Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện kim sơn, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.08 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
…../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THÀNH NHÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
…../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THÀNH NHÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH


LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ MINH NGỌC

HÀ NỘI - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi; các kết
quả trong luận văn chưa được cơng bố trong bất kì cơng trình nghiên cứu
khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ, bảng kê và trích dẫn trong luận văn
được tác giả trích dẫn nguồn đầy đủ, đúng quy định của cơ sở đào tạo.

Tác giả luận văn

Lê Thành Nhân


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia,
tơi đã hồn thành Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công.
Xin trân trọng cảm ơn TS. Vũ Thị Minh Ngọc, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia, Khoa Sau đại học và tồn thể các giảng viên của Học viện đã trực
tiếp giảng dạy, truyền đạt các kiến thức cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho
tơi hồn thành Luận văn.

Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện tốt nhất để tơi
hồn thành Luận văn.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2020
Tác giả luận văn

Lê Thành Nhân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................... 9
Chƣơng 1 ...................................................................................................... 9
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH ......... 9
1.1. Các khái niệm công cụ ............................................................................ 9
1.2. Nội dung, nguyên tắc, vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch .............. 20
1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp huyện .....30

1.4. Kinh nghiệm Quản lý nhà nước về hộ tịch ở một số địa phương............ 35
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 41
Chƣơng 2 .................................................................................................... 43
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH ....................... 43
2.1. Khái quát về huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình ........................................ 43
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019 .................................................. 47
2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019.......................................... 63
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 75

Chƣơng 3 .................................................................................................... 77
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH .... 77
3.1. Định hướng bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch ................................. 77
3.2. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ................................................................... 81
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................ 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 101


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ số
2.1

Trình độ lý luận, chính trị của cơng chức Tư pháp Hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019

51

Biểu đồ số
2.2

Trình độ đào tạo của cơng chức Tư pháp - Hộ tịch
trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019


51

Biểu đồ số
2.3

Trình độ tin học của cơng chức Tư pháp - Hộ tịch
trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019

52

Biểu đồ số
2.4

Tỷ lệ đăng ký khai sinh quá hạn theo từng năm

Biểu đồ số
2.5

Tỷ lệ đăng ký khai tử quá hạn theo từng năm

(2016 - 2029)

(2016 - 2019)

55

56


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý nhà nước về hộ tịch đã là một yêu cầu mà nhà nước luôn quan
tâm, dành nhiều thời gian, công sức và tiền của cho lĩnh vực này. Theo quy
định thì hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết, liên quan trực tiếp đến quyền cơ bản của
công dân. Các sự kiện nhân thân cơ bản nhất của mỗi cá nhân được đăng ký
và quản lý trong hộ tịch gồm có: Khai sinh; kết hơn; giám hộ; nhận cha, mẹ,
con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ
tịch; khai tử,...
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý hộ tịch trong tiến
trình phát triển của xã hội, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách, pháp luật về quản lý hộ tịch bước đầu tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho hoạt động này. Trong đó, Luật Hộ tịch ra đời, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2016 với nhiều chế định mới, phân cấp mới, thủ tục mới, Luật Hộ
tịch đã thổi một luồng sinh khí mới cho cơng tác đăng ký và quản lý hộ tịch
và đích đến là gần gũi hơn với người dân, phục vụ tốt hơn các yêu cầu của
người dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Trong những năm qua, nhất là từ ngày 01/01/2016, áp dụng thực hiện
Luật Hộ tịch năm 2014, công tác quản lý và đăng ký hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
trên địa bàn huyện hiện nay, cơng tác đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn còn một
số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và cải
cách tư pháp. Nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể chưa xác định đúng giá trị
pháp lý của giấy tờ hộ tịch, còn gây nhiều khó khăn cho cơng dân, nhất là giá
trị pháp lý của Giấy khai sinh. Thực trạng trên có nguyên nhân xuất phát từ
nhận thức chưa đầy đủ quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch
1


của một bộ phận cán bộ, công chức và người dân; sự phối hợp thiếu nhịp

nhàng giữa các cơ quan liên quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ
sơ, giấy tờ cá nhân; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
đăng ký và quản lý hộ tịch chưa thực sự sâu, rộng; năng lực thực thi cơng vụ
của một số cơng chức cịn hạn chế.
Những hạn chế này đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
hộ tịch, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy,
nghiên cứu quản lý nhà nước về hộ tịch nói chung cũng như ở thực tế của
huyện Kim Sơn nói riêng nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở khoa học của quản lý hộ
tịch, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế; trên cơ sở đó, đưa ra
những khuyến nghị góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện là một vấn đề được quan tâm hiện nay. Vì
thế tơi lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Quản lý
cơng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đề tài hộ tịch đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học,
những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác
nhau kể cả trong nước và trên thế giới. Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình
khoa học nghiên cứu về hộ tịch của cá nhân, tập thể được công bố. Về tổng
thể, các nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu làm rõ bản chất, nội dung, lịch sử
quản lý hộ tịch, các sự kiện, phương thức quản lý và đăng ký hộ tịch. Các tác
giả cũng chỉ ra các phương hướng và giải pháp nhất định nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về hộ tịch; cụ thể một số nhóm cơng trình như:
Thứ nhất, nhóm các cơng trình nghiên cứu lý luận về hộ tịch và quản
lý hộ tịch:

2


- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), “Chuyên

đề thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch”[59]: Là cơng trình tổng kết, khái
qt với trọng tâm là các thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch ở Việt Nam
qua nhiều giai đoạn.
- Phạm Trọng Cường (2007), Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch,
NXB Tư Pháp, Hà Nội [26]: Trong cuốn sách chuyên khảo này, tác giả đã
khái quát từ quản lý đinh có liên quan đến thuế thân, nộp thân cịn gọi là
thuế đinh - một trong thứ thuế của chế độ phong kiến và quân chủ, đến quản
lý hộ tịch trong xã hội hiện đại với nhiều kiến thức có giá trị cho các nhà
nghiên cứu.
- Giáo trình Quản lý hành chính - tư pháp của Học viện Hành chính,
Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, năm 2008 (dành cho đào tạo trung cấp
hành chính) [35]: Cuốn giáo trình hướng đến nhóm đối tượng ở bậc trung
học hành chính, nhằm trang bị cho nhóm đối tượng này kiến thức, kỹ năng
liên quan đến hoạt động hành chính và tư pháp trong thực tiễn.
Thứ hai, nhóm các cơng trình hướng dẫn nghiệp vụ:
- Bộ Tư pháp (2006) “Hướng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ
tịch”, NXB Tư pháp, Hà Nội [5]: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể đối với
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch của các chủ thể có thẩm quyền trên cơ sở
các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch đang có hiệu lực thi hành.
- Bộ Tư pháp (2010) “Tài liệu Hướng dẫn nghiệp vụ Tư pháp xã,
phường, thị trấn”, NXB Tư pháp, Hà Nội [8]: Trong chuyên đề số 4, các tác
giả đã khái quát chung về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND các xã, phường,
thị trấn và công chức tư pháp - hộ tịch trong quản lý nhà nước về hộ tịch;
nghiên cứu cụ thể các quy định của pháp luật về hộ tịch và đăng ký hộ tịch;
hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch tại UBND
cấp xã.

3



- Bộ Tư pháp (2019) "Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp
huyện"; NXB Tư pháp, Hà Nội [9]: Trong chuyên đề "Công tác đăng ký, quản
lý Hộ tịch của UBND, Phòng Tư pháp cấp huyện", tác giả đã làm rõ, nhiệm
vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện trọng quản lý nhà nước về Hộ tịch ở địa
phương, đồng thời hướng dẫn các kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết các việc hộ
tịch cụ thể thuộc thẩm quyền.
Thứ ba, nhóm các cơng trình khoa học mang tính ứng dụng: Chủ yếu là
các luận văn ngành quản lý công; ngành luật, cụ thể:
- Phạm Hồng Hoàn, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính
cơng, 2011 [33]: Tác giả đã tập trung nghiên cứu về mặt không gian được giới
hạn ở các xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; tác giả đã
làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch; đánh
giá thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan Phượng; nêu
ra những kết quả đạt được và hạn chế cũng như nguyên nhân của chúng. Qua
đó đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý
nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp xã, huyện Đan Phượng.
- Trần Thị Thu Hiền, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ quản lý công, Học viện
Hành chính quốc gia, 2016 [34]: Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và
đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã của huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội; xác định được phương hướng, giải pháp tiếp tục
hoàn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Hoài Đức, thành phố
Hà Nội.
- Trương Thị Vân Anh, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, thực tiễn
ở huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015 [2]: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và

4



thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch cấp xã; tìm hiểu và làm rõ các mơ
hình quản lý và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam qua các thời kỳ; đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội,
tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và đề ra các giải pháp cơ quan để hoàn
thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Mê Linh, thành
phố Hà Nội.
- Phạm Ngọc Sơn, Quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Vinh, 2020 [52]: Tác
giả đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước bằng
pháp luật về hộ tịch; thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và đề xuất quan điểm và giải pháp để nâng cao
hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
Thứ tư, những bài báo khoa học riêng lẻ:
- Bài “Yêu cầu đối với quản lý nhà nước về hộ tịch”, tác giả Phạm
Trọng Cường, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 12 năm 2004 [28]: Tác
giả nêu lên kết quả thực hiện Nghị định 83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch
và thực hiện Đề án 278/TP-HT ngày 23/4/2001 và thực hiện Nghi quyết số
35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội). Qua kết quả đạt được trong
thời gian tới yêu cầu đặt ra đối với công tác đăng ký và quản lý nhà nước về
hộ tịch cần thiết phải thể hiện được tính kịp thời trong thực hiện các sự kiện
hộ tịch phát sinh cho nhân dân, hạn chế đăng ký quá hạn, hoặc chung sống
như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn; tính đầy đủ cũng được tác giả đề
cập đến sổ sách lưu gữi, mẫu hiểu, hồ sơ phải đảm bảo tính đồng đều; tính
chính xác, khách quan.
- Bài “Thực trạng đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch và yêu cầu
chuẩn hoá” của tác giả Trần Thị Lệ Hoa, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
chuyên đề pháp luật hộ tịch năm 2013 [32]: Tác giả đã thống kê và phản ánh

5



thực trạng đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã trong cả nước; xu thế
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong tình hình mới ở nước ta và những
yêu cầu cần phải chuẩn hóa đội ngũ cơng chức Tư pháp Hộ tịch.
Các cơng trình nghiên cứu, mặc dù đã nghiên cứu làm rõ bản chất, nội
dung, lịch sử quản lý hộ tịch, các sự kiện, phương thức quản lý và đăng ký hộ
tịch và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ
tịch. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên mới đưa ra các giải pháp
chung, được nghiên cứu ở các lĩnh vực, các địa phương khác nhau, chưa đi
sâu nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn tỉnh Ninh Bình.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch, quản lý
nhà nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn tỉnh
huyện Kim Sơn từ năm 2016 đến hết năm 2019, đánh giá những kết quả đạt
được và hạn chế, các nguyên nhân của hạn chế.
- Đưa ra những định hướng và giải pháp góp phần đảm bảo quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học của quản lý nhà
nước về hộ tịch và công tác quản lý nhà nước về Hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.

6



4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là nội dung hoạt động quản lý
nhà nước về hộ tịch tại Ủy ban nhân dân (UBND) huyện và UBND của 27 xã,
thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình từ trong khoảng thời gian
từ 01/01/2016 đến hết năm 2019. Cụ thể:
Về không gian: 27 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh
Bình.
Về thời gian: 01/01/2016 - 31/12/2019.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp tác giả sử dụng trong luận văn là: Phương pháp phân
tích tài liệu thứ cấp; phương pháp quan sát, phỏng vấn,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch thông qua các
nội dung: Khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như nội dung của quản lý nhà
nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã. Đồng thời chỉ ra các yếu tố tác động đến
quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã.
- Làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; nhận xét, đánh giá về mức độ, hiệu quả thi hành
pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện. Qua đó, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.

7



- Làm tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp
bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch, cũng như nghiên cứu, giảng dạy của
các tổ chức, cá nhân liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Chương 3. Định hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Hộ tịch
Những quan niệm về thuật ngữ ”hộ tịch” được thể hiện khá đầy đủ và
đa diện theo nghiên cứu Thông tin chuyên đề - Một số vấn đề lý luận và so
sánh pháp luật về hộ tịch của Viện Nghiên cứu Lập pháp, theo đó:
* Về khía cạnh ngơn ngữ
“Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt
nhưng chưa xác định thời điểm xuất hiện. Khảo cứu qua các bộ sử liệu như :
“Lịch triều hiến chương loại chí”, “Đại Việt sử ký tồn thư”, “Việt sử thơng
cương mục”,.. có thể thấy thuật ngữ “hộ tịch” đã xuất hiện từ rất sớm, bên
cạnh nó cịn các từ cổ có liên quan và cùng nằm trong phạm trù quản lý dân

dân cư: “hộ khẩu”, “sổ dân bạ”, “tiểu điển”, “đại điển”, “phụ tịch”, “chính
hộ”, “khách hộ”, v.v... Tuy nhiên, theo “Đại Nam Quốc âm tự vị”, cuốn từ
điển của tác giả Paulus Huỳnh Tịnh Của biên soạn năm 1895 với phương
pháp “tham dụng chữ Nho và lấy 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ” thì
trong bộ chữ “hộ” chưa có từ “hộ tịch” [25].
“Hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ, được ghép bởi hai thành
tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính. Các từ điển tiếng Việt
hiện nay khá thống nhất trong cách hiểu về từng từ đơn này. Theo đó, từ “hộ”
- khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một
nghĩa trực tiếp là “dân sự” hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý
dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau”. Tương tự, từ “tịch” có nghĩa
là “sổ sách” hoặc là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ
hợp hai từ đơn này thành danh từ “hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt

9


về mặt ngôn ngữ, và được sử dụng với thuộc tính kết hợp hạn chế (hạn chế về
việc sử dụng và khả năng tổ hợp của từ ngữ). Chính do tính chất đặc biệt ấy
nên khảo cứu qua các từ điển tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa từ
“hộ tịch” rất khác nhau, cụ thể một số trường hợp:
Các Từ điển Hán - Việt của nhiều tác giả khác nhau (Đào Duy Anh,
Nguyễn Văn Khôn, Bửu Kế,…) đều có sự tương đồng và những khía cạnh
khác biệt trong cách giải nghĩa từ “hộ tịch”. Một số cách giải nghĩa như:
“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và
tịch quán của từng người” [1, tr.384];
“Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của
từng người” [40, tr.404];
“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã
phường” [38, tr.814];

Như vậy, nghĩa của từ "hộ tịch" xét về góc độ ngơn ngữ cịn tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau.
* Về khía cạnh pháp lý trong lịch sử ở Việt Nam và thế giới
- Quan niệm của một số học giả miền Nam Việt Nam thời kỳ trước năm
1975, theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Tú [55, tr.28-29]:
Thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo trình
giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng hồ,
trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau:
Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là người đầu tiên trình bày quan
niệm “hộ tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau:
“Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công
dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan
trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử”.

10


Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa
khác về khái niệm “hộ tịch”:
“Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ
tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử”.
Tác giả Trần Thúc Linh, tác giả cuốn Danh từ pháp luật lược giải - vốn
được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên không đưa ra định nghĩa về “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa “chứng thư hộ tịch”:
“Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh
một cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ
tên, con trai con gái, con chính thức hay con tư sanh, tư cách vợ chồng... tóm
lại tình trạng xã hội của con người từ lúc sinh ra đến khi chết.
Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc thay
đổi về thân trạng người ta (nhìn nhận con ngoại hơn, chính thức hố con tư
sinh, khước từ phụ hệ, ly thân...)”.

Nhìn một cách tổng qt có thể thấy các học giả miền Nam Việt Nam
thời kỳ trước năm 1975, tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về “hộ
tịch” nhưng trong những cách định nghĩa này đều chỉ ra các dấu hiệu đặc
trưng của hộ tịch, đó là:
Hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một người;
Các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải là những
quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời mỗi con
người, đó là: Sự kiện sinh, hơn nhân và tử;
Chứng thư hộ tịch là những loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh
chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân.
- Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngoài
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Tú [55, tr.30-31] từ khía cạnh
pháp lý, “hộ tịch” được định nghĩa trong một số tài liệu nước ngoài như sau:

11


Trong tiếng Anh, khái niệm “Civil Registration” được hiểu là “Việc
đăng ký đúng hạn các sự kiện sinh, tử, kết hơn với chính quyền trong thời hạn
quy định”.
Trong tiếng Đức, khái niệm “das Personenstandsregister” được hiểu là
"Việc đăng ký công về tình trạng dân sự của mỗi cá nhân được thực hiện bởi
các cơ quan hộ tịch".
Trong Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp, chế định hộ tịch là một trong
những chế định hết sức quan trọng. Tuy nhiên, luật dân sự Pháp không đưa ra
khái niệm về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm chứng thư hộ tịch.
- Khái niệm “hộ tịch” trong hệ thống pháp luật Việt Nam trước đây
Khái niệm “hộ tịch” cũng là một trường hợp đặc biệt trong hệ thống
khái niệm pháp lý tiếng Việt. Khái niệm này hồn tồn khơng dễ định nghĩa
một cách minh bạch, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó khơng thuận

tiện theo ngun tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật. Đã từng có những cuộc thảo luận trong giới chuyên môn về việc thay thế
khái niệm này bằng một khái niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy
nhiên, do khái niệm này, trải qua một quá trình lịch sử đã dần trở thành ngôn
ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân dân nên giải pháp đi tìm khái
niệm Việt hố thay thế khơng được lựa chọn, thay vào đó, các nhà xây dựng
pháp luật đã dung hồ bằng giải pháp mà Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật cho phép, đó là sử dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ
chuyên môn và được định nghĩa trong văn bản. Theo đó, định nghĩa về “hộ
tịch” được duy trì từ Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày
10/10/1998 về đăng ký hộ tịch cho đến Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: “Hộ tịch là những sự kiện
cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi
chết”[18, tr.1]. Cách định nghĩa này, thực chất chỉ là một sự ước định. Về giá

12


trị biểu đạt, với cách định nghĩa như vậy, sẽ chính xác hơn nếu coi đây là định
nghĩa cho thuật ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “hộ tịch”.
Bên cạnh đó, bản thân cách định nghĩa này cũng chưa xác định được rõ
ràng nội hàm của khái niệm nên cùng với khái niệm “hộ tịch”, Nghị định
158/2005/NĐ-CP còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” bằng phương
pháp mô tả, bao gồm: Xác nhận các sự kiện (sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch;
xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc) và Căn cứ vào quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ,
con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt
nuôi con nuôi.” [18, tr.1.]
Về mặt kỹ thuật, trong khái niệm “đăng ký hộ tịch”, chữ “tịch” đã có

giá trị biểu đạt tương đương với “đăng ký”, điều này tạo nên sự trùng lặp về ý
nghĩa khi giải thích khái niệm. Đây là một nét đặc trưng của việc sử dụng
ngôn ngữ Hán Việt. Hạn chế này có thể được khắc phục nếu thay thế khái
niệm “đăng ký hộ tịch” bằng khái niệm thuần Việt “đăng ký tình trạng dân
sự”. Tuy nhiên, đây là khái niệm xa lạ với người dân, do đó, việc sử dụng
khái niệm thay thế “đăng ký tình trạng dân sự” mặc dù có thể đạt được sự
chặt chẽ về mặt học thuật nhưng lại khơng có ưu thế về hiệu quả sử dụng do
khơng có tính đại chúng, hạn chế khả năng phổ biến trong đời sống xã hội.
* Khái niệm, đặc điểm hộ tịch căn cứ theo Luật Hộ tịch năm 2014
- Khái niệm hộ tịch
Luật Hộ tịch năm 2014 khái niệm về hộ tịch như sau: Hộ tịch là những
sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân
của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết [47, tr.1].
Những sự kiện quy định tại Điều 3 Luật Hộ tịch gồm: Xác nhận vào Sổ
hộ tịch các sự kiện hộ tịch (khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con;

13


thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch;
khai tử); ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thay đổi quốc tịch; xác định
cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; ni con ni, chấm dứt việc nuôi con
nuôi; ly hôn, huỷ việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công
nhận giám hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự); ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện của công
dân Việt Nam đã được giải quyết của cơ quan có thẩm quyền nước ngồi
(Khai sinh; kết hơn; ly hôn; huỷ việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác
định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi;thay đổi hộ tịch; khai tử); xác nhận hoặc ghi
vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. [47, tr1-2.]

Như vậy, có thể hiểu hộ tịch là những sự kiện xác định tình trạng nhân
thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi bao gồm: Khai sinh; kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,
bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử; thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con;
xác định lại giới tính; ni con ni, chấm dứt việc ni con ni; ly hôn, huỷ
việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên
bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự.
Có thể thấy, khái niệm "hộ tịch" được quy định trong Luật Hộ tịch năm
2014 cơ bản giống như Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ, nhưng đã quy định cụ thể hơn, điều này là cần thiết bởi cần phải
có sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật về hộ tịch.
- Đặc điểm của hộ tịch:
Từ quan niệm, khái niệm về hộ tịch, có thể thấy, hộ tịch có những đặc
điểm chủ yếu sau:

14


Thứ nhất, hộ tịch là những giá trị gắn liền với mỗi cá nhân (quyền nhân
thân), gắn chặt với cá nhân con người, giúp phân biệt cá nhân này với cá nhân
khác, khơng thể có điểm chung về nhân thân của người này với người khác.
Mỗi người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết, các dấu hiệu về cha
đẻ, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính và là các giá trị nhân thân quan trọng phát sinh
gắn chặt với một con người từ khi sinh ra đến khi chết.
Thứ hai, hộ tịch là những giá trị không chuyển đổi cho người khác.
Theo đó có thể thấy hộ tịch là một giá trị nhân thân không gắn với tài sản, vậy
nên nó khơng thể bị chuyển dịch cho người khác.
Thứ ba, hộ tịch là có tính phi vật chất, với bản chất của hộ tịch là việc
ghi lại những sự kiện gắn với nhân thân của con người như sự kiện sinh, tử,

kết hơn…do vậy nó có tính chất phi vật chất, không thể cân đong đo đếm
được và cũng khơng phải là một loại hàng hóa có thể trao đổi trên thị trường.
1.1.2. Quản lý nhà nước về hộ tịch
* Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch là một nội dung của quản lý nhà nước nói
chung. Đó là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhằm đảm
bảo cho các hoạt động về hộ tịch được thực hiện đầy đủ và theo đúng mục
tiêu, định hướng của Nhà nước mong muốn. Quản lý nhà nước về hộ tịch thực
chất là quản lý việc thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước liên quan
đến các sự kiện hộ tịch.
Ở nước ta, vấn đề quản lý hộ tịch hình thành từ rất sớm. Trải qua các
thời kỳ phong kiến, thực dân, mặc dù chưa có các quy định cụ thể nhưng vấn
đề quản lý hộ tịch - con người là vấn đề trọng yếu của Nhà nước, luôn được
quan tâm thực hiện bên cạnh vấn đề quản lý đất đai. Điều đó cho thấy cơng
tác hộ tịch ln được quan tâm trong bất kì hồn cảnh nào.

15


Bản Điều lệ hộ tịch được Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số
764/TTg ngày 08/05/1956, gồm 34 điều quy định những nguyên tắc và thủ tục
đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các
việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc đó. Bản điều lệ
này sau đó được thay thế bằng Nghị định số 04/CP kèm theo Bản Điều lệ
đăng ký hộ tịch (1961). Bản điều lệ này có hiệu lực thi hành từ 01/4/1961 và
có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi có văn bản mới thay thế. Tuy nhiên,
có thể thấy trong tất cả các văn bản nêu trên các nhà khoa học pháp lý chưa
đưa ra được một khái niệm cụ thể về quản lý hộ tịch.
Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch được đề cập lần đầu tiên trong
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, cụ thể:

“Quản lý hộ tịch được xem là công việc thường xuyên của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ
tịch nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tạo cơ sở xây
dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phịng và chính sách dân số, kế
hoạch hóa gia đình”[17, tr.1].
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 tiếp cận khái niệm
quản lý hộ tịch cũng từ góc độ xác định mục đích, cụ thể: “Quản lý hộ tịch là
nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp nhằm theo dõi
thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính
sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình”
[18, tr.1].
Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời đã xác định rõ ràng các sự kiện hộ tịch,
nội dung quản lý nhà nước và trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch.
Như vậy, các văn bản trên đều hiểu: Quản lý hộ tịch là sự tác động của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tới sự kiện nhân thân của cá nhân nhằm thực

16


hiện chức năng kiểm soát dân cư và phục vụ cho hoạt động quản lý trong các
lĩnh vực khác nhau như: An ninh, quốc phịng, dân số, kế hoạch hóa gia
đình… Hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối tượng là các sự kiện xác
định tình trạng nhân thân của con người từ khi sinh ra cho đến khi chết.
Những sự kiện này mang đặc điểm là có tính ổn định cao. Nếu có thay đổi thì
sự thay đổi đó phải được xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
phải được tiến hành theo một trình tự thủ tục rất chặt chẽ.
Đăng ký hộ tịch là một vấn đề cần quan tâm khi xem xét đến quản lý
nhà nước về hộ tịch. Rất khó để có thể tách rời hai khái niệm: Đăng ký hộ tịch
và quản lý hộ tịch. Bởi lẽ đăng ký hộ tịch cũng là một yếu tố, một động tác cơ

bản của hoạt động quản lý hộ tịch.
Đăng ký hộ tịch là hoạt động nằm trong hoạt động quản lý nhà nước về
hộ tịch của cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh việc đăng ký hộ tịch, nội
dung của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch còn thực hiện rất nhiều hoạt
động khác như: Xây dựng pháp luật về hộ tịch; hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ
chuyên môn về hộ tịch; ban hành và quản lý các loại sổ sách, biểu mẫu hộ
tịch; thống kê hộ tịch; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về hộ
tịch…
Từ sự phân tích các khái niệm nêu trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước
về hộ tịch là một hình thức hoạt động quản lý của Nhà nước thông qua việc
đăng ký hộ tịch do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở pháp luật
và để thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội.
* Đặc điểm của quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch mang những đặc điểm chủ yếu sau đây:

17


- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính quyền lực Nhà
nước.
Tính quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước về hộ tịch trước hết
thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thơng qua
phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng
được sử dụng là các văn bản quản lý hộ tịch
Thông qua việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hộ tịch thể hiện ý chí
của mình dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; trực tiếp thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý về hộ tịch; đưa ra
mệnh lệnh chỉ đạo trong tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; cung cấp
thông tin, hướng dẫn người dân để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua

hệ thống của bộ máy quản lý hộ tịch của Nhà nước.
Mặt khác, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí
Nhà nước, như các biện pháp về tổ chức, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, hòa
giải,… Những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh
Nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí của chủ thể
quản lý nhà nước về hộ tịch được bảo đảm thực hiện.
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động được tiến hành với những
chủ thể có quyền năng hành pháp là cơng chức trong bộ máy nhà nước.
Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch là các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, người có thẩm quyền (Chính phủ; các Bộ;
UBND các cấp; cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; đội
ngũ công chức làm công tác hộ tịch).
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất, được tổ
chức chặt chẽ.

18


Để đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch,
bộ máy các cơ quan hộ tịch được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung
ương tới địa phương, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều
hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nhà nước, bảo đảm sự liên kết,
phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả
nước, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền
khác nhau.
Tuy nhiên, do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều
kiện kinh tế - xã hội, nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa
phương, tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý, điều hành của từng địa
phương, bộ máy quản lý hộ tịch còn được tổ chức theo hướng phân cấp, trao

quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng tạo cho chính quyền địa phương.
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính chấp hành và điều
hành.
Tính chấp hành và điều hành thể hiện trong quản lý nhà nước về hộ tịch
là việc những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục
đích thực hiện pháp luật về hộ tịch, cho dù đó là hoạt động chủ động, sáng tạo
của chủ thể quản lý thì cũng được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành
cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn,
trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện
trong việc chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi hành pháp luật về hộ tịch trong
đời sống xã hội. Trong quá trình đó, các chủ thể này khơng chỉ tự mình thi
hành pháp luật mà quan trọng hơn cả là các chủ thể này đảm nhận chức năng
chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một
quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thi hành pháp luật
nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý.

19


×