Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Tổ chức thi hành pháp luật dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÁ THỊ THIÊN TRANG

TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI, 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÁ THỊ THIÊN TRANG

TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG
Chun ngành: Quản lý cơng
Mã số: : 8 34 04 03


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ HẰNG

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đề tài: “Tổ chức thi hành pháp luật dân chủ cơ sở
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là cơng trình nghiên cứu độc lập dưới sự hướng
dẫn của cơ: TS. Lê Thị Hằng. Ngồi ra khơng có bất cứ sự sao chép bài của
người khác. Các số liệu, kết quả trình bày trong báo cáo là hoàn toàn trung
thực, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về các nội dung nghiên cứu trong đề
tài.
Bắc Ninh, ngày 01 tháng 05 năm 2020
Tác giả

Bá Thị Thiên Trang

1


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập, nghiên cứu. Để hồn thành luận văn này Em xin
bày tỏ sự kính trọng và lịng biết ơn sâu sắc tới cơ TS. LÊ THỊ HẰNG, người
trực tiếp hướng dẫn, cùng toàn thể các thầy, cơ giáo trong trường Học viện
Hành chính Quốc gia đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt
quá trình Em thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các đồng chí Lãnh đạo Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh Bắc Ninh; Lãnh đạo và cán bộ, công chức một số cơ quan, đơn vị

trên địa bàn tỉnh đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện cho Em trong
q trình nghiên cứu. Bên cạnh đó sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè và người
thân đã ln ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất để em có thể tập trung nghiên
cứu và hoàn thành đề tài này.
Do về mặt kiến thức và thời gian còn hạn chế, luận văn khơng tránh
khỏi những thiếu sót; Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy,
cơ giáo và mọi người để luận văn hoàn thiện hơn.
Bắc Ninh, ngày 01 tháng 05 năm 2020
Tác giả

Bá Thị Thiên Trang


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BHYT

: Bảo hiểm Y tế

2. CBCC

: Cán bộ công chức

3. HĐND, UBND

: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.

4. GSĐT cộng đồng

: Giám sát đầu tư cộng đồng


5. MTTQ

: Mặt trận tổ quốc

6. NTM

: Nông thôn mới

7. QCDC

: Quy chế dân chủ

8. TTND

: Thanh tra nhân dân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP
LUẬT DÂN CHỦ CƠ SỞ ............................................................................... 8
1.1. Khái niệm của dân chủ, dân chủ cơ sở....................................................... 8
1.1.1. Khái niệm dân chủ .................................................................................. 8
1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cơ sở .................................................................... 11
1.2.Tổ chức thi hành pháp luật dân chủ cơ sở................................................. 13
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức thi hành pháp luật dân chủ cơ sở ........... 13
1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở ............ 15
1.2.3. Vai trò của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở ................... 16

1.3. Nôi dụng của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở .................. 16
1.3.1. Nội dung của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị
trấn ................................................................................................................... 17
1.3.2. Nội dung của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ trong các cơ quan
Nhà nước ......................................................................................................... 19
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở ..... 23
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 26
Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT DÂN CHỦ
CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ................................................. 27
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh .................................. 27
2.2. Thực trạng tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh .......................................................................................................... 28
2.2.1. Tình hình cơ sở trước khi triển khai thực hiện Pháp lệnh dân chủ ....... 28
2.2.2. Tình hình tổ chức triển khai thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở ........ 30


2.3. Đánh giá chung về thi hành pháp luật dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh .......................................................................................................... 49
2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 49
2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế ......................................................................... 51
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ......................................................... 53
2.4. Bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật về dân
chủ cơ sở.......................................................................................................... 55
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 57
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH58
3.1. Quan điểm thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở ................................... 58
3.2. Một số giải pháp bảo đảm tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở ở
tỉnh Bắc Ninh .................................................................................................. 61
3.2.1. Giải pháp chung .................................................................................... 61

3.2.2. Các giải pháp cụ thể .............................................................................. 65
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

1. Bản đồ tỉnh Bắc Ninh
Bảng 2.1. Đánh giá mức độ công khai các nội dung cho nhân dân ................ 37
Bảng 2.2. Đánh giá tỉ lệ người dân được tham gia và quyết định trực tiếp .... 40
Bảng 2.3. Đánh giá tỷ lệ người dân tham gia trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định (tổng số phiếu phát ra: 160 phiếu) ................................................ 41
Bảng 2.4. Đánh giá tỷ lệ người dân giám sát việc thực hiện Pháp lệnh 34 .... 43
Bảng 2.5. Đánh giá tỷ lệ mức độ minh bạch trong việc thực hiện Pháp lệnh 34
của chính quyền cấp xã (tổng số phiếu phát ra: 160 phiếu) ............................ 44
Bảng 2.6. Đánh giá mức độ thực hiện QCDC trong các cơ quan Nhà nước
(Tổng số phiếu phát ra: 120 phiếu) ................................................................. 49



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là một khái niệm, một chế độ chính trị, sự thể hiện quyền lực
của quần chúng nhân dân có từ thời thế giới cổ đại. Dân chủ là một hình thức
tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Quan điểm về dân
chủ đã có từ rất lâu, tuy nhiên những quan điểm đó khơng phải khi nào cũng
đồng nhất, chỉ có một điểm rằng tất cả các quan điểm nói về dân chủ ln đề
cao vai trị của quần chúng nhân dân. Dân chủ và cuộc đấu tranh vì dân chủ,

hịa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn của thời đại.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dân chủ là dân là chủ và dân
làm chủ".
Dân chủ và thực hành, phát huy dân chủ là một trong những đặc trưng
cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền; một trong những điều kiện tiên quyết
để hiện thực hóa, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thời gian qua đã đạt được những kết quả
bước đầu, quan trọng, tạo bầu khơng khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, thực
hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào
Đảng, Nhà nước. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương, các ngành;
làm chuyển biến một bước về ý thức, đạo đức, phong cách làm việc của cán
bộ, công chức, viên chức, người có chức vụ, quyền hạn theo hướng gần dân,
tơn trọng dân và có trách nhiệm với dân; tác động tích cực tới việc xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân; xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở
thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố.

1


Tuy nhiên, việc tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị
trấn (gọi chung là cơ sở) vẫn cịn hình thức, chưa rộng khắp, đồng đều ở các
địa phương, khu vực, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục; dân chủ
trong các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập chưa
được phát huy mạnh mẽ. Tình trạng vi phạm quyền dân chủ của nhân dân
cũng như lợi dụng dân chủ để vi phạm kỷ cương, pháp luật còn xảy ra ở nhiều
nơi. Việc thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở chưa thực sự gắn kết với
nhiệm vụ thường xuyên, đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng, cải cách

hành chính, chống tham nhũng, lãng phí. Cơng tác kiểm tra, giám sát tổ chức
thi hành dân chủ ở cơ sở còn nhiều hạn chế chưa thường xuyên, thiếu kịp
thời.
Bắc Ninh nói riêng và các địa phương trên cả nước nói chung cũng
khơng nằm ngồi những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại nêu trên.
Nhận thấy việc tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở có vai trị hết sức
quan trọng, góp phần mở rộng dân chủ, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công dân; là phương thức quản lý để bảo đảm trên thực tế
các quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện; thông qua việc thực hiện dân
chủ cơ sở để tiếp tục hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật về dân chủ,
dân chủ ở cơ sở; việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và pháp luật dân chủ ở cơ sở
vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu nhằm kiện toàn và nâng cao năng lực, phẩm
chất, chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị ở cơ sở,
xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phịng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu và các hành vi tiêu cực khác; góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, khi thực hiện tốt vấn đề dân chủ sẽ
đảm bảo được các vấn đề mà theo tác giả đây là những vấn đề hết sức cần
thiết và tác giả cũng nhận thấy đây là điểm nhấn của luận văn, điểm mới mà
các cơng trình nghiên cứu trước về đề tài dân chủ rất ít đề cập tới. Mặt khác,
khi xây dựng, củng cố và phát huy nền dân chủ thì việc bảo vệ quyền con

2


người sẽ được phát huy một cách tích cực. Ngồi ra, việc thực hiện tốt vấn đề
dân chủ cơ sở góp phần trong việc đấu tranh phịng, chống tham nhũng. Với
phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra nhiều cơng việc của cơ
quan nhà nước cần có sự tham gia của người dân, nhiều vấn đề phải công khai
cho nhân dân biết đặc biệt là công khai về tài chính đã góp phần to lớn trong

việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.Với lý do trên học viên chọn đề tài
“Tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”
làm luận văn Thạc sĩ chun ngành Quản lý cơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ, dân chủ cơ cở là chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhà
nghiên cứu lý luận quan tâm ở mỗi góc độ khác nhau. Có thể nêu ra một số đề
tài, cơng trình nghiên cứu như:
Nguyễn Cúc (2002),“Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình
hình hiện nay. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Trong cơng trình này tác giả đã đề cập đến một số vấn đề lí
luận và thực tiễn của việc thực hiện Quy chế dân chủ hiện nay ở nước ta.
Nguyễn Thị Vy (2014), “Mối liên hệ giữa hoàn thiện cơ chế thực hiện
dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở với việc thúc đẩy quyền con người, quyền
công dân theo tinh thần Hiến pháp 2013”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội. Trong cơng trình này tác giả khẳng định tầm quan trọng của nhân dân
trong việc tham gia quản lý Nhà nước và xã hội; ngồi ra, tác giả cịn làm rõ
mối liên hệ giữa việc hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ theo hướng đề cao
quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến pháp 2013.
Lương Gia Ban (2003), “Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong cơng trình này tác giả đã
nghiên cứu những quan điểm của Đảng về dân chủ và thực tiễn thực hiện ở một
số địa phương.
Lê Thanh Hải (2015), “Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở trong trường Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh

3


Long An” Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
Trong cơng trình này tác giả đã nêu ra được thực trạng thực hiện quy chế dân

chủ cơ sở ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An,
từ đó đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân
chủ cơ sở.
Dương Xuân Ngọc (2000), “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong
cơng trình này tác giả đã xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cấp xã; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện có quả
dân chủ ở cấp xã.
Hoàng Trung Dũng (2013),“Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. Trong cơng trình này tác giả
đề cập đến thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh, từ đó xác
định nguyên nhân, đề ra giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Hồng Chí Bảo (2002),“Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ
sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện nay”, Đề tài khoa
học cấp Nhà nước, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong cơng
trình này tác giả đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đưa ra giải pháp trong
hoạt động của hệ thống chính trị Nhà nước ta.
Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2003), “Thực hiện Quy chế dân chủ và
xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia.
Lại Thế Nguyên (2014), “Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá” Luận văn Thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong
công trình này tác giả đề cập đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
trên địa bàn tỉnh Thanh Hố từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
trong thời gian tiếp theo.

4



Nguyễn Thị Hoa (2018), “Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các
trường trung học phổ thông từ thực tiễn tỉnh huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai”. Luận văn Thạc sỹ, trong cơng trình này tác giả đề cập đến các giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các trường trung học
phổ thơng.
Có thể thấy, các cơng trình nêu trên đã nghiên cứu về hệ thống chính trị
cũng như việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong đó, các tác giả đã đề cập đến
lý luận về dân chủ cũng như đặt ra thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Tuy vậy, trong thực tế
hiện nay ít có cơng trình nghiên cứu cụ thể về việc tổ chức thi hành pháp luật
về dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) và cũng chưa có đề tài nào đề cập
đến việc tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
Đề tài “Tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh” góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề này nhằm chỉ ra thực trạng và
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và các địa phương trong cả nước nói
chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc tổ chức thi hành pháp luật
về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và tổ
chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở cơ sở
- Thứ hai, đánh giá thực trạng tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở
cơ sở trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, những mặt đã đạt được, những tồn tại hạn
chế, nguyên nhân của những hạn chế


5


- Thứ ba, đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong cả nước nói chung và trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là đối tượng của quản lý nhà nước và được tiến
hành trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh
- Không gian: Tỉnh Bắc Ninh
- Thời gian: 2007 - 2017
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng
hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và logic, phỏng vấn, điều tra xã hội
học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và tổ
chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
- Đề xuất các chính sách và ban hành các quy định nhằm nâng cao hiệu
quả tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn


6


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương1: Những vấn đề lý luận về tổ chức thi hành pháp luật dân chủ
cơ sở
Chương 2: Thực trạng tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Quan điểm và giải pháp tổ chức thi hành pháp luật về dân
chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THI HÀNH PHÁP LUẬT
DÂN CHỦ CƠ SỞ
1.1. Khái niệm của dân chủ, dân chủ cơ sở
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Khái niệm dân chủ (Désmocratie) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, gồm 2
từ “demos” có nghĩa là dân và “kratos” là quyền lực. “Désmocratie" chỉ một
phương thức tổ chức quyền lực- chính quyền do cơng dân bầu ra và uỷ quyền
thực hiện chức năng quản lý xã hội; đồng thời, họ cũng có quyền giám sát và
bãi miễn nhân sự hoặc tổ chức ấy khi nó đi ngược lại lợi ích, quyền lực của
mình.
Thuật ngữ “dân chủ” đã xuất hiện trong lịch sử lồi người từ thời Hy
Lạp cổ đại. Hêrơđơt (484 - 425 TCN) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ này
với nghĩa khởi thủy là quyền lực thuộc về nhân dân.

Theo từ điển Triết học (do M.M. Rodentan biên soạn): “Dân chủ là một
trong những hình thức chính quyền mà điều đặc trưng là việc tuyên bố chính
thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do và bình
đẳng của cơng dân”.
Theo Bách khoa tồn thư mở Wikipedia: “Dân chủ là một hình thức tổ
chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc
của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do” [18, tr.653].
Như vậy, có thể hiểu ngắn gọn dân chủ là quyền làm chủ thuộc về nhân
dân. Trái với dân chủ là khơng dân chủ. Khơng dân chủ có nghĩa là một
người, một nhóm người hoặc một tập đồn người làm chủ. Chế độ độc tài,
qn chủ, chun chế khơng có dân chủ. Dân chủ là động lực của sự phát
triển xã hội; cịn khơng dân chủ là làm cản trở sự phát triển xã hội. Bởi vì dân
chủ là quyền lợi chính đáng của người dân, được hưởng quyền dân chủ, được

8


hưởng lợi ích vật chất và tinh thần một cách chính đáng. Khi con người được
hưởng quyền dân chủ chính đáng của mình thì cũng có nghĩa là họ được đối
xử bình đẳng, cơng bằng. Khi đó, họ sẽ phát huy cao nhất khả năng của mình,
hết mình cống hiến cho xã hội, qua đó thúc đẩy xã hội phát triển. Xã hội càng
dân chủ thì càng phát triển nhanh vì càng khơi dậy được tính tích cực của con
người.
Trong thời kỳ Cộng sản nguyên thủy, con người sống theo bầy đàn, xã
hội chưa có sự phân chia giai cấp thì chưa có khái niệm dân chủ nhưng đã
xuất hiện hình thức dân chủ đầu tiên trong lịch sử lồi người. Ở đó, con người
cùng chung sống, cùng lao động và cùng sử dụng sản phẩm thu được. Đây
được coi là một hiện tượng dân chủ.
Khái niệm dân chủ xuất hiện khi có sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô
lệ. Lúc này, cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, trong xã hội đã có sự

phân chia giai cấp. Giai cấp chủ nô đã thiết lập một bộ máy bảo vệ cho mình,
đó chính là nhà nước chủ nơ- nền dân chủ chủ nơ được hình thành. Ở đây, giai
cấp nơ lệ khơng có quyền lực, ngay cả quyền quyết định đoạt số phận cho
mình, họ được coi như là tài sản, là công cụ lao động của giai cấp chủ nô.
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin cho rằng Nhà nước chủ
nô là hình thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải dành riêng
cho nhân dân với tư cách là số đơng mà là cho giai cấp chủ nơ. Có thể thấy
trong xã hội chiếm hữu nô lệ, quyền lực chính trị thuộc về giai cấp chủ nơ.
Nhà nước phong kiến ra đời thay thế nhà nước chủ nô, nền dân chủ chủ nô
được thay thế bằng nền quân chủ phong kiến. Quyền lực hoàn toàn nằm trong
tay nhà vua, giai cấp quý tộc, phong kiến, người dân hầu như khơng có quyền
dân chủ. Với phương thức “cha truyền con nối”, quyền lực của vua lại truyền
cho con cháu, nhân dân khơng có cơ hội nắm giữ quyền lực.
Khi sản xuất phát triển lên một bước mới, giai cấp tư sản hình thành đầu
tiên ở phương Tây, trong vịng 300 năm đã tiến hành các cuộc cách mạng Tư

9


sản lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập Nhà nước Tư sản. Từ đây, nền dân chủ
Tư sản được thiết lập. Đây là một bước tiến mới trong lịch sử nhân loại, giải
phóng con người, con người được trao cho nhiều quyền tự do (tự do ngôn luận,
tự do kinh doanh, tự do tín ngưỡng, tơn giáo…). Tuy nhiên, về bản chất thì dân
chủ Tư sản vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tư liệu
sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản, giai cấp chiếm thiểu số trong xã
hội. Giai cấp vô sản, nhân dân lao động là người tạo ra của cải vật chất chủ
yếu cho xã hội, họ là người tạo ra giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản nhưng
họ lại bị giai cấp tư sản bóc lột. Do đó, trong thực tế dân chủ chỉ thực sự có
đối với giai cấp tư sản, giai cấp chiếm thiểu số nhưng lại nắm trong tay phần
lớn của cải trong xã hội; còn nhân dân lao động chỉ có quyền tự do dân chủ về

hình thức hoặc một ít quyền dân chủ về chính trị. Theo V.I.Lê nin, dân chủ tư
sản luôn là một chế độ dân chủ với thiểu số, là một thứ dân chủ đối với kẻ
giàu.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, lịch sử đã sang trang,
chế độ Xã hội chủ nghĩa ra đời. Nhà nước chun chính vơ sản đầu tiên ra đời
là nước Nga Xô Viết và một số nước khác sau đó là Việt Nam, Trung Quốc…
Nền dân chủ Tư sản thay thế bằng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, một nền dân
chủ thực sự khi tất cả mọi người dân được trao mọi quyền lực của đất nước.
Trong đó họ được quyền quyết định vận mệnh của đất nước, được tham gia
xây dựng Nhà nước bằng phổ thông đầu phiếu…
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, thành lập nhà
nước Dân chủ nhân dân, đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành người làm
chủ đất nước. Từ đây, thành lập nhà nước Dân chủ nhân dân, quyền dân chủ
của nhân dân được khẳng định trong Hiến pháp. Ruộng đất thuộc về nông
dân, nhà máy, xí nghiệp được cơng nhân làm chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa và sau đó là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam- nhà nước mang bản chất của giai cấp công

10


nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc được thành lập. Từ khi thành lập
đến nay, nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã tỏ rõ tính ưu việt của
nó trong cơng cuộc xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
Tóm lại, theo phân tích trên cho thấy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về
phạm trù “Dân chủ” xét theo đối tượng, phương pháp và mục đích khác nhau
của nhiều bộ mơn khoa học. Quan điểm về dân chủ có hai cách tiếp cận:
Một là, dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện và phát
triển với tư cách là sản phẩm trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động
chính trị trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền lực

chính trị thuộc về giai cấp nào trong xã hội.
Hai là, dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự
vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tế xã hội; mà dân chủ còn là thành tựu của sự phát triển văn hố nhân loại, với
tính cách là thước đo về trình độ giải phóng con người, xã hội mà loài người
đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Trong mối quan hệ này dân chủ là một
động lực, một tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội.
1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cơ sở
Bất cứ một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ
thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong một hệ thống có
tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn
bộ hệ thống được gọi là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Bất cứ một
công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao
động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống. Đó chính là xã, phường,
cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cơ sở…nơi diễn ra các quan hệ nhiều
mặt giữa các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, được tổ chức thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện
và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng.

11


Nhân dân là người trực tiếp sản xuất ra giá trị vật chất và sáng tạo ra
giá trị tinh thần. Trong lao động và sinh sống, người dân luôn gắn bó mật thiết
trong một đơn vị, một tổ chức, một cộng đồng, một địa bàn dân cư nhất định.
Mỗi công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống,
lao động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống, đó là xã, phường, thị
trấn, cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp, đơn vị kinh
tế cơ sở... Cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nơi kiểm nghiệm, phản chiếu chính xác nhất đường lối của Đảng

trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, nhân dân có
quyền được biết, được tiếp cận thơng tin, được bàn và được tham gia giải
quyết và kiểm tra, giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở.
Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến vị thế của người dân ở cơ sở, trước
hết và chủ yếu là các tầng lớp người lao động đang hằng ngày làm ra của cải
vật chất và tinh thần để bảo đảm cho xã hội tồn tại, phát triển. Vì vậy, thực
hiện dân chủ ở cơ sở chính là bảo đảm và nâng cao vị thế của người dân, làm
nền tảng và động lực phát triển trực tiếp của xã hội; là giải quyết đúng đắn
vấn đề dân chủ đang được đặt ra: Mở rộng dân chủ và phát huy cao độ quyền
làm chủ trực tiếp của người dân từ cơ sở, đẩy mạnh chiều sâu dân chủ trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dân chủ ở cơ sở không phải là hình thức, mà là một cấp độ của chế độ
dân chủ. Nội dung của dân chủ ở cơ sở được thể hiện dưới các hình thức dân
chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Củng cố và mở rộng dân chủ ở cơ sở là một
quá trình nâng cao sức mạnh và hiệu quả hoạt động của nhà nước, trước hết ở
cấp xã, phường, thị trấn và các đơn vị ban ngành.
Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng
cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và
hoạt động của mọi thiết chế ở cơ sở.

12


1.2.Tổ chức thi hành pháp luật dân chủ cơ sở
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức thi hành pháp luật dân chủ cơ sở
Khái niệm tổ chức thi hành pháp luật
Trong khoa học pháp lý, pháp luật được nghiên cứu dưới hai phương
diện. Phương diện thứ nhất là pháp luật trong trạng thái “tĩnh” hay pháp luật
trong các trang công báo. Pháp luật theo phương diện này còn được gọi là

pháp luật thực định. Theo Hiến pháp năm 2013, đây là các quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH); lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các VBQPPL của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chính
quyền địa phương các cấp. Đây là pháp luật được hình thành chủ yếu do hoạt
động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy của hệ thống các cơ quan
hành pháp.
Phương diện thứ hai của pháp luật là pháp luật trong trạng thái “động”
hay gọi là pháp luật trong hành động, pháp luật trong cuộc sống. Pháp luật
theo phương diện này là sự tuân theo pháp luật của các chủ thể trong đời sống
nhà nước và đời sống xã hội, được hình thành bằng hoạt động tổ chức thi
hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền. Giống
như phương diện thứ nhất, phương diện này của pháp luật cũng được Hiến
pháp quy định. Theo đó, tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động không thể
thiếu để pháp luật từ trạng thái “tĩnh” trở thành trạng thái “động”, làm cho
pháp luật khơng cịn nằm trên các trang công báo mà đi vào cuộc sống. Như
vậy, hoạt động lập pháp, lập quy để hình thành một hệ thống VBQPPL (pháp
luật trong các trang công báo) và hoạt động tổ chức thi hành pháp luật là hai
mặt không tách rời của pháp luật. Khơng thể có mặt này mà thiếu mặt kia và
ngược lại. Không tiến hành “tổ chức thi hành pháp luật” thì pháp luật chỉ tồn
tại trên giấy, hay chỉ là những “lời nói rung động trong khơng khí”. Ngược

13


lại, khơng có những quy định của pháp luật trong các trang cơng báo thì cũng
khơng có việc tổ chức thi hành những quy định pháp luật này. Trong nhà
nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật, đề cao nguyên tắc pháp quyền không
thể không coi trọng một cách đồng bộ cả hai phương diện của pháp luật. Nhất

là trong điều kiện của nước ta, khi mà ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của
nhiều người dân cịn thấp thì việc tổ chức thi hành pháp luật càng giữ vai trò
đặc biệt quan trọng.
Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là
“Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp luật, nghị
quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước” (khoản 1 Điều 96),
Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ: “Lãnh đạo tổ chức thi hành pháp luật”
(khoản 1 Điều 98); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ:
“Tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành,
lĩnhvực trong phạm vi tồn quốc” (khoản 1 Điều 99); Chính quyền địa
phương có nhiệm vụ: “Tổ chức đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật
tại địa phương” (khoản 1 Điều 112); và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp có
nhiệm vụ: “Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương”
(khoản 2 Điều 114). Thi hành pháp luật trong thuật ngữ “tổ chức thi hành
pháp luật” của Hiến pháp năm 2013, theo chúng tơi, có nội dung rất rộng,
khơng chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật mà cịn bao gồm các hình thức
thực hiện pháp luật khác như: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật và áp
dụng pháp luật mà lý luận về thực hiện pháp luật đã được viết trong các sách
giáo khoa về lý luận nhà nước và pháp luật đang giảng dạy ở các trường đại
học luật. Với quan niệm đó, “tổ chức thi hành pháp luật” viết trong Hiến pháp
năm 2013 được hiểu là “tổ chức thực hiện pháp luật” (thi hành pháp luật ở
đây chính là thực hiện pháp luật). Vì vậy “tổ chức thi hành pháp luật” viết
trong Hiến pháp năm 2013 được hiểu theo nghĩa rộng, đồng nghĩa với tổ chức
thực hiện pháp luật, tức là bao gồm tổ chức thực hiện cả bốn hình thức thực

14


hiện pháp luật chứ khơng chỉ một hình thức thực hiện pháp luật là thi hành
pháp luật.

Đặc điểm tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở
- Chủ thể tổ chức thi hành pháp luật là Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và
UBND các cấp.
- Mục đích của tổ chức thi hành pháp luật là làm cho các quy định của
pháp luật thực hiện trong cuộc sống trở thành những hành động thực tế hợp
pháp của các chủ thể pháp luật. Hay nói cụ thể, mục đích của tổ chức thi hành
pháp luật là làm cho các chủ thể pháp luật tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng và áp dụng đúng đắn pháp luật. Đó chính là địi hỏi của ngun
tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN
mà chúng ta đang xây dựng.
- Đối tượng của tổ chức thi hành pháp luật là đối tượng của quản lý nhà
nước và được tiến hành trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà
nước. Như vậy, đối tượng của tổ chức thi hành pháp luật có phạm vi rất rộng;
ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có việc tổ chức thi hành pháp luật. Chính vì
thế, tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các cơ
quan hành chính nhà nước, là thẩm quyền của các cơ quan thực hiện quyền
hành pháp.
1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở
- Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức đưa pháp
luật thực định vào đời sống nhà nước và đời sống xã hội, làm cho pháp luật
sau khi ban hành có hiệu lực thực thi trong thực tế. Thi hành pháp luật theo lý
luận chung về nhà nước và pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hoạt động
tích cực. Như vậy, tổ chức thi hành pháp luật có một trong những nội dung
quan trọng là tổ chức để các chủ thể tuân theo các các nghĩa vụ pháp lý của

15



mình bằng các hành động tích cực trong thực tế; góp phần làm cho xã hội
thượng tơn pháp luật mang tính chất tự giác.
- Tổ chức thi hành pháp luật theo nghĩa rộng là trách nhiệm của tất cả
các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước từ
lập pháp, hành pháp, tư pháp đến các thiết chế Hiến định khác. Tuy nhiên, tổ
chức thi hành pháp luật với tư cách là một thẩm quyền độc lập, chuyên trách
được Hiến pháp giao cho hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện. Theo đó, có thể định nghĩa, tổ chức thi hành pháp luật là thẩm quyền
hiến định có tính độc lập, chun trách của hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước nhằm đưa pháp luật trên các trang công báo trở thành các hành động
tích cực tuân theo pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội.
1.2.3. Vai trò của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở
- Là hoạt động để hiện thực hóa kết quả của hoạt động lập pháp, lập
quy trong thực tiễn. Vì thế, nó là đầu ra quan trọng nhất của hoạt động lập
pháp, đảm bảo cho sản phẩm của hoạt động lập pháp có hiệu lực và hiệu quả
trong thực tế.
- Là hoạt động hàng đầu của cơ quan thực hiện quyền hành pháp, đảm bảo
cho Hiến pháp, luật giữ địa vị thống trị trong nhà nước pháp quyền, phát huy đầy
đủ vai trị của mình trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, đảm
bảo cho nguyên tắc pháp quyền được thực thi trong hoạt động hành pháp.
- Thông qua việc tổ chức thi hành pháp luật mà phát hiện những lỗ
hổng, những quy định pháp luật khơng phù hợp, khơng đi vào cuộc sống, góp
phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và lập
quy, đảm bảo cho nguyên tắc pháp quyền được thực thi đầy đủ trong hoạt
động lập pháp và lập quy.
1.3. Nôi dụng của tổ chức thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Nội dung của tổ chức thi hành pháp luật bao gồm một chuỗi các hoạt
động kế tiếp nhau, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động trước là tiền đề, là

16



×