Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.88 KB, 3 trang )
Sức mạnh của thương hiệu
Vấn đề thương hiệu thật ra là trung tâm của chiến lược marketing. Ngày nay do sự tham gia của nhiều học giả
vào lĩnh vực này, marketing đã khoác vào bản thân của nó quá nhiều thuật ngữ chuyên môn khó hiểu, chẳng
hạn “khúc thị trường” (market segment), “phân khúc thị trường” (segmentation), “kẻ khống chế thị trường”
(market leader), “thị trường tí hon” (niche) …
Cả vấn đề thương hiệu cũng thế, nào là “siêu thương hiệu” (megabrand), “thương hiệu phụ” (sub-brand),
“đồng thương hiệu” (co-brand), “thương hiệu bảo trợ” (shadow endoser), “thương hiệu viên đạn bạc” (silver-
bullet brand), “thương hiệu động lực” (driver brand), “kiến trúc thương hiệu” (brand architecture), “phổ thương
hiệu” (brand spectrum), “quản trị danh mục thương hiệu” (brand portfolio management) … Tất cả những thuật
ngữ này xuất hiện trong các tác phẩm viết về chiến lược kinh doanh từ Philip Kotler, Peter Drucker cho đến
Jack Trout, Al Ries, Laura Ries, David A. Aaker, Duane E. Knap, Lynn B. Upshaw, cũng như các bản dịch
“khập khiễng”, chủ yếu dịch các tác phẩm viết về thương hiệu của David A. Aaker, đang tràn ngập bát nháo
trên thị trường sách vở hiện nay. Ngày nay kinh doanh đã trở thành đối tượng cho mọt ngành nghiên cứu hàn
lâm thật sự trong các trung tâm đào tạo quản trị kinh doanh trực thuộc các trường đại học lớn, cho nên việc
phát triển một hệ thống thuật ngữ chuyên biệt là một điều tất yếu.
Thuật ngữ gây rắc rối đầu tiên là “giá trị thương hiệu” (brand equity). Có người còn dịch thành “tài sản nhãn
hiệu”. Theo giáo sư David A. Aaker, giá trị thương hiệu gồm có bốn yếu tố cấu thành: sự trung thành của
khách hàng đối với thương hiệu (brand loyalty), việc khách hàng nhận ra thương hiệu một cách mau chóng
(brand awareness), chất lượng sản phẩm hay dịch vụ cung cấp trong nhận thức của khách hàng (percived
quality), những liên tưởng của khách hàng khi nghe hoặc nhìn thấy thương hiệu (brand associatión). Giá trị
thương hiệu như vậy không phải giá trị tiền mặt (thư giá = book value) của thương hiệu. Chẳng hạn giáo sư
Tôn Thất Nguyễn Thiêm (Viện đào tạo quản trị kinh doanh UBI, Bruxelles) chỉ ra rằng Tập đoàn thuốc lá Philip
Moris năm 1988 đã mua lại công ty Kraft với giá 12,6 tỷ USD, gấp sáu lần giá trị các tài sản có thực của công
ty này.
Những thương hiệu bá chủ như Coca Cola, Microsoft, GM, Sony, Toyota, Nokia … đương nhiên là có giá trị
thị trường rất cao, và một trong những chiến lược xây dựng thương hiệu mạnh để nâng cao giá trị thương
hiệu trên thị trường là “mở rộng thương hiệu” (brand extension). Cũng nên phân biệt thuật ngữ này với “mở
rộng chức năng của cùng một sản phẩm” (line-extension). Chẳng hạn để liên tục phát huy lợi thế cạnh tranh,
công ty Nokia cải tiến, bổ sung thêm nhiều chức năng cho các sản phẩm điện thoại di động của mình, đó là
“line-extension”, không phải “mở rộng thương hiệu”. “Mở rộng thương hiệu chính là tạo ra thêm những thương
hiệu mới hoặc thương hiệu phụ dựa trên cơ sở uy tín của thương hiệu đang sẵn có. Ví dụ hãng xe hơi Toyota