Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Hoạt động phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT
HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Thạc sĩ VŨ THỊ BÍCH HƯỜNG
Người thực hiện: Bùi Tiểu Nhi
MSSV: 1253801011136
Lớp: HC37-2

TP. Hồ Chí Minh Năm 2016


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
Qua quá trình hỗ trợ và làm việc cùng với tác giả, tơi có vài nhận xét như sau:
- Tác giả có thái độ làm việc tích cực, nghiêm túc.
- Khả năng nắm bắt vấn đề nhanh, phân tích tốt.
- Cần rèn thêm kỹ năng viết, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
Giảng viên hướng dẫn

Vũ Thị Bích Hường


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận như ngày hơm nay và nhìn lại, em rất tự hào
là sinh viên của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh với những
chương trình đào tạo khoa học đã cho sinh viên chúng em một mơi trường học


và tìm hiểu khoa học tốt nhất. Cảm ơn nhà trường đã cung cấp cho chúng em
những cơ sở vật chất, hạ tầng tốt nhất để thực hiện nghiên cứu và hoàn thành
đề tài của mình. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cơ giáo đã hết mình
truyền đạt và trang bị cho em những kiến thức phong phú để có thể vững
bước đến ngày hôm nay. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cơ
Vũ Thị Bích Hường - giảng viên bộ môn Lý luận Nhà nước và pháp luật người đã ln nhiệt tình định hướng và dẫn dắt em thực hiện nghiên cứu,
công sức của Cơ là phần khơng thể thiếu đã góp vào sự hồn thiện của cơng
trình này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Qúy nhà trường, thầy, cô đã
giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hồn thành tốt cơng trình nghiên cứu của
mình!
Bùi Tiểu Nhi


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ....................... 5
1.1. Cơ sở lý luận: .......................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm phản biện xã hội: ................................................................ 5
1.1.2. Hoạt động phản biện xã hội trong lịch sử hình thành và phát triển của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. .......................................................................... 9
1.1.3.Tính chất của hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ...................................................................................................... 16
1.1.4.Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động phản biện xã
hội giai đoạn hiện nay. ................................................................................. 24
1.2. Cơ sở pháp lý: ..................................................................................... 27
1.3. Kết luận chương: ................................................................................. 32
CHƯƠNG 2. HOẠT ĐỘNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VIỆT NAM. ............................................................................. 33

2.1. Phạm vi phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. ............................ 33
2.2. Tính độc lập của hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. ............................................................................................................ 38
2.3. Tương quan hoạt động phản biện giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các chủ thể khác. .......................................................................................... 42
2.3.1.Tương quan giữa phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và phản
biện của chủ thể khác. .................................................................................. 42
2.3.2.So sánh hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
hoạt động phản biện xã hội của các nhà khoa học, tri thức. .......................... 45
2.4. Kiến nghị xây dựng cơ chế hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. ............................................................................................ 51
2.4.1.Tình hình hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đến nay. ........................................................................................................ 51
2.4.2.Kiến nghị ............................................................................................. 57
2.5. . Kết luận chương. .................................................................................. 59
KẾT LUẬN ................................................................................................. 60


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân
và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về tay nhân dân” – đó ln là tơn chỉ hùng
hồn trong mỗi bản Hiến pháp Việt Nam và cũng chính là mục tiêu chủ yếu
trên con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. Xã hội tiến bộ là
một xã hội có xu hướng ngày càng tiến dần đến dân chủ. Mục tiêu chủ yếu
của việc đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội
chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân. Dân chủ càng cao, cơ chế kiểm soát quyền lực phải càng
hiệu quả. Dân chủ và kiểm sốt quyền lực là hai nhánh cân ln phải trong
thế cân bằng để tạo thành trạng thái lý tưởng nhất của xã hội. Trong đó, kiểm

sốt quyền lực là cơ chế không thể thiếu trong hoạt động thực hiện quyền lực
nhà nước. Nhất là trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền như ở nước
ta, việc kiềm chế, kiểm soát quyền lực cần được đặt lên tầm quan trọng hàng
đầu.
Có nhiều cách thức để kiềm chế quyền lực nhà nước, trong số đó, cơ chế vừa
kiểm sốt quyền lực nhà nước vừa thể hiện tính dân chủ đó là phản biện xã
hội. Được đề cập lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, phản
biện xã hội được nhấn mạnh mới mẻ trong tư duy của con người Việt Nam
những năm trở lại đây. Sự xuất hiện này khơng phải làm hình thành lần đầu
tiên hoạt động phản biện xã hội mà có tác dụng như một “cú động” mạnh mẽ
để thức tỉnh người dân về sự hiện diện và tầm quan trọng của phản biện xã
hội. Và từ đó, đặt yêu cầu, nhiệm vụ phải triển khai thực hiện một cách có
hiệu quả hoạt động này.
So với những ngày đầu mới hình thành và được nhấn mạnh trong văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ X, khi nhắc đến phản biện xã hội, người ta bàn luận
với nhau nó là gì, tại sao lại phải phản biện xã hội, phản biện cái gì, khi nào
thì phản biện,… thì ngày nay, người ta bình luận làm cách nào để thực hiện
nó một cách có hiệu quả. Cho thấy, phản biện xã hội đến thời điểm này, đã
ngấm dần vào hoạt động chính trị của quốc gia và đang trong công cuộc được
nâng cao, phát triển. Từ khi có Quyết định 217 ngày 12 tháng 12 năm 2013
1


của Bộ Chính trị ban hành kèm theo đó Quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiến pháp 2013 và sau đó là Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam 2015, hoạt động phản biện xã hội đã có thêm cơ sở pháp lý
hướng dẫn các vấn đề liên quan, hướng dẫn các chủ thể thực hiện đưa phản
biện đi vào nhân dân một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, phản biện xã hội sẽ
không chỉ nhờ những cơ sở pháp lý, chủ trương trên mà có thể phát huy tối đa
hiệu quả. Hoạt động phản biện xã hội được triển khai áp dụng hiệu quả là một

trong những mục tiêu lý tưởng trên con đường xây dựng nhà nước pháp
quyền dân chủ của ta. Việc nâng cao tư duy, nhận thức về phản biện xã hội ở
góc độ lý luận, đi sâu tìm hiểu bản chất và lí giải được nguồn gốc vấn đề là
cách cơ bản để tiếp cận với phản biện xã hội, góp phần vạch ra chủ trương,
chính sách, đường lối tổ chức, thực hiện hiệu quả. Đó cũng chính là lí do tác
giả đã chọn “Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình, để giúp hiểu hơn về hoạt động phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như nhìn lại những hệ quả
từ khi quá trình phản biện xã hội được đánh dấu tại Đại hội Đảng X cho tới
nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến thời điểm này, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
là đề tài được khá nhiều các nhà khoa học, tri thức và cộng đồng quan tâm.
Trên cơ sở đó, các cơng trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này khá nhiều
và phong phú. Về sách, một số các cơng trình tiêu biểu như cuốn Phản biện
xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền của TS. Hồ Bá Thâm và CN. Nguyễn
Tơn Thị Tường Vân (đồng chủ biên) (Nxb. Chính trị quốc gia năm 2010);
Cuốn Phản biện xã hội – câu hỏi đặt ra từ cuộc sống của Trần Đăng Tuấn
(Nxb. Đà Nẵng năm 2006);...
Về cơng trình nghiên cứu khoa học, có luận văn thạc sỹ Phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (nhìn từ góc độ luật Hiến pháp) của tác giả
Nguyễn Thị Hải Vân và luận văn thạc sỹ Điều chỉnh pháp luật đối với phản
biện xã hội của tác giả Lê Phương Mai; cùng rất nhiều các bài đăng trên các
tạp chí, báo, trang thơng tin điện tử,... Mặc dù đã có khá nhiều cơng trình viết
về đề tài phản biện xã hội, nhưng mỗi tác giả lại có cách khai thác ở mỗi khía
2


cạnh khác nhau, phù hợp với mục tiêu nghiên cứu của mình. Khóa luận này
cũng vậy, với ý đồ nghiên cứu riêng của mình, tác giả chọn và hồn thành

cơng trình của mình với cách tiếp cận hồn tồn khác với các cơng trình
nghiên cứu đi trước.
3. Mục tiêu đề tài
Trong phạm vi khóa luận này, tác giả muốn tập trung khẳng định lại
những nền tảng lý luận cơ bản xoay quanh hoạt động phản biện xã hội và từ
đó mở rộng khai thác, lý giải các vấn đề phát sinh thuộc về bản chất của hoạt
động này. Khóa luận tập trung vào hai mảng chính đó là hoạt động phản biện
xã hội và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nghiên cứu về hoạt động phản biện xã
hội, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tiến hành lồng ghép, phân tích mối
quan hệ mật thiết giữa chúng. Ngồi những nền tảng kiến thức chung về phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mục tiêu của khóa luận là phải
trả lời được các câu hỏi mang tính lý giải về bản chất của sự việc: Tại sao Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan được giao nhiệm vụ phản biện xã hội mà
không phải là chủ thể khác?; Có phải Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được phản
biện xã hội với tất cả các dự thảo văn bản của cơ quan nhà nước? Hoạt động
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có khác gì với phản biện xã
hội của các nhà khoa học?; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam liệu gặp những trở
ngại gì làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động phản biện? Tính độc lập của
hoạt động này từ đó liệu có được đảm bảo hay khơng?
Ngồi ra, khóa luận sẽ điểm lại tình hình thực hiện phản biện xã hội
trong những năm qua, những thành công đạt được, những hạn chế cần phải
khắc phục. Từ đó, đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động và khắc phục những bất cập còn tồn tại trong phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận – pháp lý xoay quanh hoạt động
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bên cạnh đó, tìm hiểu bản
chất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự ảnh hưởng đối với hoạt động
phản biện xã hội.
3



5. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động phản biện xã hội có thể là đề tài nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học khác nhau như Luật học, Xã hội học, Triết học,... Tùy đặc trưng ở
mỗi ngành khoa học mà đề tài sẽ được nghiên cứu ở mỗi phạm trù khác nhau.
Trong phạm vi khóa luận này, tác giả sẽ nghiên cứu hoạt động phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà trong đó, thiên về phân tích các khía
cạnh của hoạt động và tổ chức Mặt trận Tổ quốc trong mối quan hệ chính trị xã hội, quản lý đất nước. Do vậy, phạm vi nghiên cứu của khóa luận này là ở
góc độ Luật học, mà cụ thể hơn là thiên về Luật Hiến pháp.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện cơng trình của mình, tác giả đã vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac – Lenin; khai thác, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
của dân, do dân và vì dân.
Tác giả đã tổng hợp, khai thác tri thức từ các nguồn tài liệu khác nhau để
tư duy cá nhân. Sau đó, vận dụng các phương pháp tổng hợp, so sánh, phân
tích, diễn dịch, quy nạp,... để diễn đạt tư duy cá nhân thành lời lẽ, câu văn
hoàn chỉnh. Kết hợp hỏi ý kiến, trao đổi quan điểm với cố vấn, người tham
mưu để có thể hồn thành tốt nhất khóa luận này.
7. Kết cấu đề tài.
Khóa luận này được chia thành hai chương. Cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận – pháp lý cho hoạt động phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
Chương 2. Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4


CHƯƠNG 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM.
1.1. Cơ sở lý luận của hoạt động phản biện xã hội:
1.1.1. Khái niệm phản biện xã hội:
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X lần đầu tiên đề cập vai trò
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng chính là mốc quan
trọng đặt ra yêu cầu nhận thức về khái niệm “phản biện xã hội”. Phản biện xã
hội là khái niệm mới và còn khá xa lạ, trong các kho từ điển Tiếng Việt, chưa
có từ điển nào đưa ra khái niệm cụ thể về “phản biện xã hội”. Đa số các cơng
trình nghiên cứu khoa học của các học giả khi phân tích khái niệm phản biện
xã hội đều xuất phát từ khái niệm “phản biện”.
Tác giả Trần Ngọc Nhẫn cho rằng: “Phản biện là sự nhận xét, đánh giá
chất lượng về lý luận, thực tiễn và giá trị khoa học của một nhóm nhà khoa
học đối với cơng trình nghiên cứu của một người hoặc một nhóm người
khác”1. Theo đó, tác giả đã nêu rõ bản chất của phản biện là “nhận xét, đánh
giá” và đồng thời ông cũng cho rằng hoạt động phản biện là của “một nhóm
nhà khoa học”.
Trong cơng trình nghiên cứu Một số vấn đề về phản biện xã hội (Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp 2007, số 11, tr.12-17), tác giả - TS. Vũ Văn Nhiêm định
nghĩa: “Phản biện là hoạt động đưa ra các lập luận, chứng cứ, phân tích, đánh
giá về một vấn đề nào đó (như các đề án kinh tế, các dự án xã hội, các dự án
luật…) nhằm đánh giá, chứng minh tính hợp lý hay khơng hợp lý, từ đó có thể
khẳng định, góp ý, bổ sung hoặc phản bác một phần hoặc cả phương án, dự
án, kế hoạch.”.
Dưới góc độ luật học, PGS.TS. Nguyễn Văn Động cho rằng: “Phản biện
xã hội là sự phản ứng mang tính phủ định, trên tinh thần xây dựng, góp ý của
xã hội đối với chính sách, pháp luật của nhà nước”2. Phản biện xã hội theo
ơng nhấn mạnh phải mang tính phủ định, là sự phê phán, phê bình và khi là
1


Trần Ngọc Nhẫn (2006), “Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp (15), tr.19-20.
2
Nguyễn Văn Động (2011), “Phản biện xã hội - nhìn từ góc độ luật học”, Tạp chí Luật học (5), tr.3-7.

5


“phản biện xã hội” thì đã là hoạt động của tồn xã hội chứ khơng cịn là của
một nhóm chủ thể.
Đưa ra định nghĩa một cách cụ thể hơn, PGS.TS Bùi Xuân Đức cho
rằng: “Phản biện xã hội được hiểu là sự nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến
khẳng định những nội dung đúng đắn của chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án, đề án, đồng thời
phát hiện những điểm chưa chính xác, chưa phù hợp với đời sống xã hội và
lợi ích chính đáng của nhân dân để kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
xem xét, sửa đổi, bổ sung cho chính xác và phù hợp”3.
Chung quy, có thể thấy, các cách định nghĩa trên dù có khác nhau về
nhiều khía cạnh chi tiết nhưng đều có một số điểm chung cơ bản nhất. Cụ thể:
Thứ nhất, phản biện xã hội là hoạt động đưa ra ý kiến, quan điểm về một
chủ trương, đường lối, chính sách nào đó. Phản hồi đó có thể là nhận xét,
đánh giá tính khả thi, phù hợp, bao gồm cả viện dẫn lý do để biện chứng cho
nhận xét của mình; hoặc có thể là hoạt động góp ý, kiến nghị ngược lại cho
chủ thể soạn thảo nhằm bổ sung hoàn thiện dự thảo. Phản hồi ở đây có thể
xảy ra theo hai hướng: hoặc là phê phán, phê bình những điểm chưa khả thi,
chưa phù hợp; hoặc là khẳng định những điểm đúng đắn của chủ trương,
chính sách; hoặc có thể đồng thời khẳng định điểm đúng đắn và góp ý về
những điểm bất khả thi như tác giả Bùi Xuân Đức đã nhận định.
Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động phản biện xã hội là toàn xã hội. Xã
hội ở đây chính là tồn thể nhân dân, quần chúng, mọi tầng lớp, mọi chủ thể

là đối tượng tác động của một chính sách. Một chủ trương, chính sách khi đi
vào thực thi, có độ phủ sóng, tác động và điều chỉnh đến hầu hết mọi con
người trong một đất nước. Để đảm bảo quyền lợi của người dân nói chung và
tính khả thi của đường lối, chính sách nói riêng, phản biện phải xuất phát từ
tồn thể nhân dân. Như vậy, có thể thấy “phản biện xã hội” khơng phải là hoạt
động nhận xét, đánh giá hay góp ý trong một trường hợp cụ thể hay dành cho
một chủ thể xác định nào, nó là hoạt động của quần chúng, của toàn xã hội.
Khi hoạt động phản biện đi cùng “xã hội” thì phản biện lúc này được hiểu như
3

Bùi Xuân Đức (2010), “Phản biện xã hội: ý nghĩa, cơ chế và điều kiện thực thi”, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp (3), tr.31-39.

6


một quyền của nhân dân, một công cụ trong tay nhân dân để thực hiện quyền
làm chủ, quyền được quyết định mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống của
mình bằng việc nêu lên ý kiến, quan điểm. Phản biện xã hội ở đây chính là
nhân dân phản biện, nhân dân lên tiếng.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị xã hội (sau đây gọi là Quy chế giám sát và phản biện xã hội). Khoản 2 Điều 1
quy chế này đưa ra khái niệm phản biện xã hội “là việc nhận xét, đánh giá,
nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước.”.
Từ đây, ta có thể cùng nhau cơng nhận khái niệm chính thức về phản
biện xã hội. Theo đó, phản biện xã hội có những đặc trưng sau:
Một là, tính chất hoạt động phản biện xã hội chính là phản hồi ý kiến từ
xã hội. Phản biện xã hội có thể thực hiện thơng qua nhiều hình thức như nhận
xét, đánh giá, nêu chính kiến hay kiến nghị,… của cá nhân, cộng đồng đối với

một dự thảo chính sách, đường lối, chủ trương của Đảng hay pháp luật của
nhà nước. Nghĩa Hán Việt của cụm từ “phản biện” cũng đã thể hiện rõ tính
chất này. “Phản” có nghĩa là tác động ngược, trả lại, đáp lại. “Biện” có nghĩa
là lập luận, biện chứng, đưa ra lý lẽ, dẫn chứng để làm thuyết phục người
khác. Theo đó, “phản biện” chính là hoạt động nêu ra ý kiến của bản thân dựa
trên những nhận thức, lý lẽ rõ ràng về một chủ trương, chính sách của cơ quan
nhà nước. Phản biện xã hội chính là việc một dự thảo chủ trương, đường lối,
chính sách được soạn thảo, phổ biến đến tồn xã hội, sau đó, từng cá nhân, tổ
chức, đơn vị của xã hội sẽ đưa ra ý kiến, kiến nghị của mình trên cơ sở những
hiểu biết, những nhận thức của bản thân về dự thảo đó; tập hợp thành những
phản hồi kèm theo lý lẽ dẫn chứng; những ý kiến này sẽ được tổng hợp và gửi
ngược lại cho cơ quan soạn thảo để xem xét, tiếp thu.
Hai là, đối tượng phản biện xã hội chỉ bao gồm những đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khi đang còn là dự
thảo. Quy chế về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam khi ban hành đã giải đáp được phần nào sự bất đồng quan điểm về vấn
đề phản biện có được đặt ra với các văn bản đã có hiệu lực hay không. Theo
7


Quy chế này, khơng phải mọi văn bản về chính sách, đường lối, pháp luật của
Đảng và nhà nước đều là đối tượng của hoạt động phản biện xã hội. Phản biện
xã hội không được thực hiện với những văn bản đã đi vào thực thi trong cuộc
sống mà chỉ được tiến hành đối với những văn bản đang còn là dự thảo, tức
chưa có hiệu lực thi hành trong thực tế. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, việc
“có phản biện xã hội hay không?” ở đây chỉ đang xét ở góc độ đảm bảo thực
hiện, tổ chức, cịn về bản chất, hoạt động phản biện xã hội là quyền của công
dân và hàng ngày vẫn luôn xảy ra trong xã hội, không đặt vấn đề cho phép
hay không cho phép phản biện.
Ba là, chủ thể thực hiện phản biện xã hội chính là tồn thể nhân dân. Từ

“xã hội” ở đây đã nói lên phần nào chủ thể của hoạt động phản biện xã hội.
Phản biện chỉ có thể “xã hội” khi do toàn thể nhân dân thực hiện. Không nhất
thiết phải là tất cả các cá nhân người dân trong xã hội thực hiện thì mới là
phản biện xã hội. Hoạt động phản biện xã hội thể hiện tính quần chúng, tính
nhân dân khi kết quả thực hiện nói lên nỗi niềm của nhân dân, của đại đa số
các tầng lớp trong xã hội. Việc lấy ý kiến phản hồi phải từ đông đủ mọi thành
phần của xã hội. Người phản biện là mọi tầng lớp, thành phần của xã hội, đó
có thể là nơng dân, cơng nhân, học sinh, sinh viên, hay các cơ quan, tổ chức
liên hiệp phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh, người cao tuổi,… điều này làm
nên tính quần chúng của hoạt động phản biện.
Bốn là, về nội dung của hoạt động phản biện. Khoản 2 Điều 9 Quy chế
về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định nội
dung của hoạt động phản biện xã hội là phản biện về:
- Sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự thảo;
- Sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước; thực tiễn của đơn vị, địa phương;
- Tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả
thi của văn bản dự thảo.
- Dự báo tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại của văn bản dự thảo.

8


Năm là, về khách thể của hoạt động phản biện xã hội. Khách thể của
hoạt động phản biện xã hội chính là những nội dung của dự thảo chính sách,
đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng và nhà nước. Nói cách khác, khách
thể của hoạt động phản biện xã hội chính là những chính sách, đường lối, chủ
trương của Đảng và nhà nước khi còn đang là dự thảo. Cần phân biệt giữa đối
tượng và khách thể của hoạt động phản biện xã hội. Khách thể là cái mà chủ

thể hướng đến để thực hiện phản biện xã hội, đối tượng chính là sự vật chứa
đựng khách thể mà khi chủ thể muốn hướng đến khách thể phải tác động vào
nó. Cụ thể, nếu khách thể của hoạt động phản biện xã hội là nội dung những
chính sách, đường lối, chủ trương thì đối tượng của hoạt động phản biện xã
hội chính là những văn bản dự thảo chính sách, đường lối, chủ trương đó.
Phản biện xã hội - đứng về phía nhân dân là một hoạt động mới thể hiện
sự dân chủ, tiến bộ trong quá trình làm chính sách của Đảng, nhà nước, thể
hiện sự tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Được công nhận trong văn
kiện Đại hội Đảng, trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phản biện xã hội từ bản chất là
một quyền năng cơ bản của con người chính thức trở thành quyền Hiến định,
đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ hơn của một thiết chế mà trong đó, nhân dân
là người làm chủ. Đứng về phía chính quyền, về tổ chức thực hiện, phản biện
xã hội là vai trò, nhiệm vụ mới và ngày càng quan trọng của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Phản biện xã hội trở thành hoạt động chính trị cơ bản và đại diện
cho bộ máy quản lý nhà nước tiến bộ, văn minh. Từ khi có Quy chế giám sát
và phản biện xã hội do Bộ Chính trị ban hành, khái niệm cũng như những vấn
đề xoay quanh phản biện xã hội đã được sáng tỏ và hiểu một cách thống nhất
hơn.
Hiện nay, khái niệm phản biện xã hội được hiểu thống nhất theo Quy chế
giám sát và phản biện xã hội: “Phản biện xã hội là việc nhận xét, đánh giá,
nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”.
1.1.2. Hoạt động phản biện xã hội trong lịch sử hình thành và phát
triển của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

9


Ngay từ ngày đầu hình thành với vị trí là một tổ chức ngoại biên mang

tên Mặt trận Dân tộc thống nhất (Mặt trận Thống nhất Phản đế), Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đã gắn với tính chất hoạt động là tập hợp và lãnh đạo quần
chúng. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tháng 7 năm 1936, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã quyết định thành lập Mặt
trận nhân dân phản đế Đông Dương nhằm tập hợp rộng rãi các giai tầng, đảng
phái, các đồn thể chính trị, tơn giáo khác nhau để đấu tranh đòi những quyền
dân chủ tối thiểu nhất, phù hợp với Mặt trận Bình dân ở Pháp.
Từ tháng 9 năm 1937, một loạt các tổ chức ngoại vi của Mặt trận như
Thanh niên Dân chủ Đơng Dương, Hội Cứu tế bình dân, Cơng hội, Nơng hội
ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức
quần chúng như hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... Tháng 3
năm 1938, Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương đổi tên thành Mặt trận
thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Thế chiến thứ hai bùng nổ (1939), tại Đơng Dương, chính quyền thực
dân ban bố tình trạng thời chiến, đàn áp thẳng tay Mặt trận Dân chủ Đông
Dương. Tháng 11 năm 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuyển hướng
chỉ đạo, chuyển các hoạt động của Mặt trận Dân chủ thành hoạt động của Mặt
trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm liên hiệp tất cả các dân
tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn
giải phóng dân tộc chống đế quốc, phát triển dưới hình thức bí mật và cơng
khai.
Năm 1940, Nhật tiến vào Đông Dương, Mặt trận dân tộc thống nhất
chống phát xít Pháp Nhật với tên gọi Việt Nam Độc lập đồng minh Hội, gọi
tắt là Việt Minh được thành lập nhằm tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng đồng
minh (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc), đồng thời tập hợp lực lượng,
chờ thời cơ đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Khi quân Pháp tái
chiếm Đơng Dương, nhằm mở rộng hơn nữa khối đồn kết dân tộc, các lãnh
đạo Cộng sản đã hình thành một Ban vận động thành lập Hội liên hiệp quốc
dân Việt Nam, gọi tắt là Hội Liên Việt, gồm 27 người, với đại biểu Việt Minh

là Hồ Chí Minh, chính thức ra mắt ngày 29 tháng 5 năm 1946.
10


Năm 1951, Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai. Mặt trận
Việt Minh và Hội Liên Việt được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt. Sau năm
1954, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phá hoại Hiệp định Giơnevơ chiếm đóng
miền Nam, chia cắt lâu dài nước ta. Cách mạng Việt Nam lúc này có hai
nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà.Trong bối cảnh đó, ngày10/9/1955 Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất
họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thơng
qua Cương lĩnh nhằm đồn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hồ bình
trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Ngày
20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với bản
Tun ngơn và Chương trình hành động 10 điểm, nội dung cơ bản là đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp nhân dân với mục tiêu đấu tranh “Phải hồ bình! Phải
độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Phải hồ bình! Thống nhất tổ
quốc!” nhằm đánh đổ chế độ độc tài tay sai của đế quốc Mỹ. Ngày 20/4/1968
trên cơ sở thắng lợi và khí thế của Tổng tiến cơng và nổi dậy mùa Xuân 1968,
Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hồ bình Việt Nam ra đời, nhằm
đồn kết, tranh thủ thêm tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở thành thị,
mở rộng thêm lực lượng trên mặt trận chống Mỹ và các thế lực tay sai.
Sau khi đất nước giành độc lập, lãnh đạo ba tổ chức trên họp thống nhất
ba tổ chức này thành tổ chức chính trị duy nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
Có thể thấy, trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập, vai trò quan trọng
và chủ yếu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đoàn kết, tập hợp quần chúng –
lực lượng toàn dân để đấu tranh giành độc lập, giải phóng đất nước. Ở giai

đoạn này, vai trị phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa có
nền tảng để hình thành và phát triển. Thật vậy, vào thời điểm mà đất nước vẫn
còn đang trong cảnh “dầu sôi lửa bỏng”, quyền tự do của dân tộc vẫn còn
đang nằm trong tay kẻ thù xâm lược thì nhiệm vụ đầu tiên, cấp bách phải là
đấu tranh giành độc lập cho nước nhà, cho dân tộc. Và với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam lúc đó, tính chất hoạt động ngay từ khi ra đời là tập hợp sức mạnh
quần chúng, khơng gì quan trọng hơn nhiệm vụ đoàn kết nhân dân cả nước
11


đứng lên đấu tranh giành độc lập. Án nghị quyết về vấn đề phản đế được nêu
ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 10 năm 1930 đã nêu rõ: “Những điều ấy tỏ ra rằng ở Đơng-dương có
nhiều lực lượng phản đế mà hiện nay cần phải hiệp lại làm một phong trào
cách mạng thống nhứt để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mưu sự giải phóng cho
xứ Đơng-dương”. Hay trong Chung quanh vấn đề về chính sách mới, về việc
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, nêu rõ: “Vậy nhiệm vụ lập Mặt trận
nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các
đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông
Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ”.
Giai đoạn kết thúc chiến tranh, thống nhất nước nhà cho đến trước Đại
hội Đảng lần thứ X - giai đoạn nước nhà được thống nhất, độc lập, tự do.
Nhiệm vụ đặt ra là khắc phục hậu quả sau chiến tranh, xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật, đưa cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ cơ bản của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn này được Điều 9 Hiến pháp 1992 quy
định rõ “đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng
Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân
dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên

chức Nhà nước”. Xuyên suốt những năm đất nước thống nhất cho đến trước
Đại hội Đảng lần thứ X, vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam vẫn chưa hình thành mà chỉ tập trung vào các nhiệm vụ đảm bảo nhất trí
về chính trị tồn dân, thực hiện chức năng cầu nối giữa Nhà nước với nhân
dân, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,…
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Phát huy vai trò và tạo
điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng
đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện
vai trò giám sát và phản biện xã hội”4. Hiến pháp 2013 là hiến pháp đầu tiên
quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập
4

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.305.

12


hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội,...” (Điều 9 Hiến pháp
2013) là cơ sở cho hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam được hình thành phát triển. Trên cơ sở đó, 12/12/2013, Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Quyết định số 217-QĐ/TW về việc
ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đồn thể chính trị - xã hội; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015
dành riêng một chương (VI) để quy định, làm rõ các vấn đề định hướng cho
hoạt động phản biện xã hội như đối tượng, nội dung, phạm vi, tính chất, hình
thức của hoạt động,... Phát huy tinh thần Hiến pháp 2013, trong Chương trình
hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2014 – 2019 tại Đại hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII đã đưa ra chương trình thứ ba: “Phát

huy dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và chính quyền
vững mạnh”. Trong đó có nội dung “tổ chức góp ý và tập hợp ý kiến của các
tầng lớp nhân dân tham gia vào các dự thảo văn kiện và đề xuất sáng kiến xây
dựng Đảng, xây dựng đất nước vào dịp Đại hội Đảng lần thứ XII...Tổ chức
các diễn đàn và các phương thức phù hợp để phát huy sáng kiến của nhân dân,
nhất là đội ngũ trí thức ở trong và ngoài nước hiến kế xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng
được dư luận quan tâm. Khơng ít các bài viết trên các tạp chí lớn của các nhà
trí thức đã được xuất bản để nói về vai trị này. Có thể kể đến các bài viết
Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của
Nguyễn Anh Cường trong tạp chí Tổ chức nhà nước 2013 số 10; tác phẩm
Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền của Hồ Bá Thâm; Một số
vấn đề về góp ý, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của
Nguyễn Văn Pha trong tạp chí Nghiên cứu lập pháp 2013 số 17 (249);...
Trong hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là người
đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hiểu một cách đơn
giản, hệ thống chính trị là tồn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để thực
hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị. Hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là Mặt trận
13


Tổ quốc Việt Nam và 5 đồn thể chính trị - xã hội: Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Nói đến
chính trị là nói đến các lĩnh vực chung của đời sống xã hội nên các tổ chức mà
trong mục đích hoạt động có tính điều chỉnh và tác động đến tính “chung” này
sẽ cấu thành hệ thống chính trị. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa có thể xếp vào nhóm thứ nhất với đặc trưng
của hoạt động là tính quyền lực nhà nước. Trong các cơng việc chung của xã
hội thì cơng việc của nhà nước chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Đảng và Nhà
nước, sở dĩ có thể xếp cùng nhau là vì tính chất hoạt động của hai thiết chế
này mang nặng tính quyền lực, dùng quyền lực nhà nước để thực hiện vai trị,
bổn phận của mình. Nói đến chính trị, không thể không nhắc đến Đảng và
Nhà nước, đây là hai thiết chế đương nhiên và trọng tâm của quyền lực. Đảng
là lãnh đạo của toàn dân, là chủ thể làm chủ trương, đường lối, chính sách cho
đất nước, tham gia vào quá trình quản lý xã hội của Nhà nước, là nơi bồi
dưỡng và giới thiệu lực lượng cán bộ, công chức cho bộ máy Nhà nước. Nhà
nước lại là trung tâm của hệ thống chính trị, nơi mà mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng được luật hóa, triển khai, thi hành trong xã hội. Nhà
nước cũng chính là trung tâm quyền lực với các quyền năng lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Tính chất hoạt động của hai thiết chế này là quyền lực nhà
nước – quyền uy, mệnh lệnh.
Song, chính trị khơng chỉ bao gồm các công việc của nhà nước. Xã hội
muốn tồn tại và phát triển thì cịn hàng loạt vấn đề chung khác cần giải quyết
như các vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng, ý thức, đạo đức xã hội, và thông
thường thì phương án giải quyết các vấn đề chung của xã hội sẽ khác với cách
giải quyết của giai cấp, tầng lớp nắm quyền...5. Vì vậy, bên cạnh nhà nước,
trong xã hội cịn tồn tại các tổ chức chính trị - xã hội khác. Khác với Đảng và
Nhà nước, các tổ chức cịn lại có tính chất “xã hội”. “Các tổ chức chính trị xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội. Điều này thể hiện sự tập
hợp đồn kết các lực lượng quần chúng đơng đảo để thực hiện các nhiệm vụ

5

(truy cập ngày 15/6/2016).

14



chính trị của Đảng và Nhà nước”6 . Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam, Hội
Nơng dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức đồn thể
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị của nước ta. Các tổ chức này, bằng
các chương trình hành động của mình, nhằm đến những thành phần khác nhau
của xã hội, hoạt động sâu sát, gắn bó với thành phần đó. Từ đó, chúng là các
thiết chế gần gũi với người dân, nắm bắt và hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và
tình hình, hiện trạng của mỗi địa phương. Trên cơ sở sự gần gũi, sao sát đó,
các tổ chức này mới truyền tải những nội dung quản lý từ phía nhà nước tới
với dân cũng như tâm tư, nguyện vọng từ phía nhân dân về với Nhà nước. Đặt
trong mối quan hệ với phản biện xã hội, đây chính là các thiết chế thực hiện
tốt nhất việc tổ chức phản biện xã hội đến với nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự
nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp,
các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; nơi thống nhất hành động giữa các
tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo
bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham
gia xây dựng nhà nước, quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cầu nối
giữa chính quyền và nhân dân. Trong xu hướng đổi mới, những lợi ích mới,
quan hệ xã hội mới xuất hiện, mỗi tầng lớp khác nhau lại xuất hiện những lợi
ích khác nhau. Trước tình hình đó, Đảng cần có sự ủng hộ, kêu gọi mọi tầng
lớp nhân dân để có được sự đồng thuận xã hội và chấp hành với các đường
lối, chủ trương, chính sách của mình. Để làm được điều này, Đảng càng cần
phải khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính
trị. Điều này cũng chính là lí do khiến vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
ngày càng được Đảng nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã nêu rõ
“Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ (quyền làm chủ) trực tiếp vừa thực
hiện quyền dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân”. Nước ta thực hiện cơ chế nhân dân làm chủ

dưới hai hình thức, thơng qua hai tổ chức: cơ quan dân cử trực tiếp và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam – người đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
6

(truy cập ngày 17/6/2016).

15


nhân dân. Với lịch sử đoàn kết, tập hợp quần chúng nhân dân kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, qua thời gian, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gắn liền với
tính chất liên hiệp mọi tầng lớp, thành phần trong xã hội. Cùng với các tổ
chức thành viên là các đoàn thể chính trị - xã hội mấu chốt trong hệ thống
chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là người đại diện cho quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân. Mỗi tổ chức đồn thể chính trị - xã hội là người đại
diện cho thành phần tổ chức của mình, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lại là tổ
chức đứng đầu các đồn thể chính trị -xã hội, vậy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
chính là nơi quy tụ cuối cùng của mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội. Do
đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là chủ thể tốt nhất đảm nhiệm vai trò
người đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Như vậy, trong hệ thống chính trị, mỗi thiết chế đều có một vị trí, vai trị
riêng của mình. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cầu nối giữa nhân
dân với chính quyền địa phương, là nơi quy tụ cuối cùng của các đồn thể
chính trị - xã hội hợp pháp và là người đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân.
1.1.3. Tính chất của hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam:
Khoản 3 Điều 2 Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam quy định tính chất của hoạt động phản biện xã hội gồm tính
nhân dân, tính dân chủ xã hội chủ nghĩa, tính xây dựng, tính khoa học và thực

tiễn.
- Tính nhân dân (tính xã hội):
Tính xã hội có thể xem là tính chất đặc trưng nhất của hoạt động phản
biện xã hội. Nó bộc lộ rõ ngay trong cụm từ “phản biện xã hội”. Cụm từ “xã
hội” làm cho hoạt động phản biện lúc này trở nên khác hẳn với ý nghĩa của
hoạt động phản biện ban đầu và giúp người đọc có thể nhận thức, phân biệt
với các dạng phản biện khác. TS. Vũ Văn Nhiêm cho rằng “phản biện xã hội
là một loại phản biện nhằm phân biệt với phản biện nhà nước, đó là phản biện
mang tính xã hội, …, phân biệt với các hoạt động phản biện của Nhà nước –

16


một hoạt động nội tại của Nhà nước nhằm đảm bảo tính chính xác, phù hợp
khi Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách”7.
Các cá nhân có quyền trực tiếp phản ánh ý kiến của mình đối với Đảng,
Nhà nước. Nhưng sức mạnh của ý kiến cá nhân có hạn nên việc phản
ánh theo hình thức này thường kém hiệu quả. Mỗi cá nhân mới chỉ nhận
thức vấn đề theo một chiều cạnh nào đó chứ chưa mang tính tồn diện.
Vì vậy muốn phản biện xã hội có hiệu quả và chất lượng thì Mặt trận và
các đồn thể cần tập hợp ý kiến của các tổ chức thành viên, chọn lọc để
phản ánh cho các cấp uỷ đảng và chính quyền.8
Hoạt động phản biện xã hội là phản biện chung, phản biện của nhân dân,
của tập thể một đất nước. Khách thể của phản biện xã hội là chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, gọi bằng một cái
tên chung là “luật lệ”. Trong mỗi nhà nước, vai trò cơ bản nhất của cơ quan
quyền lực là quản lý đất nước thông qua việc tạo ra luật lệ để điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong xã hội. Nói cách khác, mọi luật lệ do cơ quan nhà
nước tạo ra đều ảnh hưởng, tác động tới người dân. Phản biện là hoạt động
nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo luật lệ của cơ

quan nhà nước. Và người phản biện phải là chủ thể chịu sự tác động của luật
lệ đó. Sở dĩ như vậy là do trong q trình soạn thảo luật, ý chí của người làm
luật đã hoàn toàn được đưa vào dự thảo; dự thảo hình thành chính là kết quả
của nhận thức, chính kiến, trình độ cá nhân, tập thể người làm luật. Phản hồi,
nhận xét, đánh giá, góp ý là từ “xã hội”. Phản biện chính là cách thức để “xã
hội” nói lên cảm nhận, chính kiến của mình về luật lệ đó. Vậy xã hội là những
ai? Xã hội là các thiết chế, cá nhân trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Tuy
nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa phải được hình thành từ mọi cá nhân, mọi
thiết chế, tất cả thành phần xã hội mới coi là phản biện xã hội. “Mọi” ở đây là
đông đủ, là mỗi thành phần của “xã hội” đều được tổ chức phản biện về các
dự thảo chính sách đó và thu được ý kiến phản hồi, chứ không phải bắt buộc
phải lấy được ý kiến phản biện của tất cả các cá nhân trong đó. Như đã giới
thiệu, phản biện xã hội là một khái niệm, hoạt động mới được nhấn mạnh và
7

Vũ Văn Nhiêm (2007), “Một số vấn đề về phản biện xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (11), tr.12-17.
/>_cua_MTTQ.doc (truy cập ngày 14/5/2016).
8

17


đi vào triển khai những năm gần đây, do đó, hoạt động này phải được thực
hiện từng bước, phải từ từ đủ để hình thành trong ý thức người dân, nền tảng
trong nhân dân vững chắc rồi mới triệt để hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Vì phản biện xã hội là hoạt động của quần chúng nên có thể chia hoạt động
phản biện xã hội thành nhiều dạng. Trong đó có thể kể đến phản biện của các
nhà khoa học, nhà tri thức; phản biện của quần chúng nhân dân;… Tùy vào
đặc trưng của chủ thể, tính chất, yêu cầu của một dự thảo mà có thể tổ chức
phản biện xã hội theo những nhóm chủ thể khác nhau, nhưng suy cho cùng đó

chỉ là cách thức tổ chức phản biện xã hội để đạt hiệu quả cao, là những cách
thức thực hiện khác nhau của phản biện xã hội chứ không phải là các loại
phản biện khác nhau.
Cũng chính vì tính chất này, phản biện xã hội được Đảng và Nhà nước
giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức thực hiện. Với truyền thống tập
hợp sức mạnh, đoàn kết nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức gắn
bó mật thiết với dân, từ sự đông đảo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam có thể thấy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là một khối đại
đồn kết các thành phần, tổ chức, cá nhân trong xã hội.
- Tính dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Trong bài viết Tính tất yếu của phản biện xã hội trong nhà nước dân
chủ, tác giả Nguyễn Quang Hiền có nói: “Để có một xã hội dân chủ và có chất
lượng thì phải có phản biện xã hội. Phản biện xã hội là một địi hỏi khách
quan của cuộc sống, nó góp phần điều chỉnh các khuynh hướng kinh tế, văn
hóa, chính trị làm cho các khuynh hướng đó trở nên khoa học, đúng đắn và
gần gũi với đời sống con người hơn”.
Đại hội XI của Đảng (1/2011) khẳng định dân chủ là bản chất của chế
độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
và do nhân dân làm chủ là hai trong tám đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng. Việc Đại hội XI của Đảng xác định dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta bắt nguồn từ chỗ: Ở nước ta, tất cả quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
18


sách, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện lợi ích của nhân dân. Đảng và Nhà
nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân. Bằng phản biện xã hội, nhân dân có thể phát huy quyền làm chủ

của mình. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của nhà nước làm
ra đều hướng đến điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa người và người trong
xã hội. Qua Hiến pháp và các kì Đại hội của Đảng, Nhà nước ta được nhấn
mạnh là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân”.
Dân làm chủ đất nước, mọi chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà
nước, bằng những cách khác nhau, phải được thông qua bởi ý kiến của người
dân. Việc lập chính sách do một tập thể đại diện nhân dân thực hiện thì phản
biện xã hội chính là cơng cụ tuyệt vời để nhân dân rà soát hiệu quả của sự đại
diện đó. Từ khi Đảng và Nhà nước quy định tổ chức phản biện xã hội là nghĩa
vụ pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bằng phản biện xã hội, người dân
có thể thể hiện ý chí của mình ngay khi chính sách, pháp luật đang cịn là dự
thảo, cùng với quá trình tiếp thu, xem xét của cơ quan làm ra dự thảo sẽ tạo
thành một bước khơng thể thiếu trong q trình làm nên mọi chính sách,
đường lối hay pháp luật. Từ đó, phản biện xã hội là một trong những hình
thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
- Tính xây dựng (khơng triệt tiêu hồn tồn):
Khoản 2 Điều 2 Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam quy định “Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung
còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của
các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần
bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả
trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.”.
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không theo hướng đối
trọng, triệt tiêu hay loại bỏ hoàn toàn một dự thảo văn bản của cơ quan nhà
nước. Ở các nước có chế độ chính trị đa đảng, phản biện xã hội có thể ở mức
đối lập quan điểm, đưa ra ý kiến phản bác nhằm hướng đến triệt tiêu, loại bỏ
chính sách, chủ trương của đảng khác. Vì tồn tại nhiều đảng cầm quyền nên
19



cũng tồn tại nhiều chính sách, đường lối do nhiều đảng đề ra. Việc phản biện
xã hội ở các nước này sẽ có tác dụng chọn lọc, loại bỏ những chính sách,
đường lối khơng phù hợp để tiến đến duy trì chính sách của đảng mà dành
được nhiều sự đồng thuận xã hội nhất.
Với chế độ một Đảng cầm quyền như ở Việt Nam ta, hoạt động phản
biện xã hội chỉ dừng ở mức góp ý, xây dựng đường lối, chính sách, “phát hiện
những nội dung cịn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn
bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội dung
thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống
xã hội và tính hiệu quả” (Khoản 2 Điều 2 Quy chế giám sát và phản biện xã
hội). Lấy tính chất lãnh đạo tập trung làm trọng tâm, nước ta vận hành cơ chế
quản lý nhà nước quy về một mối, nổi bật nhất là sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi dự thảo chính sách, đường lối, chủ trương
mặc dù được khuyến khích tiếp thu ý kiến phản hồi từ nhân dân nhưng chỉ
dừng ở mức độ góp ý, xây dựng để trở nên phù hợp, có hiệu quả thực thi cao
nhất khi đi vào thực tế.
Chính trong điều kiện một Đảng cầm quyền này, bên cạnh những thuận
lợi cơ bản và tính ưu việt nổi trội, nếu khơng thực hiện tốt bản chất của một
Đảng cách mạng khoa học với mục đích vì dân thì cũng dễ xảy ra tình trạng
duy ý chí, chủ quan thậm chí sa vào quan liêu. Do vậy, việc cần có một cơ chế
cụ thể, rõ ràng, minh bạch để nhân dân bày tỏ thẳng thắn ý kiến, thực hiện
giám sát và phản biện xã hội là thực sự cần thiết đối với các dự thảo, dự án,
dự kiến những quyết định lớn của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị.9 Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta, tất cả các cơ quan
nhà nước hoạt động đều phải tuân thủ những chủ trương, đường lối, chính
sách mà Đảng đề ra. Vị trí của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc tơn, khơng có
cơ quan nào có chức năng kiềm chế, đối trọng hoàn toàn đối với Đảng. Do đó
mà hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với dự

thảo văn bản của Đảng chỉ như một công cụ thực hiện quyền dân chủ, tham
gia vào q trình làm chính sách như một bộ phận góp ý, bổ sung mà khơng
mang tính đối trọng, phản bác. “Phản biện là phải lập luận, đánh giá, phân
9

(truy cập ngày 20/05/2016).

20


tích chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước nhưng phải
đứng trên tinh thần xây dựng. Tuyệt nhiên phản biện khơng phải là nói ngược
lại, khơng phải phủ nhận sạch trơn, hay theo kiểu “vạch lá tìm sâu””10. Điều 4
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, như
là một bộ phận tổ chức của Đảng, là cơ quan giúp việc của Đảng trong q
trình làm chính sách, hỗ trợ, bổ sung, góp ý kiến để chính sách của Đảng khi
đi vào thực tế sẽ đạt hiệu quả nhất. Hệ thống chính trị nước ta hoạt động dưới
nguyên tắc nhất nguyên về tư tưởng, phản biện xã hội do đó dù có ý kiến trái
chiều thì cũng chỉ là góp ý, xây dựng dự thảo, là cơ sở cho cơ quan soạn thảo
xem xét lại, cẩn trọng hơn trước khi ban hành. Kết quả của phản biện xã hội
khiến một dự thảo, dự án khơng thể đi vào thực thi có chăng cũng là do nhận
thức và điều chỉnh của cơ quan soạn thảo trước những phản hồi đó chứ khơng
do sự phản biện trực tiếp gây ra.
- Tính khoa học và thực tiễn:
Phản biện là q trình phản hồi chính kiến của chủ thể song song với
việc đưa ra các dẫn chứng, lý lẽ để biện luận cho ý kiến của mình. Phản biện
để đạt hiệu quả cao, địi hỏi người thực hiện có trình độ nhận thức ở một mức
độ nhất định. Thứ nhất, để nắm bắt, hiểu rõ cách quy định của dự thảo; thứ

hai, để có thể nói lên chính kiến của mình bằng những lời lẽ có sức ảnh
hưởng, biết lập luận cho quan điểm của mình trở nên thuyết phục nhất. Đối
với chủ thể phản biện, kỹ năng trình bày và lập luận đóng vai trò quan trọng.
Trước hết là hiểu đúng dự thảo, nắm bắt được tình hình kinh tế, xã hội hiện
tại, dựa vào hai nền tảng đó mới hình thành những tư tưởng, chính kiến rõ
ràng và có giá trị về dự thảo đang xét. Sau đó mới xét đến khâu thể hiện ý chí
của bản thân, có kỹ năng để trình bày đúng ý, xây dựng và bảo vệ được chính
kiến của mình. Đối với chủ thể tổ chức thực hiện (Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam), việc tổ chức phản biện xã hội đến đông đảo các thành phần xã hội đòi
hỏi kế hoạch thực hiện, phân bổ nhiệm vụ phải khoa học, chặt chẽ, đảm bảo
bố trí và tập hợp ý kiến đầy đủ. Tính đến những tâm lý chung của người dân
10

(truy cập ngày 18/06/2016).

21


×