Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

ung xu ngon ngu cua nguoi Viet voi cac yeu to goc Han

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.72 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

1. Dẫn nhập


1.1 Q trình hình thành và phát triển tiếng
Việt, xét theo quan điểm giao lưu
(inter-change) và tương tác (interaction), là q trình
tiếp xúc ngơn ngữ (TXNN). Ở thời kỳ hình
thành đó là sự giao lưu và tương tác giữa các
thứ tiếng thị tộc, bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc
để hợp thành hạt nhân của tiếng Việt. Bắt đầu
thời kỳ phát triển, cùng với các bước lưỡng
phân1<sub>, là những giai đoạn tiếp xúc của tiếng</sub>


Việt với các ngôn ngữ ngoại lai - được hiểu
như các thứ tiếng ngồi gia đình ngơn ngữ Nam
Á (AA) và Nam Thái (AT) (P.Benedict, 1996).
Ở thời kỳ phát triển, sự tiếp xúc ngôn ngữ
Việt - Hán hay Việt - Trung (từ đây gọi chung
Việt - Hán) là dài lâu nhất và hình thái tiếp
xúc cũng có nhiều kiểu loại nhất. (Xem thêm
ở phần 2)


1.2 Trong bài viết này có mấy từ (ngữ) khoá
sau đây được sử dụng: tiếp xúc ngôn ngữ, ứng
xử ngôn ngữ, yếu tố gốc Hán. Thuộc số đó có
từ (ngữ) đã quen thuộc, nhưng khi xuất hiện
trong bài viết này một đôi trường hợp mang
một sắc thái hơi khác.


Tiếp xúc ngôn ngữ là “sự tiếp giao nhau
giữa các ngơn ngữ do những hồn cảnh cận



kề nhau về mặt địa lý, tương liên về mặt lịch
sử xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng
người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải
giao tiếp với nhau” (O.S. Akhmanova, 1966).
TXNN còn được hiểu là “sự tác động qua lại
giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ tạo nên ảnh
hưởng đối với cấu trúc và vốn từ của một hay
nhiều ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội của
sự TXNN được quy định bởi nhu cầu cần thiết
phải giao tiếp lẫn nhau giữa những thành viên
thuộc các nhóm dân tộc và ngơn ngữ do những
nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội
v.v.. thúc đẩy” (V.N.Jarceva, 1990). Với tình
hình TXNN ở Việt Nam, cũng như với một số
nước từng có sự xâm lược và chiếm đóng của
một thế lực ngoại quốc, ta cịn có thể thêm
vào đoạn dẫn trên: nhu cầu giao tiếp giữa cư
dân bản địa với những người thuộc bộ máy
cai trị và đội quân xâm lược hoặc chiếm đóng
ngoại quốc. Trong hình thái TXNN này, sự ứng
xử ngôn ngữ của cư dân bản địa là vấn đề hết
sức tế nhị. Trong nhiều trường hợp nó làm nổi
rõ bản sắc dân tộc của cả một nền văn hố.


Ứng xử ngơn ngữ (Language Treatment)
có nội dung khái niệm thuộc lĩnh vực xã hội
ngôn ngữ học. Cách diễn đạt này được xem


<i>*</i><sub> GS.TS, Trường ĐH HUFLIT.</sub>



1. Trong bài Thử phân kỳ lịch sử thế kỷ 12 của tiếng Việt; tác giả Nguyễn Tài Cẩn viết: “Tiếng Việt có một
lịch sử chỉ khoảng hơn 12 thế kỷ. Sự hình thành tiếng Việt là một kết quả của 2 bước lưỡng phân, một trước,
một sau. Bước lưỡng phân đầu là bước chia ngôn ngữ mẹ Proto – Việt – Chứt thành hai nhánh: nhánh Việt –
Mường ở phía bắc và nhánh Pọng – Chứt ở phía Nam...


Ảnh hưởng của tiếng Hán không những mạnh ở Bắc hơn Nam mà ở đồng bằng sơng Hồng cũng mạnh hơn
ở miền núi. Do đó lại nảy sinh một bước lưỡng phân thứ hai bắt đầu từ khoảng thế kỷ 18, tạo ra sự đối lập giữa
hai ngôn ngữ mới, một bên là Proto Việt, một bên là Proto Mường" (N.T.Cẩn, 1998, tr.7)


ỨNG XỬ NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI VIỆT


ĐỐI VỚI CÁC YẾU TỐ GỐC HÁN



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

là tương đương với Kế hoạch hoá ngôn ngữ


(Language Plan/ Planning). Ứng xử ngôn ngữ
là sản phẩm của những quyết định có ý thức
về sự lựa chọn mã (code) trong hoạt động giao
tiếp (John Gibbons, 1992 ). Ứng xử ngơn ngữ
mang tính xã hội được thể hiện trong chính
sách ngơn ngữ của nhà nước hoặc một tổ chức
xã hội. Chẳng hạn chính sách ngơn ngữ hiện
nay của nhà nước Cộng hồ Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam; chính sách ngôn ngữ của Đảng
Cộng sản Đông Dương được thể hiện trong


Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943. Ứng
xử ngơn ngữ cũng có thể là sự lựa chọn của
một người về ngơn ngữ mà mình dùng trong
hoạt động giao tiếp bằng ngôn từ. Sự ứng xử
ngôn ngữ của mỗi người được quy định bởi


nhiều nhân tố vừa khách quan vừa chủ quan,
trong đó nhân tố chủ quan có tính quyết định.
Ứng xử ngôn ngữ là một thành phần về ứng
xử văn hố. Do đó, truyền thống văn hố,
truyền thống ứng xử ngơn ngữ của cộng đồng,
của dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến thái
độ ứng xử ngôn ngữ của các thành viên trong
cộng đồng.


Yếu tố gốc Hán không chỉ là những từ bắt
nguồn từ tiếng Hán xưa nay được gọi là từ
Hán - Việt. Trong bài này yếu tố gốc Hán được
hiểu là tất cả những đặc điểm hoặc thành tố
ngôn ngữ nào mà qua sự tiếp xúc ngơn ngữ
Việt - Hán tiếng Hán có thể có ảnh hưởng
đến tiếng Việt ở mặt này hay mặt khác. Chẳng
hạn các đặc điểm về ngữ âm, đặc điểm về
cấu trúc ngữ pháp, các thành tố từ vựng ngữ
nghĩa. Tuy trong bài viết này các thành tố từ
vựng ngữ nghĩa là ngữ liệu được đề cập đến
nhiều hơn, nhưng các phương diện khác của
tiếng Hán cũng sẽ được nhắc đến khi cần.


1.3 Trong nhiều trường hợp bài viết sử dụng
các dẫn liệu ngơn ngữ rút từ những cơng trình
đã cơng bố và được thừa nhận rộng rãi của
các tác giả khác cùng với những ngữ liệu mà
người viết bài này dùng trong các lập luận


của mình. Đề cập đến một vấn đề thuộc lĩnh


vực xã hội - ngôn ngữ học, khi cần thiết chúng
tôi cũng đụng chạm đến những dẫn liệu thuộc
các lĩnh vực ngồi ngơn ngữ để làm rõ thêm
cho những lập luận liên quan với hiện tượng
nội tại ngôn ngữ.


2. Tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán


2.1 Các giai đoạn tiếp xúc và đặc điểm:
Trong khoa học nói đến thời kỳ hoặc giai đoạn
tức là bàn về sự phân kỳ có tính lịch đại
(dia-chronic division of events into periods) về diễn
tiến hay quá trình phát triển của một hiện
tượng, một sự kiện nào đó. Mỗi sự phân kỳ
nhằm vào một/ vài mục đích nhất định và có
tiêu chí định hướng cho sự phân kỳ. Sự phân
kỳ hiện tượng TXNN dựa vào các hình thái
tiếp xúc, điều kiện xã hội - lịch sử và hệ quả
mà sự TXNN dẫn tới về mặt cấu trúc cũng
như về chức năng xã hội của ngôn ngữ.


2.2 Theo các định hướng trên đây ta có
thể hình dung sự phân chia q trình tiếp xúc
Việt - Hán thành sáu giai đoạn (hoặc thời kỳ):


.

Giai đoạn hình thành nhà nước Văn Lang
chuyển sang Âu Lạc.


.

Giai đoạn Triệu Đà sáp nhập lãnh thổ
Âu Lạc vào Nam Việt.


.

Giai đoạn Nam Việt bị Đế quốc Hán
khuất phục và lãnh thổ cũng như cư dân Âu –
Lạc (từ đây gọi một cách quy ước là Việt
Nam)2<sub> trong cương vực Nam Việt cũng bị đế</sub>


quốc Hán thôn tính. Trong chính sử Việt Nam
giai đoạn này được gọi là Thời kỳ Bắc thuộc.


.

Giai đoạn nền độc lập (trong lịch sử có
khi gọi là nền tự chủ) Việt Nam được khôi
phục và xây dựng nhà nước Việt Nam theo
chế độ vương quyền.


.

Giai đoạn Việt Nam bị thực dân Pháp
xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa Pháp
trên đất Việt Nam


.

Giai đoạn Việt Nam giành quyền độc
lập từ tay thực dân Pháp cho đến nay.


2.2.1 Có thể xem giai đoạn hình thành nhà


2. Trong lịch sử, tuỳ từng thời kỳ lịch sử tên gọi chỉ nước Việt Nam hiện nay có sự thay đổi Giao Châu, Giao
Chỉ, Đại Cồ Việt, Đại Việt.... Tên gọi Việt Nam về sau mới xuất hiện. Tuy nhiên, để tiện cho việc trình bày,
trong bài này chúng ta có thể lấy tên gọi Việt Nam mà hiện nay đang dùng để đại diện chung cho tất cả các
tên gọi có trước, nếu khơng có nhu cầu phân biệt chính xác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nước Văn Lang (VL) và từ VL chuyển sang
nhà nước Âu - Lạc (ÂL) là khởi điểm quá


trình TXNN trên miền đất Việt thời kỳ mở
cõi, dựng nước này. Đây là thời kỳ của các
huyền thoại và giả thiết, giống như ở bất kỳ
dân tộc và đất nước nào trên thế giới. Vì vậy
nơi đây tồn tại nhiều truyền thuyết, huyền
thoại và trên cơ sở đó mà các nhà nghiên cứu
đã có những giả thiết khác nhau về dân tộc
Việt Nam hiện nay và về quá trình hình thành
vùng khai nguyên của Việt Nam hiện đại.


Tiếp cận từ lý thuyết TXNN ta có thể hình
dung trước hết đó là q trình tiếp xúc giữa


các ngơn ngữ bản địa mà kết quả là sự hình
thành của tiếng Việt thời cổ 4<sub>. Tiếp theo đó là</sub>


sự tiếp xúc với các thứ tiếng đến từ ngoài vùng
đất khai nguyên.


Về mặt này giả thiết mà K.W.Taylor đưa
ra, theo tôi, là đáng chú ý hơn cả. Trong sách


Sự ra đời của Việt Nam, ngay trang đầu chương
I, tác giả đã dựa vào truyền thuyết Âu Cơ
-Lạc Long Quân trong Lĩnh Nam Chích Quái


(LNCQ) và Đại Việt sử ký tồn thư (TT), để
giải thích cuộc hôn phối giữa hai nhân vật
huyền thoại này. K.W. Taylor hình dung rằng
Lạc Long Qn là một người dịng dõi đế



I. Dựa vào sự hình thành tiếng Hán - Việt, cuốn An Nam dịch ngữ và cuốn từ điển Alexandre de Rhôde
(1651), H.Maspéro chia thành:


A) Proto Việt trước thế kỷ 10


B) Việt tiền cổ: thế kỷ 10 (hình thành tiếng Hán - Việt)
C) Việt cổ: thế kỷ 15 (An Nam dịch ngữ)


D) Việt trung đại: thế kỷ 17 (từ điển A.de Rhơde 1651)
E) Việt hiện đại: thế kỷ 19


(Dẫn lại theo Nguyễn Tài Cẩn, 1998, tr.8)


II. Dựa vào thế tương tác giữa các ngơn ngữ, văn tự có sự tiếp xúc với nhau trong mỗi giai đoạn N.T.Cẩn
(1998) có bảng phân kỳ


III. John DeFrancis trong Colonialism and Language Policy, 1977 dựa vào sự thể hiện chính sách ngơn ngữ
từ 111 TCN trở đi chia sự phát triển tiếng Việt thành 4 giai đoạn với các đặc điểm về trạng huống ngôn ngữ và
văn tự khác


IV. Keith W.Taylor (1983) trong sách The Birth of Vietnam, tuy không trực tiếp đề cập đến sự phân kỳ về
quan hệ tiếp xúc Hán - Việt nhưng những cứ liệu của tác giả này về thời kỳ hình thành Việt Nam trước khi bị
đế quốc Hán xâm chiếm và đặt ách thống trị cũng có nhiều cứ liệu và ý tưởng soi sáng cho sự tiếp xúc ngơn
ngữ Việt - Hán.


A) Giai đoạn Có 2 ngôn ngữ: tiếng Hán (khẩu ngữ Vào khoảng các
Proto Việt của lãnh đạo) và tiếng Việt; 1 văn tự: thế kỷ 8, 9.


chữ Hán



B) Giai đoạn Có 2 ngơn ngữ: tiếng Việt (khẩu ngữ Vào khoảng các
tiếng Việt của lãnh đạo) và văn ngôn Hán; 1 thế kỷ 10,11,12
tiền cổ văn tự: chữ Hán


C) Giai đoạn Có 2 ngơn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Vào khoảng các
tiếng Việt cổ Hán; 2 văn tự: chữ Hán và chữ Nôm thế kỷ 13, 14, 15, 16
D) Giai đoạn Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Vào khoảng các


tiếng Việt Hán; 3 văn tự: chữ Hán và chữ Nôm và thế kỷ 17, 18 và


trung đại chữ Quốc ngữ nửa đầu thế kỷ 19


E) Giai đoạn Có 2 ngơn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Việt Vào thời gian
tiếng Việt và văn ngôn Hán; 4 văn tự: Pháp, Hán, Pháp thuộc
cận đại Nơm, Quốc ngữ


G) Giai đoạn Có 1 ngơn ngữ: tiếng Việt; 1 văn tự: Từ 1945 trở đi
tiếng Việt chữ Quốc ngữ


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

vương vốn ở phương bắc, Trung Hoa (A
Mon-arch from the North, China...) từ biển xâm
nhập vào lục địa và khi nhận thấy nơi đây
không có vua bèn xưng vương để cai quản.
Nhưng cư dân địa phương không chấp nhận
và nhân vật ngoại bang này buộc phải ra đi 5<sub>.</sub>


Qua mối liên kết tượng trưng đó ta có thể hiểu:
đây là sự tiếp xúc Việt - Hán đầu tiên trong
lịch sử. Có điều là giai đoạn tiếp xúc này ắt


là không lâu bền và chưa tạo nên tác dụng gì
sâu sắc về mặt ngơn ngữ, nếu có.


Cách hình dung như K.W.Taylor, theo tơi,
rõ ràng là có sức hấp dẫn, và cách hiểu dựa
vào sự hình dung ấy là hợp lơ gích. Tuy nhiên,
tất cả những điều đó đều thuộc phạm trù
huyền thoại và giả thuyết, gắn với giai đoạn
dã sử, phải chờ đợi những cứ liệu hiện thực
chứng minh. Dẫn sao giả thuyết này cũng gợi
cho ta một hướng suy nghĩ lý thú.


2.2.2 Trong lịch sử Việt Nam giai đoạn
Triệu Đà chinh phục và sáp nhập Âu Lạc vào
phạm vi quốc gia Nam Việt rồi chia đất đai
Âu Lạc ra làm hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân
được xác định là từ 179 đến 111 TCN. Vốn là
con nhà tướng gốc Hán, cuối đời nhà Tần,
Triệu Đà lên thay Nhâm Ngao cầm quyền,
rồi khi nhà Tần bị diệt, tự xưng làm Nam Việt
Vương. Việc Triệu Đà có thể tập hợp để làm
chỗ dựa cho quyền lực của mình những người
Hán từ phía bắc di cư vào cương thổ này
(K.W.Taylor, tr.23-24; Phan Huy Lê, 1983,
tr.234) chứng tỏ số lượng cư dân gốc Hán ở
đây đã có một số lượng đáng kể. Và với tư


cách những thành phần cư dân trong cùng
phạm vi quốc gia Nam Việt, dĩ nhiên người
dân Âu Lạc có quan hệ giao tiếp với tồn bộ


cư dân của quốc gia này, trong đó gồm cả bộ
phận người Hán. Sự giao tiếp này hẳn là có
giới hạn. Lịch sử Việt Nam ghi nhận. Sứ giả
nhà Triệu tiến hành lập sổ cư dân Giao Chỉ,
Cửu Chân... "Giúp việc sứ giả, có thể có một
số quan chức, cả Hán lẫn Việt” (sđd tr.234).
Từ sự kiện đó có thể suy ra, đây là lần đầu
tiên sử sách ghi lại có sự TXNN Việt - Hán.
Đặc điểm của sự TXNN Việt – Hán trong giai
đoạn này là nó được gộp trong bối cảnh tiếp
xúc chung với các ngôn ngữ trong “quốc gia
ly khai” Nam Việt, ở đó bao gồm các ngôn
ngữ của các dân tộc thuộc Bách Việt. Tiếng
Hán lúc này một mặt là ngôn ngữ của giới
cầm quyền và mặt khác là tiếng nói của một
nhóm dân di cư từ phương bắc tới. Sự cai trị
của nhà Triệu chưa kịp đụng chạm nhiều đến
cơ cấu xã hội Âu Lạc trước đó. Do vậy ảnh
hưởng ngơn ngữ qua sự tiếp xúc có tính đa
hướng hơn là song phương Việt – Hán và chưa
sâu sắc mấy.


2.2.3 Giai đoạn từ khi Nam Việt bị đế quốc
Hán khuất phục trở đi trong sự phân kỳ của
các tác giả khác nhau có cách gọi không giống
nhau đối với phần lãnh thổ và cư dân trước
đây thuộc Âu - Lạc. Với mục đích nghiên cứu
của mình, tơi tán thành cũng như dùng theo
cách phân kỳ của John DeFrancis và gọi chung
là giai đoạn Bắc thuộc.



Đặc điểm của giai đoạn TXNN Việt – Hán


4. Cách dùng “tiếng Việt thời cổ” ở đây được hiểu như tiếng nói của “người Việt Cổ” (L.sử I) về hạt nhân
đầu tiên của tiếng Việt hiện đại mà ngành ngơn ngữ học lịch sử Việt Nam chưa có những cơng trình nghiên
cứu vượt khỏi các giả thuyết.


5. Theo Taylor, qua huyền thoại Âu Cơ – Lạc Long Quân ta có thể biết về quan niệm trong dân gian xưa về
quan niệm huyết thống giữa các vua Hùng và Lạc Long Quân (LLQ). LLQ từ phía biển thâm nhập vào đồng
bằng sông Hồng. Đến đây LLQ chế phục “các yêu quái” trong miền rồi khai hoá họ, dạy họ trồng trọt, bắt đầu
biết ăn mặc. Sau đó trở về biển cả và dặn lại rằng khi nào gặp nguy khó thì hãy lên tiếng và LLQ sẽ trở lại…
Rất có thể Lạc Long Qn là hồng tử xứ biển cả và Âu Cơ là một Mỵ Nương của vùng núi đồi. Khi Lạc
Long Quân ra đi, Mỵ Nương ở lại và sinh hạ các vua Hùng. Người Việt Nam đời nối đời xem Lạc Long Quân và
Âu Cơ là tổ tiên của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

này về mặt văn tự và tiếng nói đã được John
DeFrancis và Nguyễn Tài Cẩn chỉ rõ (Mặc dù
Nguyễn Tài Cẩn chỉ giới hạn “vào khoảng các
thế kỷ 8,9”, TLTK đã dẫn, tr.8. H Maspéro chỉ
ghi chung là trước thế kỷ 10). Một đặc điểm
khác về chính trị – xã hội nên được lưu ý là
giai đoạn này không phải diễn ra xuyên suốt,
mà bị cách quãng bởi hai cuộc khởi nghĩa, đánh
đuổi quân xâm lược giành lại quyền độc lập.


1. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Hai
Bà Trưng lên ngôi các năm 40-43 Cơng
ngun.


2. Cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập


nhà nước Vạn Xuân (542-602)


Giai đoạn này chính sách Hán hoá của
phương bắc ngày càng được đẩy mạnh và được
các quan thái thú thực hiện chính sách đó triệt
để tại miền đất họ chiếm đóng. Số lượng người
Hán ở đây khơng chỉ có các quan chức trong
bộ máy cai trị, đội qn chiếm đóng, mà cả
gia đình con em của họ. Ngồi ra cịn có lớp
người Hán theo chính sách di dân cũng lần
lượt kéo đến định cư nơi đây. Họ bao gồm
những người lao động thường, người có tay
nghề thuộc các nghề nghiệp khác nhau. Dù
hình thái cư trú trên miền đất cùng chung sống
này là thế nào (biệt lập của người Hán, kề
cận với các đơn vị hành chánh cư dân Việt,
hay có mức độ sống xen kẽ nhất định) thì cũng
đều phải có sự giao tiếp Hán – Việt. Chính do
đó mà sự TXNN Hán – Việt trở nên ngày càng
sâu sắc hơn. Hệ quả của sự TXNN này là trong
sinh hoạt ngôn ngữ và trong đời sống xã hội
hình thành tình thế các cộng đồng Hán di cư
đến kết giao với các cộng đồng cư dân bản
địa, tạo nên hình thái song ngữ song văn hố
Việt - Hán


4.2.4 Các giai đoạn tiếp theo của quá trình
tiếp xúc Việt - Hán, tuy cách gọi của John
DeFrancis có ít nhiều khơng giống với những
sự phân kỳ của H.Maspéro, Nguyễn Tài Cẩn,


D.J.Whitfield, nhưng ở ông các nhận xét về
trạng huống ngơn ngữ và văn tự hầu như khơng
có gì khác. Trạng huống đó vào thời kỳ Bắc
thuộc (111 TCN đến 939 CN) là trong xã hội
Việt Nam có hai ngôn ngữ Việt và Hán, và
một văn tự là chữ Hán hoạt động trên mọi
lĩnh vực giao tiếp. Kế đến là:


1/ Giai đoạn độc lập, xây dựng chế độ


vương quyền (939-1651)
Hai ngôn ngữ: Việt và Hán


Hai hệ thống văn tự: chữ Hán và chữ Nôm
Chữ Hán được tiếp tục sử dụng với hình
thức Hán – Việt. Xây dựng chữ Nơm theo loại
hình chữ ghi ý (ideographic).


2/ Giai đoạn độc lập dưới chế độ vương
quyền và có một bộ phận cư dân theo công
giáo (1651-1861)


Hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Hán
Ba hệ thống văn tự: chữ Hán – Việt, chữ
Nơm và chữ La tinh hố, tức là dùng hệ chữ
viết La tinh ghi tiếng Việt.


3/ Giai đoạn trở thành thuộc địa Pháp
(1861-1945)



Ba ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng
Pháp


Bốn hệ thống văn tự: chữ Hán – Việt, chữ
Nôm, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.


4/ Giai đoạn độc lập dân tộc, từ 1945 đến
nay


Một ngôn ngữ: tiếng Việt
Một văn tự: chữ Quốc ngữ.


(John DeFrancis, xem phần Mục lục)


Điều đáng nhấn mạnh là, tuy mức độ có
khác nhau, nhưng sự TXNN Việt – Hán vẫn
tiếp tục ở tất cả các giai đoạn đã nêu. Trên cơ
sở đó mà chúng ta có thể thảo luận về thái độ
ứng xử ngơn ngữ của các thế hệ người Việt
Nam qua các giai đoạn lịch sử TXNN


III. Thái độ ứng xử ngôn ngữ của người
Việt


1.1 Không giống như một số quốc gia hoặc
dân tộc khác, thái độ ứng xử ngôn ngữ của các
thế hệ người Việt khơng bị ảnh hưởng của chính
sách do bộ máy cai trị của thế lực chiếm đóng
ngoại bang hoặc tâm lý dân tộc cực đoan.
Ngược lại, theo ý chúng tơi, thái độ ứng xử đó


được chi phối bởi tiềm thức về nhu cầu giao
tiếp xã hội. Tiềm thức này ngày càng tăng do
thực tiễn giao tiếp xã hội cho thấy giá trị đích
thực của các yếu tố gốc Hán, nói chung là tiếng
Hán, chứ khơng phải do sự áp đặt, ép buộc từ
một chính sách của lực lượng chiếm đóng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

xét đại ý: Khơng phải tất cả người Hán di cư
đến miền đất Âu Lạc trước đây đều thuộc tầng
lớp quan quyền. Nhiều di dân là lính tráng (ở
lại sau khi mãn hạn lính), những người lao
động bình thường, những người thợ có tay
nghề. Tầng lớp di dân ở vị trí xã hội thấp này
có xu hướng kết nhập với giới xã hội người
Hán còn ở lại làm ăn sinh sống sau cuộc hành
quân Mã Viện. Nhiều người Hán di cư có xu
hướng kết hợp giá trị Hán chính thống của họ
với các đặc điểm xã hội tại chỗ. Điều này
được thể hiện trên thực tế bằng các cuộc hôn
nhân hỗn hợp và các hoạt động của người Hán
di cư với tư cách đại diện cho cộng đồng từng
khu vực trong các cuộc khởi nghĩa địa phương
nổ ra vào thế kỷ thứ hai.


Hồn tồn có lý khi cho rằng người Hán di
cư dần dần trở thành các thành viên thuộc xã
hội tại chỗ. Họ gầy dựng cuộc sống của riêng
mình theo mơ thức văn hố Hán. Họ mang
đến Việt Nam vốn từ ngữ và kỹ thuật Hán,
nhưng họ phát triển tất cả theo quan điểm


riêng, dựa rất nhiều vào di sản thuộc miền
đất họ đến sinh sống. Tiếng Việt tiếp tục tồn
tại, và lẽ đương nhiên là sau một vài thế hệ,
con cháu người Hán di cư nói tiếng Việt, dùng
tiếng Việt trong giao tiếp. Xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ, có thể nói, hầu như tách biệt hoàn
toàn với văn minh Hán, và xã hội Hán – Việt
tồn tại như một chi thể của thế giới văn hoá
tự trị. Người Hán di cư trải qua quá trình “Việt
Nam hố” một cách có hiệu quả hơn (more
effectively) là người Việt Nam bị Hán hoá
(John DeFrancis, p.53)


Về phần mình, ngồi sự giao tiếp và quy
hợp ở các tầng lớp dưới của xã hội, một số
nhân vật ở tầng lớp trên do yêu cầu của hoàn
cảnh hoặc chức trách, cũng có thể do chủ
động, tiếp xúc ngày càng sâu bền hơn với ngơn
ngữ, văn tự và nói chung là văn hố Hán. Đó
là khi các Thái thú Hán, bắt đầu từ Sĩ Nhiếp,
cho mở trường dạy học. Đầu tiên người học ở
các trường này chủ yếu là con em quan chức
Hán, kế đó trường cũng dần dần thu nhận thêm
viên chức Việt; và cuối cùng con em các gia
đình Việt khá giả cũng được đến học. Từ cơ


hội ấy mà dần dần hình thành tầng lớp trí thức
Việt xuất thân từ Hán học, trong số này đã có
những nhân tài xuất hiện. Và “Như thế nhân
tài nước Việt cũng được tuyển dụng như người


Hán, mở đầu là Lý Cầm, Lý Tiến” (Dẫn theo
bản dịch tiếng Việt: Đại Việt sử ký toàn thư,
Hà Nội, 1983, tr.182)6<sub>.</sub>


3.3 Sau thời Bắc thuộc, sang giai đoạn tự
chủ xây dựng chế độ vương quyền của mình,
các triều đại phong kiến Việt Nam dùng tiếng
Hán – Việt, chữ Hán như ngôn ngữ và văn tự
văn hoá đương nhiên của Việt Nam. Dấu chỉ
của thực tế đó là những văn kiện chính thức
hoặc huyền thoại, cắm mốc cho các sự kiện
lịch sử, đều bằng tiếng Hán – Việt và ghi lại
bằng chữ Hán: Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ,
bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang vọng trên
bờ sông Như Nguyệt, Hịch tướng sĩ của Trần
Hưng Đạo, và Bình Ngơ đại cáo và Qn trung
từ mệnh tập dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi
thời Lê. Trong lĩnh vực phục hưng nền văn
hoá dân tộc tiếng Hán – Việt và chữ Hán là
công cụ để ông cha ta thời Lý – Trần xây dựng
cả một gia tài văn học chữ Hán đồ sộ.


Nền giáo dục cổ điển Việt Nam bắt đầu từ
triều Lý (1076) cũng được xây dựng theo mơ
hình Nho học, ngơn ngữ dùng trong giáo dục
cũng là tiếng Hán – Việt và chữ Hán. Các học
quan, thày dạy đều xuất thân từ Hán học. Nền
giáo dục này góp phần chủ yếu đào tạo nên
các thế hệ trí thức hoạt động trên mọi lĩnh
vực của đời sống một quốc gia độc lập thời


phong kiến Việt Nam tồn tại mãi đến triều
Nguyễn.


Nếu khảo sát hệ thống từ ngữ dùng trong
quá trình xây dựng chế độ phong kiến Việt
Nam – từ tên gọi các cơ chế tổ chức, hệ thống
quan chức, hệ thống luật pháp v.v. – ta có thể
thấy số từ ngữ Hán – Việt chiếm phần lớn.
Đó cũng là tình hình trong lĩnh vực khoa học
quân sự, lĩnh vực kinh tế và nhiều ngành khoa
học xã hội khác. Nói tóm lại trong giai đoạn
này tiếng Hán và chữ Hán là ngôn ngữ và
văn tự của nền hành chánh và của giới trí thức
Việt Nam giống như tiếng Hy lạp và La tinh
đối với xã hội Châu Âu thời kỳ tiền hiện đại.
6. Lý Cầm là người Giao Châu, đậu tiến sĩ, làm quan đến Tư lệ hiệu úy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trong q trình đó người Việt Nam vừa sử
dụng vừa chọn lọc từ vốn từ ngữ vay mượn ấy
để làm phong phú cho ngôn ngữ và văn hố
của mình.


3.4 Một trong những biểu hiện thành cơng
của q trình tiếp biến văn hố và TXNN Việt
– Hán là sự xây dựng chữ Nôm Việt Nam
(khoảng thế kỷ 13). Từ thành cơng đó một
nền văn học Hán – Nôm ra đời tiếp tục giai
đoạn văn học cổ điển sáng tác chỉ bằng tiếng
Hán – Việt và chữ Hán. Các nhà văn hoá Việt
Nam xuất thân từ Hán học là tác gia lớn, vừa


có tác phẩm bằng tiếng Hán – Việt, chữ Hán,
vừa sáng tạo những kiệt tác bằng tiếng Việt
và chữ Nôm như Nguyễn Trãi, Nguyễn Hữu
Hào, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Họ
cùng với đơng đảo tác giả khuyết danh của
các truyện thơ Nôm làm phong phú cho kho
tàng văn chương chữ Nơm, góp phần chung
vào dịng văn học Hán – Nôm xuất hiện từ
thế kỷ 15 trở đi. Hiện tượng văn hoá ấy là
một bước phát triển mới của thái độ ứng xử
ngôn ngữ đúng đắn ở người Việt Nam.


3.4 Có chữ Nơm, rồi chữ Quốc ngữ được
chế tác và được điển chế hoá dần bằng các từ
điển, sách ngữ pháp7<sub>, số người biết chữ Quốc</sub>


ngữ ngày càng tăng, đầu tiên là trong giáo
dân, trong nhà thờ công giáo. Tiếp đến là các
viên chức trong bộ máy của chính quyền thuộc
địa. Từ đầu thế kỷ 20 chính quyền thuộc địa
có quyết định bãi bỏ nền giáo dục cựu học.
Hệ thống giáo dục tân học, tức theo mơ hình
hiện đại Tây phương được thiết lập từng bước
trên tồn cõi Việt Nam. Giới trí thức tân học
Việt Nam lần lượt tăng lên về số lượng và
chất lượng và dần dần chiếm ưu thế trong xã
hội. Không phải ngẫu nhiên mà đã có lời than:


Nào có ra gì cái chữ Nho
Ơng nghè ơng cống cũng nằm co...


Nhưng nhìn vào tầng sâu của văn hố xã
hội Việt Nam thì khơng phải như vậy. Những
trí thức cựu học như Nguyễn Lộ Trạch, Trần
Quý Cáp, Lương Văn Can, Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...
vẫn là những đại thụ về mặt tinh thần trong


7. Cuốn Từ điển Việt - Bồ La, có phần giới thiệu về cơ cấu tiếng Việt ở đầu sách do A.de Rhode biên soạn
và ấn hành năm 1651 là cơng trình đầu tiên. Từ đó dần dần loại sách này ngày càng xuất hiện nhiều hơn để
cung ứng cho nhu cầu học chữ Quốc ngữ, học tiếng Việt.


xã hội. Chữ Hán, tiếng Hán vẫn tiếp tục được
các vị ấy sử dụng để trước tác nhằm giáo dục
tinh thần yêu nước của đồng bào (Hải ngoại
huyết thư), bàn thảo về những điều làm cho
dân giàu, nước mạnh (Thiên hạ đại thế luận),
bảo vệ nền văn hoá dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. O.S. Akhmanova, 1969, Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (bằng tiếng Nga), Nxb Từ điển Bách khoa Xô viết
Moskva.


2. Paul Benedict, 1996, Interphyla Flow in Southeast Asia, In Proceeding of the Forth. International
Symposium on Languages and Linguistics. 8 - 10, 1996. Vol. V, pp.1579-1590.


3. Bùi Khánh Thế, 2000, Tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán và hệ quả tích cực của q trình đó đối với sự phát
triển tiếng Việt. Kỷ yếu Hội thảo Việt - Trung.


4. John DeFrancis, 1977, Colonialism and Language Policy in Vietnam, Monton Publishers - The Hague,


Paris. New York.


5. John Gibbons, 1992, Sociology of Language, In International Encyclopedia of Linguistics, Vol.4, pp.22-24,
William Bright (Editor in Chief).


6. Hứa Tuyên, 1994, Sơ lược về việc sử dụng chữ Hán ở Việt Nam và Đông Á.


7. V.N.Jarceva (chủ biên), 1990, Từ điển bách khoa về ngôn ngữ học (bằng tiếng Nga), Nxb Từ điển Bách
khoa Xơ Viết Moskva.


8. Nguyễn Đình Đầu, 1997, Cơng lao của G.S Hồng Xn Hãn trong q trình xây dựng và hoàn chỉnh nền
quốc học nước ta bằng chữ quốc ngữ và tiếng Việt,Trong Kỷ yếu Hội nghị khoa học: Chữ quốc ngữ và sự
phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt.,Tháng 3/1997, tr.174-184.


9. Nguyễn Tài Cẩn, 1998, Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt, Tạp chí Ngơn ngữ, số 6/1998, tr.7-12.
10. Tập san khoa học, A.Annals of HCM University, số 1/1994.


11. Keith Weller Taylor, 1983, The Birth of Vietnam, University of California Press. Berkeley. Los Angeles. Oxford.
12. Danny J.Whitfield, 1976, Historical and Cultural Dictionary of Vietnam, The Scarecrow Press, Inc. Metuchen, N.J.


SUMMARY


THE LANGUAGE TREATMENT


OF VIETNAMESE PEOPLE TOWARDS


LANGUAGE ELEMENTS OF HAN DESCENT



</div>

<!--links-->

×