
+ Mục đích: Nhằm nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ đảng viên ở cơ
sở về âm mưu gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch và tính chất, đặc điểm của cuộc chiến tranh toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa và nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; những
quan điểm, tư tưởng cơ bản trong đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự của Đảng,
trong lãnh đạo nhân dân thực hiện chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, giành thắng lợi,
nhằm bảo vệ thành quả cách mạng Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
+ Yêu cầu: Mỗi cán bộ, đảng viên ở cơ sở cần nắm rõ tính chất, đặc điểm,
nội dung; phương châm chỉ đạo, tư tưởng chiến lược, biện pháp tổ chức cuộc chiến
tranh toàn dân bảo vệ Tổ quốc đồng thời thấy rõ được âm mưu thủ đoạn xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch để lật đổ Việt Nam.
+ Nội dung: tồn bài có 3 phần chính:
-Phần I. Những vấn đề chung về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
-Phần II. Nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
-Phần III. Một số biện pháp chính.
+Thời gian: tồn bài 5 tiết.
+ Thời gian giải lao 01 lần mỗi lần 15 phút.
+ Tài liệu và phương pháp tổ chức:
- Giáo trình giáo dục Quốc Phòng bồi dưỡng kiế thức quốc phòng-An ninh
cho đảng viên và cán bộ chủ chốt thôn, làng ( đối tượng 4-5 ) do nhà nước xuất bản
Quân đội nhân dân Việt Nam, xuất bản năm 2006.
- Liên hệ ở cơ sở địa phương; tốc độ chậm.
- Đối với người học, nghe, ghi tóm lược những ý chính để có cơ sở viết thu
hoạch.
MỞ ĐẦU
Vũ trang tồn dân tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là một trong những quan điểm, tư tưởng cơ bản trong đường lối quân sự của
Đảng, là nghệ thuật, đồng thời là quy luật ( vì chống ngoại xâm là chính nghĩa ...)
giành thắng lợi của dân tộc ta trong bảo vệ thành quả cách mạng, chống lại cuộc
chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Học tập chuyên đề này, người học cần nắm vững những vấn đề cơ bản nhất,
gồm: tính chất, đặc điểm, nội dung của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc,
phương châm chỉ đạo, phương thức tiến hành chiến tranh, một số giải pháp
chuẩn bị đất nước sẵn sàng tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Khái niệm:
Chiến tranh nhân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cuộc chiến
tranh do toàn thể nhân dân Việt Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1
- Mục tiêu là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu
đó đã được Đảng ta xác định:
-“Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
-Hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước XHCN.
-Ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-Bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
-Năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn hóa.
-Sáu là, giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Lực lượng tiến hành chiến tranh là lực lượng toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản Việt Nam, bao gồm lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, trong
đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nịng cốt.
- Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện ngày này là sự kế thừa tinh hoa quân sự của lịch sử nhân
loại, kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, phát triển nghệ thuật chiến tranh
nhân dân lên một trình độ mới, với chất lượng cao hơn. Đó là nghệ thuật phát động
tồn dân chung sức đánh giặc, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, đánh bằng mọi
loại vũ khí kết hợp với đánh bằng các loại vũ khí, phương tiện hiện đại, đáp ứng
với yêu cầu của chiến tranh có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao.
- Phương pháp tiến hành chiến tranh là kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị
với lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp tác chiến
bằng chiến tranh nhân dân địa phương với tác chiến của các binh đồn chủ lực.
2. Tính chất, đặc điểm:
a) Tính chất của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Đây là cuộc chiến tranh mang tính chất tự vệ, hồn tồn chính nghĩa, tính
chất cách mạng triệt để, tính chất nhân dân thực sự và tính Quốc tế sâu sắc. Chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là chính nghĩa. Vì đây là
một cuộc chiến tranh tự vệ, chống lại chiến trang xâm lược, bảo vệ chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguồn sức mạnh vơ tận có ý nghĩa quyết định việc xây dựng tiền lực
chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội trong chiến tranh, là cơ sở để huy
động lực lượng tạo thành thức mạnh tổng hợp của cả nước đánh giặc; đồng thời
giành được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hịa bình và các lực
lượng tiến bộ trên thế giới.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính
chất cách mạng triệt để. Vì đây là một cuộc chiến tranh tự vệ, chống lại sự xâm
lược của các lực lượng phản động, hiếu chiến để bảo vệ nhân dân, bảo vệ sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. ( giống như đối tượng kẻ xấu đến nhà mình quậy phá gia
đình, lớn hơn nữa là anh, em, họ hàng tập trung đánh đuổi ra khỏi nhà để bảo vệ
gia đình...là cuộc chiến khơng mong muốn, là sự tự vệ phản kháng khi kẻ thù đến
nhà mình đánh mình)
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính
chất nhân dân sâu sắc. Mục đích của chiến tranh là vì lợi ích của nhân dân lao
động và chính quần chúng nhân dân tham gia một cách tự giác, tích cực vào sự
2
nghiệp củng cố quốc phòng và tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đây là một
trong những nguyên nhân quyết định thắng lợi của chiến tranh.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính
chất quốc tế sâu sắc. Mục tiêu cuộc chiến tranh này thể hiện sự thống nhất lợi ích
dân tộc, lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sự
nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự đóng góp
tích cực của cách mạng nước ta đối với cách mạng thế giới trong điều hiện hiện
nay, là cơ sở để xây dựng khối liên minh, đoàn kết quốc tế, là điều kiện để tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới. Đây cũng là
cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
b) Đặc điểm của chiến tranh trong nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cuộc
chiến tranh mang đặc điểm toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường và quyết
liệt, phức tạp.
- Là cuộc chiến tranh toàn dân: Cuộc chiến tranh này phải dựa vào sức mạnh
của toàn dân, phải động viên, phát huy cao độ sức mạnh vật chất và tinh thần của
tồn dân trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nịng cốt mới có thể giành được
thắng lợi trước cuộc tiến công của kẻ thù hung bạo.
- Là cuộc chiến tranh toàn diện: Mục đích chiến tranh xâm lược của địch là
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, buộc ta phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng đánh ta
bằng mọi thủ đoạn, trên mọi lĩnh vực. Bởi vậy, chúng ta phải tiến hành đấu tranh
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao ... Thông
qua các mặt đấu tranh đó mà tồn dân tham gia trực tiếp, gián tiếp vào cuộc chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Các mặt đấu tranh này đều diễn ra hết sức phức tạp,
quyết liệt, đan xen nhau ngay từ đầu cũng như suốt q trình chiến tranh, trong đó
đấu tranh qn sự với địch trên chiến trường giữ vai trò chủ yếu, mang ý nghĩa
quyết định.
- Là cuộc chiến tranh được tiến hành với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường: Trong điều kiện mới của đất nước, chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh có
nhiều thuận lợi do cơng cuộc đổi mới đem lại. Nhưng chúng ta đang phải đối phó
với kẻ thù xâm lược, có tiềm lực về kinh tế, qn sự, có vũ khí cơng nghệ cao,
trong lúc nguồn viện trợ của các nước đối với ta như trong chiến tranh giải phóng
trước đây khơng cịn nữa. Bởi vậy, chúng ta phải dựa vào sức mình là chính, phải
phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực tự cường của toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
của các cấp, các ngành, các địa phương để tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng
địch.
- Là cuộc chiến tranh quyết liệt và phức tạp: Nếu chiến tranh xảy ra thì ta
vẫn là một nước nhỏ phải lấy vũ khí, trang bị kém hiện đại chống lại kẻ thù có vũ
khí có cơng nghệ cao, vẫn phải lấy sức mạnh tổng hợp để đánh thẳng kẻ thù có sức
mạnh về kinh tế, vũ khí, trang bị hiện đại. Điều cơ bản là phải phát huy truyền
thống nghệ thuật quân sự của dân tộc ta: lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy
chất lượng cao, sức sức mạnh tổng hợp của tồn dân để đánh lại kẻ thù có qn số
đơng, vũ khí, trang bị hiện đại, có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự.
3
Trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc hiện nay, chiến sự diễn ra rất quyết liệt,
phức tạp, khẩn trương ngay từ đầu; hình thái chiến tranh xen kẽ, khơng phân tuyến,
khơng có sự phân biệt rõ ràng giữa hậu phương và tiền tuyến. Chúng ta vừa phải
chống cuộc tiến công đường không, vừa chống cuộc tiến công đường bộ với sức
mạnh của vũ khí cơng nghệ cao từ ngồi vào, đồng thời vừa phải đối phó với lực
lượng phản động gây bạo loạn từ bên trong. Quy mô chiến tranh lớn diễn ra từ đầu
thương vong về người, tiêu hao về vật chất kỹ thuật sẽ rất lớn, nhu cầu bảo đảm cho
chiến tranh đòi hỏi rất cao và khẩn trương. Đặc điểm này của cuộc chiến tranh sẽ
tác động rất mạnh đến tinh thần, tâm lý của quân và dân ta, địi hỏi cơng tác chuẩn
bị chính trị, tinh thần cho quân và dân ta phải rất chu đáo cùng các mặt chuẩn bị
khác để giành và giữ quyền chủ động đánh địch ngay từ đầu cũng như trong suốt
quá trình chiến tranh nhằm giành được thắng lợi cuối cùng.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
a) Đối tượng tác chiến:
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã dự báo tình
hình quốc tế, khu vực và trong nước là: “Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng
xảy ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố cịn xảy ra ở nhiều nơi với
tính chất phức tạp ngày càng tăng. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và cơng bằng xã hội sẽ có bước tiến
mới”. Trong tình hình đó, địi hỏi chúng ta phải nắm vững đối tượng chiến lược của
cách mạng và đối tượng tác chiến để khắc phục tư tưởng mơ hồ mất cảnh giác “để
có phương án chủ động phịng ngừa, tránh bị động phòng ngừa, tránh bị động đối
đầu, cô lập. Kiên quyết không để xảy ra những diễn biến xấu. Trong bất kỳ hồn
cảnh nào cũng khơng để lâm vào bị động, đảm bảo đủ sức đối phó thắng lợi.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX của Đảng ta đã xác định: Đối
tượng trực tiếp của cách mạng nước ta là tất cả những thế lực cản trở, xâm hại đến
sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đối
tượng tác chiến của quân và dân ta là những lực lượng gây bạo loạn lật đổ, gây
xung đột vũ trang và gây chiến tranh xâm lược.
b) Âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch:
Xuất phát từ bản chất phản động, hiếu chiến, chủ nghĩa đế quốc đang lợi
dụng “vấn đề khủng bố” và “chống khủng bố” để thi hành học thuyết “đánh đòn
phủ đầu”, nhằm áp đặt các giá trị của chúng đối với các quốc gia, dân tộc. Âm mưu
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta là mục tiêu nhất quán của của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch. Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh thực hiện chiến
lược “diễn biến hịa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ và khi điều kiện cho phép,
chúng sẽ sẵn sàng tiến hành phát động chiến tranh với việc sử dụng vũ khí cơng
nghệ cao để xâm lược nước ta. Hiện nay, chúng đang triệt để lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta.
Cho nên, chúng ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phải
4
tỉnh táo, thận trọng trong xử lý các “điểm nóng” không thể để địch tạo nguyên cớ
can thiệp vào công việc nội bộ của ta hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta.
Nếu địch tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, chúng sẽ triệt để sử dụng
ưu thế vũ khí cơng nghệ hiện đại để đánh phủ đầu, liên tục ngày đêm trong phạm vi
cả nước với phương châm đánh nhanh, giải quyết nhanh, nhằm triệt phá tiềm lực
kinh tế - quân sự, quốc phòng làm mất khả năng đề kháng của quân và dân ta, tạo
điều kiện thuận lợi cho bộ binh đánh chiếm những mục tiêu quan trọng.
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù cũng bộc lộ những mặt yếu
cơ bản không thể khắc phục được: Cuộc chiến tranh đó là phi nghĩa, phản cách
mạng sẽ bị nhân dân trong nước và trên thể giới phản đối mạnh mẽ, phát sinh nhiều
mâu thuẫn nội bộ, khó thực hiện được chiến lược đánh nhanh, giải quyết nhanh, dễ
bị sa lầy trong thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Chúng buộc phải phân tán,
đối phó khắp nơi, vấp phải mâu thuẫn khó giải quyết của chiến tranh xâm lược, dẫn
đến bị động, lúng túng, tinh thần hoang mang dao động, giảm sút ý chí.
Địa hình, thời tiết nước ta hiểm trở, phức tạp nên vũ khí hiện đại của địch
khơng thể triển khai và phát huy hiệu quả. Mỗi loại vũ khí trang bị đều có nhược
điểm của nó và nhất định quân và dân ta cũng sẽ tìm được cách đối phó thắng lợi
trong thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Chi phí chiến tranh cơng nghệ cao
rất lớn, bảo đảm vật chất kỹ thuật tốn kém và gặp nhiều khó khăn, nhất là khi chiến
tranh kéo dài. Do đó, chúng ta nhất định bị thất bại.
2. Phương châm chỉ đạo chiến tranh của nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn
diện; đánh địch trên các chiến trường, tập trung sức đánh bại địch trên các hướng
(khu vực) trọng điểm; thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian chiến tranh; vừa chiến
đấu vừa xây dựng, dựa vào sức mình là chính, ra sức tranh thủ các điều kiện quốc
tế thuận lợi trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh bại ý chí xâm
lược của địch, giành thắng lợi trong chiến tranh.
a) Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, tiến hành chiến tranh toàn
dân, toàn diện.
Đây là nội dung chủ yếu của phương châm chỉ đạo, là nghệ thuật tạo sức
mạnh tổng hợp, đồng thời cũng là quy luật giành thắng lợi trong chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc.
* Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công:
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính
chất cách mạng, triệt để. Do vậy, tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt là tiến công; tiến
công kiên quyết, liên tục. Đây là tư tưởng chỉ đạo mọi hoạt động trong quá trình
chuẩn bị cũng như tiến hành chiến tranh.
Ngày nay, trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc chúng ta càng có đầy
đủ các điều kiện để tiến cơng và tiến cơng có hiệu quả, đánh bại kẻ thù xâm lược.
* Tiến hành chiến tranh toàn dân:
- Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính
chất hồn tồn chính nghĩa và tính chất nhân dân thực sự. Vì vậy, phải dựa vào sức
mạnh của toàn dân, phải huy động được sức mạnh tinh thần và vật chất của mọi
tầng lớp nhân dân, phải huy động mọi lực lượng tham gia chiến đấu tạo nên thế trận
5
“thiên la địa võng” đẩy địch vào thế bị động, bị tiêu hao lớn về sinh lực, vật lực và
cuối cùng nhất định địch phải chịu thất bại.
- Thực hiện toàn dân đánh giặc phải lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm
nòng cốt, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ.
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với
tác chiến của các đơn vị chủ lực để thực hiện việc tiêu hao địch rộng rãi và thực
hiện hững đòn tiêu diệt tập trung với quy mơ vừa và lớn.
* Tiến hành chiến tranh tồn diện:
Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh về chính trị, ngoại
giao, kinh tế, văn hóa và tư tưởng, trong đó lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu, lấy
thắng lợi trên chiến trường là quyết định.
- Về đấu tranh vũ trang:
Đây là một hình thức đấu tranh cơ bản, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong
việc tiêu hao, tiêu diệt lực lượng quân sự của địch. Đấu tranh vũ trang được tiến
hành bởi lực lượng của tồn dân, trong đó lực lượng vũ trang giữ vai trị nịng cốt.
- Về đấu tranh chính trị:
Đây là một hình thức đấu tranh cơ bản, thơng qua đó mà nêu cao được chính
nghĩa của ta, vạch trần bản chất xâm lược, phi nghĩa và tội ác dã man của địch. Tiến
hành đấu tranh chính trị sẽ góp phần đập tan mọi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc,
lừa gạt và chia rẽ của địch, làm cho bọn hiếu chiến, xâm lược ngày càng bị cô lập
và suy yếu về chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt trận đấu tranh khác. Nội
dung đấu tranh về chính trị rất phong phú. Trong đó, phải tăng cường tuyên truyền,
giáo dục làm cho toàn thể nhân dân hiểu rõ bản chất phi nghĩa của chiến tranh xâm
lược do địch tiến hành, vạch trần bộ mặt “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” giả hiệu
và những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của chúng. Đồng thời, khẳng định tính
đúng đắn của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khơi dậy trong nhân
dân truyền thống quật cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, ý chí độc lập, tự
chủ, tự giác, tự cường, lòng căm thù giặc sâu sắc, làm cho mọi người đồng lòng
chống giặc.
- Về đấu tranh tư tưởng, văn hoá:
Đây là cuộc đấu tranh nhằm “nâng cao cảnh giác cách mạng, vạch trần các
thủ đoạn phá hoại về tư tưởng, góp phần làm thất bại một bước “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch”, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng; kiên định mục tiêu,
bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nội dung đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa bao gồm nhiều vấn đề,
trong đó cần phải chủ động tiến cơng làm thất bại chiến lược “diễn biến hịa bình”
trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch ngay tại địa phương, cơ sở.
Phải đấu tranh chống địch xuyên tạc, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phải nắm chắc mọi diễn
biến, kịp thời xử trí những tình huống phức tạp, đề phòng nguy cơ “tự diễn biến” từ
trong nội bộ. Đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng; đấu tranh
loại trừ tham nhũng, lãng phí, quan liêu; ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối
sống và đầy lùi các tệ nạn xã hội tại cường cơ sở địa phương, giữ gìn và phát huy
những tinh hoa trong bản sắc văn hóa dân tộc.
6
- Về đấu tranh kinh tế:
Phải làm thất bại âm mưu và hành động phá hoại về kinh tế của địch, bảo vệ
bằng được tiềm lực kinh tế của ta, bảo vệ các trung tâm kinh tế, các khu công
nghiệp, khu chế xuất trước mọi thủ đoạn đánh phá của địch, bảo vệ sản xuất và ổn
định đời sống cho nhân dân, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa trong pháttriển
kinh tế. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, phát triển sản xuất ở các địa phương,
góp phần xây dựng tiềm lực kinh tế cho đất nước; đồng thời phải sử dụng tốt mọi
nguồn viện trợ của các nước, các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
- Về đấu tranh ngoại giao:
Đây là mặt trận đấu tranh có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm phát huy
thế mạnh của ta trên trường quốc tế. Phải vạch trần bản chất xâm lược phi nghĩa
của địch, tính chất chính nghĩa của ta, triệt để lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng
ngủ địch làm cho chúng ngày càng bị cô lập, lúng túng và bị động trên chiến
trường, trong nước và trên thế giới.
Phải thực hiện chính sách nhất quán thêm bạn bớt thù và nguyên tắc lợi dụng
những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
b) Chuẩn bị đầy đủ mọi mặt trên cả nước và từng khu vực, thu hẹp không
gian và rút ngắn thời gian chiến tranh:
* Chuẩn bị đầy đủ mọi mặt trên cả nước và từng khu vực.
Đây là nhiệm vụ vừa là giải pháp trọng yếu, cấp bách và thường xuyên. Nó
bao gồm mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành chuẩn bị
nhằm tăng nhanh các tiềm lực của từng địa phương, của đất nước, bảo đảm đủ khả
năng chủ động, tự lực đánh địch giành thắng lợi trong bất cứ tình huống nào, bảo
vệ vững chắc địa phương, góp phần bảo vệ vững chắc đất nước. Nội dung chuẩn bị
phải toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quốc phịng - an ninh, khơng
ngừng xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
phù hợp với hồn cảnh mới.
* Thu hẹp khơng gian chiến tranh:
Chiến tranh xâm lược của địch nếu xảy ra có thể sẽ diễn ra cả trên bộ, trên
biển, trên không, trên biên giới, trong đất liền, hải đảo. Chúng ta phải tạo được thế,
tạo được lực, tạo thời cơ để thu hẹp không gian chiến tranh, không cho địch mở
rộng chiến tranh ra phạm vi cả nước.
Đối với từng địa phương cơ sở phải tự lực đánh địch, bảo vệ địa phương
mình, thực hiện tỉnh giữ tỉnh, huyện giữ huyện, xã giữ xã; phải bám trụ kiên cường
để chủ động đánh địch, kìm giữ địch, buộc địch phải đối phó mọi nơi, tạo điều kiện
cho quân chủ lực đánh đòn quyết định.
* Rút ngắn thời gian chiến tranh :
Trong chiến tranh tương lai, địch vẫn dựa vào vũ khí trang bị hiện đại, tiềm
lực kinh tế, quân sự hơn chúng ta để thực hiện chiến lược “đánh nhanh, giải quyết
nhanh” nhằm đạt mục đích chiến tranh xâm lược. Đối với ta, để đánh bại ý đồ đó,
một mặt ta buộc chúng phải sa lầy kéo dài chiến tranh, mặt khác ta phải tập trung
mọi nỗ lực tạo ra thời cơ có lợi, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian
ngắn để hạn chế bớt tổn thất.
Từng địa phương phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt từ thời bình. Khi chiến
tranh xảy ra cần phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của
các lực lượng, của toàn dân, vận dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp đấu
7
tranh với sự nỗ lực cao nhất, tạo ra điều kiện, thời cơ có lợi cho bộ đội chủ lực và
cùng với bộ đội chủ lực khi thời cơ xuất hiện thì kịp thời nắm lấy thời cơ, tiến cơng
kiên quyết và mạnh mẽ, đánh bại ý chí xâm lược của địch trong thời gian ngắn hoặc
tương đối ngắn.
c) Kết hợp tác chiến với xây dựng, vừa tác chiến vừa ra sức sản xuất
thực hành tiết kiệm, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng của ta để càng đánh
càng mạnh.
Đây là quan điểm cơ bản của Đảng ta chỉ đạo xuyên suốt quá trình đấu tranh
cách mạng, thể hiện ở sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ chống xâm lược để bảo vệ
Tổ quốc với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ngay trong quá trình chiến tranh.
Muốn duy trì được sức mạnh đánh thắng kẻ thù xâm lược, phải kiên cường trụ bám,
củng cố và giữ vững hậu phương chiến lược và hậu phương trên từng hướng chiến
trường, trên từng địa phương. Từng địa phương cũng như cả nước phải phát huy
cao nhất nội lực vừa chiến đấu, vừa xây dựng, vừa tích cực đẩy mạnh sản xuất,
thực hành tiết kiệm, tích cực lấy vũ khí của địch để đánh địch. Vừa đánh địch vừa
bồi dưỡng lực lượng của ta, thực hiện càng đánh càng mạnh.
3. Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tương
lai vẫn thực hiện theo phương thức kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh nhân dân địa
phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực.
a) Tiến hành chiến tranh nhân dân địa phương:
Chiến tranh nhân dân địa phương được thực hiện ở từng địa phương, bao
gồm các hoạt động tác chiến của nhân dân, của các lực lượng vũ trang địa phương,
có thể cả các đơn vị bộ đội chủ lực đang làm nhiệm vụ tác chiến ở địa phương.
- Vị trí, tác dụng:
Chiến tranh nhân dân địa phương có vị trí chiến lược quan trọng, có tác dụng
đánh địch nhanh nhất, kịp thời nhất ở mọi nơi, mọi lúc. Mọi người đều tham gia
đánh địch ngay tại địa phương mình, bằng mọi thứ vũ khí, với một hình thức, thủ
đoạn tác chiến.
Chiến tranh nhân dân địa phương có tác dụng kìm giữ địch, buộc chúng phải
phân tán lực lượng đối phó khắp nơi, tạo thế trận chiến tranh xen kẽ, đánh địch ở
phía trước, ở bên sườn, sau lưng địch, làm rối loạn đội hình, phá thế bố trí hồn
chỉnh của địch.
Chiến tranh nhân dân địa phương phát triển có tác dụng to lớn trong việc tổ
chức động viên toàn dân đánh giặc trên từng địa phương cũng như trong cả nước;
cho phép phát huy sức mạnh tại chỗ đánh địch kịp thời giành và giữ quyền chủ
động trong mọi tình huống, đồng thời bảo vệ và duy trì, phát triển được tiềm lực
mọi mặt trong quá trình chiến tranh.
Chiến tranh nhân dân địa phương giữ vai trò chủ yếu quyết định trong việc
đập tan bạo loạn lật đổ xảy ra tại địa phương; cùng với lực lượng an ninh, duy trì an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ cơ quan Đảngm chính quyền các cấp ở
địa phương. Đồng thời cùng với chiến tranh bằng các binh đồn chủ lực hình thành
ệh thống phịng khơng rộng khắp, nhiều tầng trong khu vực phịng thủ, sẵn sàng
đánh trẻ tiến công bằng hỏa lực của địch ngay từ đầu.
- Lực lượng tiến hành:
8
Là lực lượng tồn dân, trong đó lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt.
Các lực lượng này được tổ chức, bố trí trên từng khu vực địa bàn chiến đấu, phòng
thủ để thực hiện các nhiệm vụ được giao; khi cần thiết có thể điều động sang địa
phương, khu vực khác tham gia tác chiến.
Các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng khu vực
phòng thủ vững chắc, xây dựng làng, xã vững mạnh toàn diện, xây dựng địa bàn an
toàn làm chủ. Trên cơ sở đó, khi chiến tranh xảy ra, kịp thời triển khai xây dựng
thành làng, xã chiến đấu theo phương án tác chiến phòng thủ. Đồng thời phải chuẩn
bị các kế hoạch, trong đó chú ý đến kế hoạch phòng thủ dân sự, kế hoạch phòng
tránh, đánh địch tiến công bằng hỏa lực, hạn chế tổ thất về người, trang bị vật chất
kỹ thuật, kịp thời chuyển địa phương sang thời chiến, chủ động đánh địch.
b) Tiến hành chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực:
Chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực bao gồm các hoạt động tác chiến tập
trung của các binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ, của các quân khu, quân chủng,
binh chủng tiến hành các trận đánh vừa và lớn, các chiến dịch trên các chiến trường
cả nước hay trên từng hướng chiến lược quan trọng, nhằm tiêu diệt vừa và lớn lực
lượng quân chủ lực địch, tạo bước ngoặt quyết định hoặc cục diện chiến trường có
lợi trên từng chiến trường, trong từng giai đoạn chiến tranh hay cả cuộc chiến tranh.
- Vị trí tác dụng:
- Chiến tranh bằng các binh đồn chủ lực giữ vai trò quyết định trực tiếp tiêu
diệt lực lượng vừa và lớn quân địch, tạo nên sự thay đổi tương quan so sánh lực
lượng và cục diện chiến trường có lợi cho ta, làm thất bại mọi âm mưu, kế hoạch
chiến lược của chúng, bảo vệ vững chắc các mục tiêu chiến lược của quốc gia.
Lực lượng tiến hành chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực được bố trí trên
các địa bàn chiến lược, trên chiến trường cả nước hoặc trên một số hướng quan
trọng, cùng với các khu vực phịng thủ hình thành thế trận vững chắc trên từng địa
phương; khi cần cũng có thể bố trí và làm nhiệm vụ tác chiến trên từng địa phương.
Khi bộ đội chủ lực hoạt động tác chiến trên địa phương, địa phương phải có
trách nhiệm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho bộ đội chủ lực và phối hợp
hoạt động tác chiến với bộ đội chủ lực.
c) Kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh nhân dân địa phương với chiến
tranh bằng các bình đồn chủ lực.
Trong việc kết hợp hai phương thức tiến hành chiến tranh tạo ra sức mạnh
tổng hợp, thì chiến tranh nhân dân địa phương luôn luôn là cơ sở của chiến tranh
bằng các binh đoàn chủ lực. Chiến tranh nhân dân địa phương lớn mạnh có khả
năng đánh địch rộng khắp, kìm giữ, tiêu hao địch rộng rãi, buộc địch phải phân tán
đối phó khắp nơi, thì khi đó các đơn vị bộ đội chủ lực mới có điều kiện thuận lợi
tập trung lực lượng đánh tiêu diệt lớn lớn địch, phát huy sức mạnh của mình và
khơng ngừng phát triển. Chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực tạo điều kiện cho
chiến tranh nhân dân địa phương giữ vững và phát triển.
Nội dung sự kết hợp đó là kết hợp giữa các lực lượng tại chỗ với lực lượng
cơ động, các quy mơ, các cách đánh, các loại vũ khí trang bị; kết hợp giữa đánh tập
trung của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với đánh phân tán, rộng khắp của
dân quân tự vệ, bộ đội địa phương và lực lượng của toàn dân đánh giặc; là sự kết
hợp giữa đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt trên mọi chiến trường, mọi không gian và
thời gian chiến tranh.
9
Hai phương thức này kết hợo chặt chẽ với nau sẽ tạo ra địa bàn, thế trận, thời
cơ, bổ sung lực lượng cho nhau, hỗ trợ cho nhau, phát huy được mặt hạnh, khắc
phục được mặt yếu của nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của chiến tranh nhân dân trong mọi lúc mọi nơi.
4. Sự lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vì cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của ta
là nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn lịch sử đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu quyết
định thắng lợi của hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm trước đây.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc đề ra đường lối chính trị, đường lối
quân sự đúng đắn, đủ khả năng để quy tụ sức mạnh của quốc gia, dân tộc và quốc tế
tạo thành sức mạnh tổng hợp và cụ thể hóa đường lối đó thành ý chí, quyết tâm và
hành động cách mạng của toàn dân, toàn quân. Nó cịn thể hiện ở vai trị tiền
phong, gương mẫu của lớp lớp Đảng viên luôn nêu cao tinh thần quyết chiến quyết
thắng, kiên định vững vàng, không ngại gian khổ, ác liệt hy sinh, bồi dưỡng và tổ
chức nhân dân phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tạo nên sức mạnh
chính trị tinh thần và vật chất to lớn để đánh thắng địch. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang trong chiến tranh là nhân tố
bảo đãm cho lực lượng vũ trang thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và
Nhà nước, làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc, giành thắng lợi trong chiến tranh.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiện nay cần phải tập trung xây dựng và củng
cố hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Phải tổ chức động viên được toàn dân, phát huy
được sức mạnh toàn dân, của cả hệ thống chính trị ở địa phương, chuẩn bị đầy đủ
mọi mặt và sẵn sàng đối phó có hiệu quả với mọi tình huống chiến tranh, giành
thắng lợi. Phải chú trọng xây dựng, hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo lựclượng vũ
trang, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác Đảng, cơng tác chính trị trong lực
lượng vũ trang.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍNH:
1. Xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt.
Xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt là cách tốt nhất để bảo vệ đất nước,
giữ vững hịa bình, ổn định lâu dài. Do đó:
- Phải thực hiện thắng lợi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, không
ngừng chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân; thực hiện tốt chủ
trương xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. Đây là nền tảng vững chắc để
động viên sức mạnh của toàn dân đánh giặc. Đồng thời, phải chủ động đề phòng và
kiên quyết đẩy lùi các nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho dân tin
Đảng, tin chính quyền, tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng được “thế trện
lòng dân”.
- Phải tăng cường giáo dục quốc phòng làm cho mọi người dân nhận thức
được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mì nhtrong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
nhận thức được âm mưu, thủ đoạn của địch, nâng cao tinh thần cảnh giác cách
mạng; có kiến thức nhất định về quốc phịng – an ninh, quân sự.
10
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng - an ninh ở tất cả các cấp, các ngành, ở mọi lĩnh vực.
- Xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh, giữ vững
và nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, phát huy được vai trị và hiệu lực
điều hành của chính quyền và quyền làm chủ của nhân dân.
- Hoàn thành các kế hoạch động viên thời chiến: Kế hoạch đồng viên kinh tế,
động viên công nghiệp, động viên lực lượng vũ trang; tăng cường xây dựng cơ sở
chính trị, xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng các làng, xã vững
mạnh toàn diện, khi chiến tranh xảy ra triển khai thành làng, xã chiến đấu.
- Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đối với từng địa phương cơ sở phải hết
sức chú ý xây dựng dân quân tự vệ, xây dựng và quản lý lực lượng dự bị động viên
mạnh về mọi mặt, đặc biệt chất lượng về chính trị.
2. Chuẩn bị đất nước sẵn sàng chống xâm lược.
a) Chuẩn bị về chính trị, tinh thần cho nhân dân.
Việc chuẩn bị về chính trị, tinh thần cho nhân dân cần tập trung vào giáo dục
chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam, làm cho nhân dân thấy rõ
tính chất chính nghĩa của ta, tính chất phi nghĩa của địch, các điểm yếu của vũ khí
cơng nghệ cao, nâng cao lịng tin vào khả năng đánh thắng của ta để nhân dân sẵn
sàng chịu đựng gian khổ hy sinh, bám trụ kiên cường, vừa chiến đấu vừa sản xuất.
Đồng thời, huấn luyện cho nhân dân làm tốt cơng tác phịng thủ dân sự để nhân dân
tự bảo vệ tính mạng, tài sản của mình. Trong thời bình hiện nay, cần gắn nội dung
phòng tránh, sơ tán cho nhân dân, các ban, ngành, đoàn thể trong diễn tập tác chiến
trị an của xã, phường, diễn tập khu vực phòng thủ của huyện, tỉnh.
b) Chuẩn bị về kinh tế:
Chuẩn bị kế hoạch sẵn sàng chuyển mọi hoạt động về kinh tế của địa phương
theo yêu cầu của chiến tranh, duy trì phát triển sản xuất vừa bảo đảm ổn định đời
sống cho nhân dân vừa đáp ứng theo yêu cầu cần chiến tranh. Có kế hoạch dự trữ
các loại nguyên liệu, nhiêu liệu...
c) Chuẩn bị lực lượng vũ trang:
Phải chuẩn bị toàn diện nhưng đối với địa phương, cơ sở cần tập trung vào
chuẩn bị phát triển lực lượng vũ trang (dân quân tự vệ) theo yêu cầu thời chiến, tổ
chức quản lý chặt chẽ lực lượng dự bị động viên sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ động
viên quân dự bị bảo đảm đúng, đủ, bí mật, an tồn; chuẩn bị vật chất kỹ thuật bảo
đảm cho các lực lượng chiến đấu.
3. Chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến:
a) Yêu cầu:
Phải nắm bắt âm mưu và diễn biến hành động của địch; chuyển đất nước,
chuyển địa phương sang thời chiến chính xác, kịp thời, bảo đảm hạn chế thấp nhất
tổn thất trong thời gian đầu chiến tranh, nhanh chóng tăng cường sức mạnh trên
từng địa phương, góp phần tạo sức mạnh của cả nước để sẵn sàng đối phó với các
tình huống chiến tranh.
Chuyển đất nước và địa phương sang thời chiến phải rất khẩn trương, bảo
đảm bí mật, an tồn, trên cơ sở chuẩn bị tốt từ thời bình để trong một thời gian
ngắn phải phát triển lực lượng, triển khai thế trận ... Các địa phương phải hoàn
11
thành các chỉ tiêu động viên trước khi chiến tranh xảy ra, có vậy mới đáp ứng yêu
cầu chiến tranh.
b) Nội dung chuyển đất nước, chuyển địa phương sang thời chiến:
Chuyển tồn diện, chiến tranh cần cái gì phải chuyển cái đó, trọng tâm là:
- Chuyển hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền sang hoạt động ở
trạng thái thời chiến để bảo đảm thường xuyên, liên tục lãnh đạo điều hành chiến
tranh và mọi hoạt động của xã hội.
- Chuyển lực lượng vũ trang sang thời chiến. Đối với địa phương, cơ sở là
chuyển lực lượng dân quân tự vệ và phương tiện kỹ thuật bổ sung cho lực lượng bộ
đội thường trực và mở rộng lực dân quân tự vệ sang trạng thái thời chiến, bảo đảm
cho dân quan tự vệ kịp thời đánh địch bảo vệ xóm làng.
- Chuyển mọi hoạt động về kinh tế sang thời chiến, bảo đảm cao nhất nhu
cầu chiến đấu của nhân dân và lực lượng vũ trang, đồng thời bảo đảm ổn định đời
sống cho nhân dân.
c) Phương pháp chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến:
Đối với cả nước, phải chuyển từng ngành, từng bộ phận, từng khu vực đến
chuyển toàn bộ. Đối với từng địa phương cơ sở, chuyển tồn bộ cùng lúc. Trong
q trình chuyển sang thời chiến, cần phải có biện pháp lãnh đạo tốt đổ ổn định tinh
thần, tâm lý và đời sống của nhân dân.
KẾT LUẬN:
Qua nghiên cứu bài học cho chúng ta rõ bản chất, âm mưu của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch luôn luôn nuôi dã tâm chống phá, xâm lược các nước
Xã hội Chủ nghĩa, đặc biệt chúng lấy Việt Nam làm tâm điểm để chống phá, cũng
qua nghiên cứu về lý luận, nguyên nhân, tính chất, đặc điểm, nội dung và các giải
pháp để tiến cuộc chiến tranh nhân nhằm trang bị những kiến thức cơ bản bước đầu
cho các đồng chí; trong tương lai nếu địch tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta,
để bảo vệ Tổ quốc chúng ta vẫn phải tiến hành chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên,
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nhằm đối phó với
chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao là vấn đề cịn mới mẻ. Bởi
vậy, các cấp lãnh đạo, chỉ huy cần phải tiếp tục nghiên cứu, nắm vững âm mưu, thủ
đoạn hoạt động của địch, nắm vững tư tưởng chỉ đạo, phương thức tiến hành chiến
tranh để vận dụng linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với điều kiện tác chiến mới, bảo
đảm thắng lợi cho cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. / . Cảm ơn người
học!
12