Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Luận án tiến sĩ - Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng từ thực tiễn xử giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án nhân dân tối cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 184 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN LỢI

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN VAY
TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ GIÁM ĐỐC
THẨM, TÁI THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN LỢI

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN
VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ GIÁM
ĐỐC THẨM, TÁI THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9.38.01.07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đinh Văn Thanh



HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận án chưa từng được cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Văn Lợi


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 8
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay
tại tổ chức tín dụng ............................................................................................... 8
1.2. Tình hình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo
đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng ....................................................................... 16
1.3. Tình hình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự .. 19
2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án ....... 25
3. Những kết quả của các cơng trình nghiên cứu mà tác giả sẽ kế thừa ............ 26
4. Những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu ................................................. 27
5. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu ................................................................................. 28
5.1. Lý thuyết nghiên cứu của đề tài................................................................... 28
5.2.Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu của đề tài .................................. 30

5.3. Hướng tiếp cận nghiên cứu: ........................................................................ 30
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM .......................................... 34
2.1.Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ
chức tín dụng ...................................................................................................... 34
2.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền
vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm........................... 44
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ GIÁM ĐỐC
THẨM, TÁI THẨM ĐỐI VỚI TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH
TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ THỰC TIỄN CỦA TÕA ÁN
NHÂN DÂN TỐI CAO ........................................................................................... 64
3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam ..................................... 64


3.2. Thực trạng pháp luật về xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng ........................................................ 81
3.3. Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng tại Tòa án nhân dân tối cao .................... 90
Chƣơng 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐỐI VỚI HỢP
ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG THEO THỦ
TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO .. 110
4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ... 110
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm .......... 113
4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

tại Tòa án nhân dân tối cao ............................................................................... 142
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 150
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .......................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
DANH SÁCH CÁC CHUYÊN GIA ĐƢỢC HỎI, PHỎNG VẤN .................... 178
PHỤC VỤ LUẬN ÁN............................................................................................ 178


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

ĐHQGHN

Đại học Quốc gia Hà Nội

HVKHXH

Học viện Khoa học Xã hội

TAND


Tòa án nhân dân

TANDCC

Tòa án nhân dân cấp cao

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TCTD

Tổ chức tín dụng

TTV

Thẩm tra viên

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách Tư pháp đến năm 2020”; Kết luận số 79-KL/TW ngày
28/7/2010 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan Tư pháp, với trọng tâm
là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục
tiêu hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu lực, hiệu quả cao. Đối với công
tác giám đốc thẩm, tái thẩm, Nghị quyết 49-NQ/TW cũng nêu rõ, “Từng bước
hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ
những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng
nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ” [4].
Thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp năm
2013 quy định, “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [Điều 102]; Luật Tổ chức
TAND năm 2014 quy định TAND được tổ chức theo mơ hình 04 cấp: Tòa án
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án án nhân cấp tỉnh và Tòa án
nhân dân cấp huyện. Từ thay đổi về cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án, dẫn
đến thẩm quyền thụ lý, giải quyết đơn đề nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái
thẩm đối với các vụ án nói chung và các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
tiền vay tại TCTD nói riêng có nhiều thay đổi. Điều 18 BLTTDS năm 2015
quy định, Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án; Tòa
án nhân dân cấp cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Những thay đổi của chế định
giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự đã khắc phục được nhiều điểm
hạn chế của BLTTDS trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực,

vẫn tồn tại nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn, bất hợp lý dẫn đến tình trạng
tồn đọng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; chất lượng giải quyết các vụ
1


án kinh doanh, thương mại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa cao. Do
vậy, việc tiếp tục phải nghiên cứu, kiến nghị hoàn thiện là việc làm cần thiết.
Từ khi BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành, mặc dù số lượng đơn đề
nghị giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC có giảm về
số lượng (do thay đổi thẩm quyền), nhưng tính tổng cộng số lượng đơn đề
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm mà Tòa án các cấp (TANDTC và ba TANDCC)
thụ lý hằng năm tăng trung bình gần 1100 vụ/năm. Riêng năm 2019 tổng số
thụ lý là 69.141 vụ/năm, với tính chất ngày càng phức tạp, nhất là trong lĩnh
vực kinh doanh, thương mại [140, tr.5].
Thực trạng hoạt động của các TCTD trong thời gian qua cho thấy, nợ
xấu của các TCTD được gọi bằng những cái tên như “khối u” của nền kinh tế,
“tảng băng”, “cục máu đơng” làm ách tắc dịng vốn tín dụng cung cấp ra nền
kinh tế. Sau khi Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) ra
đời (năm 2013), việc xử lý nợ xấu có được cải thiện, nhưng vẫn cịn rất nhiều
“nút thắt” cần tháo gỡ, nhất là vấn đề pháp lý trong quá trình xử lý tài sản bảo
đảm. Năm 2017 Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí
điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Nghị quyết này thể hiện tinh thần, nợ xấu
khơng chỉ của hệ thống tín dụng mà là của nền kinh tế. Do vậy, Quốc hội,
Chính phủ, các Bộ, Ngành, địa phương phải chung tay hỗ trợ ngành Ngân
hàng xử lý nợ xấu. Đối với hệ thống Tòa án, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã
nêu rõ, Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ
giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của
khoản nợ xấu của TCTD. Cụ thể hóa quy định nêu trên, Hội đồng Thẩm phán
TANDTC đã ban hành Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018. Tuy
nhiên, cho đến nay (tháng 8 năm 2020), vấn đề giải quyết vụ án tranh chấp tài

sản bảo đảm đối với khoản tiền vay tại TCTD theo thủ tục rút gọn vẫn còn
nhiều vướng mắc và thực tế chưa có vụ án nào được giải quyết theo thủ tục
rút gọn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm mục đích
chỉ ra những vướng mắc trong thủ tục giải quyết loại tranh chấp này tại Tòa
2


án, từ đó kiến nghị các giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực trạng
pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại
TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao,
qua đó đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao, đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp trong
giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích đặt ra nêu trên, luận án tập trung giải
quyết các nhiệm vụ chính sau đây:
(1) Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
(2) Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao.
(3) Tìm ra các giải pháp phù hợp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC, với mong muốn biện pháp

bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD trở nên phổ biến; việc giải quyết tranh
chấp (nếu có) sẽ nhanh chóng, hiệu quả.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
(i) Các quan điểm, công trình nghiên cứu, học thuyết pháp lý liên
quan đến giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
3


(ii) Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam; một số quy
định của các nước như: Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, Hoa Kỳ, Nhật Bản… liên quan đến giải quyết tranh chấp hợp đồng
bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
(iii) Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những khía
cạnh pháp lý của quan hệ bảo lãnh tiền vay tại TCTD như các chủ thể tham
gia quan hệ bảo lãnh, đối tượng của bảo lãnh, nội dung, bản chất của bảo
lãnh, phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh, thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, bảo
đảm nghĩa vụ bảo lãnh, xử lý tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh. Luận án chỉ
tập trung nghiên cứu các hợp đồng bảo lãnh giữa TCTD (không bao gồm các
TCTD nước ngồi) với tổ chức, cá nhân (khơng bao gồm bảo lãnh ngân hàng
và bảo lãnh đối với các hợp đồng dân sự giữa các cá nhân với nhau, hoặc giữa
cá nhân với pháp nhân khơng nhằm mục đích sinh lời) đối với khoản vay phát
sinh từ hợp đồng tín dụng (bên cho vay là TCTD, bên vay là pháp nhân, cá
nhân); và việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
Luận án sử dụng các quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự

năm 2015, Luật TCTD (có tham khảo các quy định trước đó); cơ chế giải
quyết tranh chấp tại Tịa án của Việt Nam hiện hành và kinh nghiệm một số
quốc gia trên thế giới nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
tham gia quan hệ bảo lãnh. Nghiên cứu sử dụng nhiều tư liệu (Quyết định
kháng nghị, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm) về thực tiễn giải quyết tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD tại TANDTC từ năm 2013 trở lại,
từ đó đánh giá về quy định của pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại TCTD của Việt Nam và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại
TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Việt Nam hiện nay.
4


4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
Các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, logic là những phương pháp được sử dụng xuyên suốt luận
án để phân tích, đánh giá, đưa ra kiến nghị về những vấn đề trong nội dung
nghiên cứu, cụ thể là:
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng trong tất
cả các chương để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh tiền vay tại TCTD.
Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp logic, phương
pháp so sánh được sử dụng ở các chương 2, 3, 4 để phân tích các vấn đề trong
mối quan hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn ở trong và ngoài nước. Các
chương này được nghiên cứu trong mối quan hệ logic xuyên suốt từ cơ sở lý
luận đến thực trạng, quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật. Những vấn
đề lý luận trong Chương 2 được kiểm nghiệm trong Chương 3 để từ đó tạo cơ
sở hình thành những kiến nghị trong Chương 4.

Phương pháp phỏng vấn, hỏi đáp chuyên gia được sử dụng để đánh giá
thực trạng pháp luật trong Chương 3 và tạo cơ sở cho việc đưa ra các đề xuất,
kiến nghị trong Chương 4. Có thể nói tất cả các phương pháp nghiên cứu nêu
trên đều rất có giá trị cho việc đạt đến mục tiêu nghiên cứu của luận án.
Đặc biệt, trong luận án này tác giả sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu
tình huống, sự việc thực tế “Case studies” để phân tích các vụ án có tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD được giải quyết tại Hội đồng
Thẩm phán TANDTC, và phân tích các Án lệ liên quan đến lĩnh vực này.
5. Những đóng góp mới của luận án
Từ quá trình nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn
giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC, tác giả nhận thấy hoạt động nghiên
cứu đạt được một số kết quả cơ bản sau:
5


- Thứ nhất, Luận án đã đề xuất cần sửa đổi một số quy định của pháp
luật liên quan đến quan hệ bảo lãnh, nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn cho bên
bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (bảo vệ người nhận bảo đảm ngay tình; các
quy định về bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh; các quy định về điều kiện của bên
bảo lãnh, về nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh).
- Thứ hai, Từ thực trạng giải quyết tranh chấp, luận án chỉ ra các dạng
tranh chấp phổ biến liên quan đến hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ
chức tín dụng, từ đó luận án đưa ra khuyến nghị cho các bên khi giao kết hợp
đồng bảo lãnh.
- Thứ ba, Luận án đã phân tích cơ sở lý luận cũng như sự cần thiết phải
sửa đổi những quy định của pháp luật tố tụng nhằm mục đích rút ngắn thời
gian giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng vẫn đạt chất lượng, hiệu quả cao.
- Thứ tư, Luận án kiến nghị một số giải pháp mang tính đột phá trong

công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần bổ sung, làm rõ một số vấn đề lý
luận cơ bản về quan hệ bảo lãnh và tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại
TCTD; phương thức giải quyết các tranh chấp của hợp đồng này theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm; làm rõ tính đối nhân trong quan hệ bảo lãnh, sự khác
biệt của thế chấp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh với thế chấp tài sản của người thứ
ba; đặc biệt, trong đề tài này tác giả nêu cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn
về sự cần thiết phải bảo vệ người nhận bảo đảm ngay tình, từ đó kiến nghị sửa
đổi BLDS để có thể áp dụng quy định về người thứ ba ngay tình trong quan hệ
bảo đảm. Đối với chế định giám đốc thẩm, tái thẩm, đề tài cung cấp cơ sở lý
luận và thực tiễn để xem xét rút ngắn thời gian giải quyết các tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh tiền vay theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; giải pháp nâng
cao chất lượng kháng nghị, tránh tùy tiện, tràn lan.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài khai thác tính cấp thiết của việc hoàn thiện
các quy định pháp luật liên quan tới giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong bối cảnh Việt
6


Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết 49NQ/TW, kết hợp với tinh thần của Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14, quyết liệt
trong vấn đề xử lý nợ xấu của hệ thống tín dụng – một nút thắt của nền kinh
tế. Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp bách cần sớm có những nghiên cứu một
cách tổng thể về hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay
tại TCTD theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TANDTC nhằm mục đích
rút ngắn thời gian giải quyết, đạt chuẩn mực pháp lý có tính hướng dẫn
nghiệp vụ đối với các cấp Tịa án.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về pháp luật giải quyết
tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD theo thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm; đồng thời, là nguồn tham khảo đối với việc ban hành các
văn bản hướng dẫn chế định bảo đảm nghĩa vụ trong BLDS 2015 cũng như
chế định giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS; đặc biệt có giá trị tham
khảo đối với những Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tịa án, những
người làm cơng tác Tư pháp khác trong việc giải quyết các tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay tại TCTD.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
04 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến
đề tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Chương 3: Thực trạng pháp luật về xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
đối với tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD từ thực tiễn của
Tòa án nhân dân tối cao.
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp đối với hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao.

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hợp đồng bảo lãnh bảo đảm
tiền vay tại tổ chức tín dụng

1.1.1.Về khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh
Khái niệm bảo lãnh nêu trong một số cơng trình khoa học [88, tr.377],
[158, tr.26][1, tr.158][42, tr.19][128, tr.201][33, tr.101] của các tác giả
Nguyễn Mạnh Bách, Nguyễn Ngọc Điện, Lê Thị Thu Thủy và trong Luật La
Mã, Quốc triều Hình luật…đều có nội hàm là việc người thứ ba cam kết bảo
đảm cho nghĩa vụ của người có nghĩa vụ; và bảo lãnh là một hợp đồng giữa
người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh.
Đặc điểm của bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng:
- Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân: Tác giả Nguyễn Mạnh
Bách viết, “Ngày nay, sự bảo lãnh ít thơng dụng, mỗi khi giao kết trái chủ
thường đòi hỏi một bảo đảm đối vật trên tài sản của trái hộ, bảo đảm này hữu
hiệu hơn sự bảo lãnh ” [1, tr.158]. Tác giả Nguyễn Thị Nga cũng gián tiếp thừa
nhận bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân khi nhận định “…Đây là biện
pháp bảo đảm mang tính đối nhân…. Nghĩa là bên cho vay bỏ ra một khoản tiền
vay cho bên kia và khoản vay đó được bảo đảm thơng qua [lời hứa] của chủ thể
thứ ba…” [81, tr.20]; tác giả Phạm Văn Đàm khẳng định “…so với các biện
pháp bảo đảm khác như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối
nhân…” [46, tr.46]. Tác giả Trương Thanh Đức khi nghiên cứu về bảo lãnh có
đưa ra kiến nghị, “Về biện pháp bảo lãnh: Đề nghị sửa đổi Bộ luật Dân sự theo
hướng, quy định rõ bảo lãnh là biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba,
nhưng không đưa tài sản vào cầm cố, thế chấp” [168].

8


Ngược lại, các tác giả Lê Thị Thu Thủy, Nguyễn Anh Sơn cho rằng,
trong lĩnh vực hoạt động cho vay của ngân hàng, tổ chức tín dụng Việt Nam
theo pháp luật hiện hành không chỉ thuần túy là biện pháp bảo đảm đối nhân
mà cịn có thể là bảo lãnh đối vật, bởi lẽ người bảo lãnh cũng có thể phải thế
chấp hoặc cầm cố tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thanh tốn cho

người được bảo lãnh. Trường hợp thứ hai chính là bảo lãnh bằng tài sản của
bên thứ ba [150, tr.204]. Đồng tình với quan điểm này, tác giả Nguyễn Ngọc
Điện có góc nhìn so sánh, theo nghĩa nguyên thủy của bảo lãnh trong Luật
La tinh cổ thì bảo lãnh là hồn tồn đối nhân, nhưng quá trình sau này, tại
Pháp các học thuyết pháp lý và Án lệ đã chấp nhận hình thức bảo lãnh đối
vật (Cautionnement réel) và thực tế, bảo lãnh đối vật mới là hình thức được
ưa chuộng [42, tr.56-57].
Tác giả Nguyễn Thúy Hiền diễn giải rõ hơn, “Nhằm giảm sự khác biệt
so với pháp luật của các nước trong quá trình hội nhập quốc tế, BLDS năm
2005 chuyển bảo lãnh bằng tài sản cụ thể trong BLDS 1995 thành cầm cố, thế
chấp bằng tài sản của người thứ ba. Từ đó, khơng cịn quy định về bảo lãnh
bằng quyền sử dụng đất trong Luật Đất đai năm 2003, mà được chuyển thành
thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba và pháp luật về đăng ký giao
dịch bảo đảm không quy định đăng ký bảo lãnh” [171].
Như vậy, về mặt lý luận thì trên thế giới cũng đã có những trường phái
luật theo xu hướng xác định bảo lãnh có thể là biện pháp bảo đảm đối vật. Ở
Việt Nam, khi xây dựng BLDS năm 1995 đã đi theo hướng này, tuy nhiên từ
năm 2005 khi sửa đổi BLDS 1995 thì bảo lãnh lại được quy định theo hướng
là biện pháp bảo đảm đối nhân.
- Quan hệ bảo lãnh tồn tại dưới dạng hợp đồng giữa bên bảo lãnh và
bên nhận bảo lãnh: Ngay trong khái niệm bảo lãnh của một số nước như La
Mã, Pháp, Đức đều thể hiện, bảo lãnh đảm bảo nghĩa vụ dân sự là một hợp
đồng. Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Thái Lan cũng quy định về hình thức của
9


hợp đồng bảo lãnh phải bằng văn bản. Đặc biệt, Bộ luật Dân sự Pháp còn
yêu cầu người bảo lãnh phải viết tay giá trị số tiền cam kết bảo lãnh bằng số
và bằng chữ. Bộ luật Dân sự Campuchia cịn thừa nhận tính pháp lý của hợp
đồng bảo lãnh được thể hiện bằng lời nói, mặc dù tính pháp lý của loại hợp

đồng này là không cao [9].
Tác giả cuốn sách “The Modern Contract of Guarantee” (2003) (hợp
đồng bảo lãnh hiện đại) cho rằng, “về nguyên tắc hợp đồng bảo lãnh không
nhất thiết phải tồn tại dưới dạng văn bản, nhưng để có bằng chứng cụ thể và
có giá trị đối với người thứ ba thì hợp đồng bảo lãnh phải được lập dưới
dạng văn bản”. UNCITRAL lại khuyến nghị, “Luật nên quy định hợp đồng
bảo đảm có thể bằng miệng nếu bên nhận bảo đảm chiếm hữu tài sản bảo
đảm” [200].
Trong bảo lãnh bảo đảm nghĩa vụ dân sự thì nhiều nhà nghiên cứu ở
Việt Nam đồng tình với quan điểm của các tác giả Phạm Văn Tuyết và Lê
Thị Kim Giang “về bản chất thì quan hệ bảo lãnh là một loại giao dịch dân
sự, quan hệ giữa người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh là một hợp đồng”
[149, tr.30]. Tác giả Võ Đình Tồn phân tích rõ hơn, thực tiễn pháp lí, quan
niệm hợp đồng bảo lãnh là quan hệ hợp đồng là tư tưởng phổ biến;… Đối với
cam kết bảo lãnh mà bên bảo lãnh đưa ra thì về bản chất pháp lí đó là dự thảo
hợp đồng, nếu không được bên nhận bảo lãnh chấp nhận thì quan hệ bảo lãnh
khơng được thiết lập; hợp đồng bảo lãnh bắt buộc phải có hai bên: bên bảo
lãnh và bên nhận bảo lãnh [148, tr 41-46]. Cùng chung quan điểm về vấn đề
này, tác giả Nguyễn Ngọc Điện khẳng định, “Bảo lãnh là một quan hệ pháp
luật hình thành do sự gặp gỡ ý chí giữa người bảo lãnh với người nhận bảo
lãnh. Đó thực sự là một hợp đồng chứ không phải là loại giao dịch một bên.
Tuy nhiên, hợp đồng bảo lãnh là giao ước đơn vụ: chỉ có người bảo lãnh là
người có nghĩa vụ…” [ 42, tr.20].

10


Tác giả Bùi Đức Giang viết, “Nhìn chung, dù được thể hiện bằng hình
thức văn bản nào đi chăng nữa (hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh, quyết định
bảo lãnh,v.v…) thì phải nhìn nhận cam kết bảo lãnh (văn bản bảo lãnh) là

hợp đồng chứ không phải là một hành vi pháp lý đơn phương ” [54, tr. 29-39].
Tác giả Lê Thị Thu Thủy cũng có chung quan điểm này [150, tr.202]. Tác giả
Trương Thanh Đức cũng cho rằng, “ở Việt Nam, mặc dù bảo lãnh chỉ là một
biện pháp bảo đảm gắn với hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ chính, nhưng
bảo lãnh có đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng, nhưng trong khoảng thời
gian dài biện pháp bảo lãnh không được gắn tên hợp đồng” [50, tr. 322].
Tuy nhiên, tác giả Lê Nguyên quan niệm, “hành vi phát hành cam kết
bảo lãnh của bên bảo lãnh là hành vi pháp lý đơn phương, không phải hợp
đồng” [83, tr.44].
Về hình thức tồn tại của hợp đồng bảo lãnh, tác giả Trương Thanh Đức
cho rằng, bảo lãnh là một trong 6 biện pháp bảo đảm luật buộc phải được lập
thành văn bản và điều này cịn có điểm chưa hợp lý [50, tr. 324]. Đồng tình
với quan điểm hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản (có thể lập
riêng hoặc trong cùng với hợp đồng tín dụng) và có thể phải được cơng
chứng, chứng thực, cịn có các tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang [149,
tr.158], tác giả Phạm Văn Đàm [46, tr.68].
Về việc đăng ký biện pháp bảo đảm, tác giả Lê Thị Thu Thủy cho rằng,
pháp luật quy định chủ thể của hợp đồng bảo lãnh có quyền thỏa thuận về
việc đăng ký hay không đăng ký hợp đồng và việc không đăng ký không ảnh
hưởng đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh. Tương tự áp dụng đối với việc
công chứng, chứng thực hợp đồng bảo lãnh [150, tr.214-215]. Tác giả
Phạm Văn Đàm cũng cho rằng, trong trường hợp pháp luật có quy định thì
hợp đồng bảo lãnh phải được cơng chứng, chứng thực; về vấn đề hợp đồng
bảo lãnh có phải đăng ký giao dịch bảo đảm hay khơng thì tác giả theo
hướng bản chất của bảo lãnh là đối nhân, nên không phải đăng ký giao dịch
bảo đảm [46, tr.68].
11


1.1.2. Những nội dung chính của quan hệ bảo lãnh tiền vay tại tổ

chức tín dụng
1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng
Như đã trình bày ở phần trên của luận án [tr.10], quan hệ bảo lãnh được
xác định là một hợp đồng và đây là hợp đồng được giao kết giữa bên nhận
bảo lãnh và bên bảo lãnh.
Đối với bên bảo lãnh: Tác giả Phạm Văn Đàm cho rằng, “luật của
Pháp đặc biệt chú ý đến khả năng có tài sản để thực hiện nghĩa vụ của người
bảo lãnh” [46, tr.63]. Pháp luật Nhật Bản cũng quy định, để xác lập biện pháp
bảo lãnh thì người bảo lãnh phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có đầy
đủ các phương tiện để thực hiện trái vụ. Tương tự, Bộ luật Dân sự của
Campuchia cũng quy định về năng lực và khả năng thanh toán nợ của người
bảo lãnh [46, tr.64]
Ở Việt Nam, tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang cho rằng, “Đối
với bảo lãnh dân sự, bên bảo lãnh có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đủ
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Bên bảo lãnh không
phải tuân thủ bất kỳ điều kiện nào khác của pháp luật ngoài việc được bên
nhận bảo lãnh đồng ý đưa ra cam kết bảo lãnh” [149, tr.211]. Tác giả Hồ
Quang Huy có chung quan điểm này và cịn nói rõ hơn là trong pháp luật dân
sự Việt Nam chưa có quy định về điều kiện của người bảo lãnh, từ đó kiến
nghị cần có quy định về điều kiện của người bảo lãnh [173]. Tác giả Lê Thị
Thu Thủy cho rằng, để tham gia quan hệ hợp đồng bảo lãnh bên bảo lãnh phải
có các điều kiện sau, “... phải có năng lực tài chính, có chỗ làm ổn định, có
thu nhập thường xuyên…có thể thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh…” [150, tr.
223-224]. Đồng thời, nhằm tránh đan xen lợi ích giữa cá nhân và pháp nhân,
tránh việc giao kết hợp đồng bảo lãnh nhằm tạo ra quan hệ khép kín, mà trong
quan hệ đó, quyền, lợi ích của tổ chức tín dụng ln có nguy cơ bị xâm phạm,
Luật các tổ chức tín dụng cũng quy định thêm các trường hợp tổ chức tín
dụng khơng được giao kết hợp đồng bảo lãnh với một số chủ thể là cán bộ có
12



thẩm quyền của tổ chức tín dụng [150, tr.225]. Tác giả Nguyễn Ngọc Điện
phân tích thêm, dưới mắt của tổ chức tín dụng, các quan chức kể trên và
những người thân của họ khơng có năng lực bảo lãnh [42, tr.138].
Đối với bên bảo lãnh là cá nhân: Tác giả Trương Thanh Đức cho rằng,
cá nhân tham gia giao dịch dân sự nói chung, giao dịch bảo đảm nói riêng thì
phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự [50, tr.333-334].
Điều kiện đối với pháp nhân bảo lãnh: Theo tác giả Nguyễn Ngọc
Điện, vấn đề trở nên phức tạp khi người đại diện theo pháp luật không trực
tiếp ký kết hợp đồng bảo lãnh mà uỷ quyền cho người khác tham gia ký kết
hợp đồng này [42, tr.134-137]. Tác giả Trương Thanh Đức cũng phân tích và
chỉ ra những rủi ro khi giao kết hợp đồng bảo lãnh với đại diện hợp pháp của
pháp nhân (bao gồm cả đại diện theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật)
[50, tr. 330-331].
Đối với bảo lãnh của vợ hoặc chồng, Tác giả Nguyễn Ngọc Điện quan
niệm, cá nhân vợ hoặc chồng đều có quyền đứng ra bảo đảm cho một nghĩa
vụ nào đó. Trường hợp bảo lãnh đối vật, nếu vợ hoặc chồng dùng tài sản riêng
thuộc sở hữu của mình để bảo lãnh thì khơng có vấn đề gì, nhưng nếu họ dùng
tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng để bảo lãnh mà khơng được sự đồng
ý của bên cịn lại thì hợp đồng bảo lãnh khơng có giá trị [42, tr.139-140];
trường hợp bảo lãnh đối nhân thì khơng vấn đề, chỉ vướng trong việc xác định
tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh [42, tr.139-140]. Tác giả Trương Thanh
Đức khơng đồng tình với quan điểm này, theo tác giả Đức thì nếu có thành
viên trong hộ gia đình là vợ hoặc chồng khơng đồng ý với hợp đồng thế chấp,
thì nguy cơ vẫn bị Tịa án tun bố vơ hiệu [50, tr.352].
- Bên nhận bảo lãnh: Đối với tổ chức tín dụng, Tác giả Trương Thanh
Đức phân chia thành đại diện theo pháp luật của pháp nhân, đại diện theo ủy
quyền trong nội bộ pháp nhân và ủy quyền với người ngoài pháp nhân [50,
tr.352], đối với đại diện theo ủy quyền thì pháp luật dân sự hiện hành vẫn quy
định người được ủy quyền có thể ủy quyền lại nếu được sự đồng ý của người

13


ủy quyền; ngồi ra cịn có điểm mới là người ủy quyền có thể ủy quyền lại mà
khơng cần sự đồng ý của người ủy quyền ban đầu, với điều kiện: trong trường
hợp bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được;
việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu, hình thức của
hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hợp đồng ủy quyền ban đầu [50, tr.355]
1.1.2.2. Những nội dung chính của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ
chức tín dụng:
Luật khơng quy định cụ thể nội dung hợp đồng bảo lãnh mà hoàn toàn
do các bên thỏa thuận, với điều kiện những thỏa thuận đó khơng trái luật, trái
đạo đức xã hội. Tuy nhiên, “đạo đức” thì khá trừu tượng và không phải là bất
biến [123, tr. 9 – 19, tr.13 -17]. Tới mức, có tác giả kiến nghị, “khái niệm
„đạo đức‟ khó hiểu nếu đưa vào BLDS sẽ gây tâm lý hoang mang cho các chủ
thể tham gia giao dịch, dẫn đến các chủ thể hạn chế tham gia một số giao lưu
dân sự…” [21, tr.29].
Về các nội dung không trái luật, đây là quy định mới so với pháp luật
dân sự trước đó, pháp luật dân sự trước khi có BLDS 2015 đều ghi nhận các
nội dung thỏa thuận trong hợp đồng không được trái “pháp luật”. Như vậy,
phạm vi cấm của Bộ luật Dân sự 2015 đã thu hẹp lại rất nhiều [50, tr.284].
Tác giả Lê Thị Thu Thủy cho rằng, hợp đồng bảo lãnh cần có những
nội dung chủ yếu sau: Tên, địa chỉ các bên, ngày, tháng, năm….[ 150, tr.215].
Đồng tình với quan điểm này, tác giả Trương Thanh Đức phân tích sâu về các
nội dung cơ bản của hợp đồng bảo lãnh [50, tr.371].
1.1.2.3. Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng:
- Về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh: Các tác giả
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang cho rằng, “Để có hiệu lực, giao dịch bảo
đảm phải tuân thủ các điều kiện được BLDS quy định, ngoài ra cần xem xét

mối quan hệ giữa hiệu lực của giao dịch bảo đảm và hiệu lực của hợp đồng
tín dụng được bảo đảm bằng giao dịch bảo đảm đó” [ 149, tr.131]. Trong khi
14


đó, Lê Minh Hùng phân chia điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thành hai
loại, đó là: các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực và hình thức của
hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có
quy định [91, tr.39; tr.49-82]. Tác giả Phạm Văn Đàm khẳng định, pháp luật
của các quốc gia đều khẳng định hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực từ thời điểm
giao kết hợp pháp và hợp đồng bảo lãnh không thuộc đối tượng phải đăng ký
giao dịch bảo đảm [46, tr.69]. Tác giả Trương Thanh Đức phân chia thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm thành hai loại là hiệu lực đối với các bên giao
kết hợp đồng và hiệu lực đối với người thứ ba hay còn gọi là hiệu lực đối kháng
đối với người thứ ba. Tác giả cho rằng, về ngun tắc thì thời điểm có hiệu lực
giữa các bên tham gia hợp đồng là thời điểm giao kết hợp đồng bảo đảm, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Cịn hiệu
lực đối kháng với người thứ ba có hiệu lực từ thời điểm đăng ký giao dịch bảo
đảm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì hai loại hiệu lực này trùng nhau [50,
tr.485-486]. Các tác giả Lê Kim Giang, Phạm Văn Tuyết cũng đồng tình với quan
điểm cho rằng, hiệu lực đối kháng với người thứ ba của giao dịch bảo đảm có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm [57, tr.60].
1.1.2.4. Thời điểm phát sinh quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:
Tác giả Bùi Đức Giang so sánh, pháp luật Anh quy định theo hướng
nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ liên đới, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận là
nghĩa vụ dự bị [54]. Pháp luật của Pháp đi theo hướng ngược lại [54], từ đó
đưa ra nhận định, Luật của Việt Nam “« có lợi » rõ ràng cho bên nhận bảo
lãnh” [55]. Tác giả Nguyễn Ngọc Điện quan niệm, “xét đến cùng thì nghĩa vụ
trả nợ vẫn thuộc về người vay, nên chỉ khi nào người vay khơng cịn tài sản
để trả nợ thì chủ nợ mới có quyền yêu cầu người bảo lãnh…”. Tác giả Hồ

Quang Huy cũng đồng tình với quan điểm này, “…BLDS chưa có quy định về
việc bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
bằng tài sản của mình trước... Điều này chưa thực sự hợp lý, vì suy cho cùng,
thì bên bảo lãnh chỉ là người có nghĩa vụ thứ hai” [173].
15


Về nghĩa vụ liên đới giữa những người đồng bảo lãnh: Pháp luật dân sự
Việt Nam quy định về vấn đề này có nét tương đồng với pháp luật một số
nước như Anh, Pháp. Tuy nhiên, cịn có ý kiến cho rằng quy định này là chưa
phù hợp vì, những người bảo lãnh liên đới là bảo lãnh đồng thời, không phải
là tái bảo lãnh nên khi nghĩa vụ đã được thực hiện thì nghĩa vụ của họ cũng
khơng cịn. Người bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ hộ bên được bảo lãnh phải
đòi lại tài sản từ bên được bảo lãnh chứ khơng phải từ những người bảo lãnh
cịn lại [197]. Tác giả Bùi Đức Giang cũng chỉ ra điểm bất hợp lý của đồng
bảo lãnh và khuyến cáo, các bên nên thỏa thuận trước phạm vi bảo lãnh”[55].
1.2. Tình hình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng
1.2.1. Vấn đề tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh:
Tác giả Trương Thanh Đức lý giải tại sao trong một giai đoạn dài các
hợp đồng bảo lãnh đều được lập dưới hình thức thế chấp, cầm cố tài sản của
người thứ ba, vì nếu sử dụng hình thức hợp đồng bảo lãnh thì các Văn phịng
Cơng chứng sẽ từ chối công chứng hợp đồng, và hợp đồng bảo lãnh cũng
không thuộc diện phải đăng ký giao dịch bảo đảm. Cho nên, nhiều hợp đồng
đã được thể hiện dưới dạng bảo lãnh-thế chấp hoặc thế chấp-bảo lãnh [175,
193, 162, 177, 180, 57, tr.244-246]. Bên cạnh đó, các tác giả Phạm Tuấn Anh,
Đỗ Văn Đại phân tích giá trị pháp lý của chứng thư bảo lãnh của cá nhân
[163]; công văn cam kết bảo lãnh [39, tr.468]; chứng thư bảo lãnh không nêu
cụ thể tài sản bảo lãnh [163]; chứng thư bảo lãnh không ghi ngày tháng [190].
Tác giả Đỗ Văn Đại còn nêu thực tế, “một người chỉ ký tên vào phần “người

bảo lãnh” mà khơng có bất kỳ nội dung nào khác, khơng nói rõ là sẽ thực
hiện thay cho bên có nghĩa vụ nên đã phát sinh tranh chấp về việc có tồn tại
hay khơng tồn tại cam kết bảo lãnh” [39, tr.464-465].
Các tác giả Trương Thanh Đức, Nguyễn Văn Cường phân tích các
vướng mắc, bất cập trong việc dùng tài sản hình thành trong tương lai để bảo
đảm nghĩa vụ bảo lãnh [162, 57, tr.243-244]. Để minh chứng thêm cho lập luận
16


trên, trong bài viết “Bảo lãnh trong tín dụng ngân hàng: rủi ro và lợi ích", tác
giả Nguyễn Thùy Trang cũng nêu một vụ án cụ thể mà Tòa án đã tun bố hợp
đồng bảo lãnh vơ hiệu vì khơng được công chứng và không đăng ký giao dịch
bảo đảm [190]. Tác giả Duy Kiên nêu vụ án tranh chấp hợp đồng bảo lãnh, do
bên bảo lãnh giả mạo chữ ký của đồng chủ sở hữu tài sản [72].
1.2.2. Vô hiệu do nội dung hợp đồng vi phạm các điều kiện có hiệu lực:
- Ngƣời bảo lãnh khơng phải là chủ sở hữu tài sản dùng để bảo
lãnh, như nhà đất là của cha mẹ (đều đã chết), nhưng một trong số những
người con dùng tài sản này để bảo lãnh tiền vay tại ngân hàng, sau đó những
người đồng thừa kế phát hiện sự việc, nên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
bảo lãnh vô hiệu [196]. Tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang phân tích
trường hợp vì lý do khách quan nào đó bên bảo lãnh khơng cịn là chủ sở hữu
hợp pháp của tài sản dùng để bảo lãnh. Theo các tác giả, trường hợp này tổ
chức tín dụng chỉ có thể viện dẫn các quy định của pháp luật về bảo vệ người
thứ ba ngay tình để xác định giao dịch bảo đảm khơng bị vô hiệu [57, tr.255].
- Hợp đồng bảo lãnh không đƣợc sự đồng ý của đồng chủ sở hữu
tài sản dùng để bảo lãnh: Các tác giả Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Thị Bích
phân tích những rủi ro khi nhận bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất của hộ gia đình [57, tr.239]. Tương tự, tác giả Minh Quân có nêu
một vụ án cụ thể tranh chấp hợp đồng bảo lãnh, theo đó tài sản bảo đảm là
quyền sử dụng đất của hộ gia đình, nhưng hợp đồng bảo lãnh chỉ có một

thành viên trong hộ gia đình ký tên [184, 177], [57, tr.241].
- Bên bảo lãnh yêu cầu tuyên bố hợp đồng bảo lãnh vô hiệu do vi
phạm pháp luật: Tác giả Đỗ Văn Đại đề cập đến trường hợp “người đại diện
không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với
người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó…” để yêu cầu
tuyên bố hợp đồng bảo lãnh vô hiệu. Tác giả nhận thấy, thực tế đa số các Tịa
án khơng tun bố giao dịch này vơ hiệu. [39, tr.524-525].

17


1.2.3. Tranh chấp về các nội dung trong hợp đồng bảo lãnh tiền vay:
- Tác giả Duy Kiên, phân tích vụ án cụ thể liên quan đến việc khó xác
định chính xác phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh khi các bên chỉ thỏa thuận “bảo
đảm cho khoản vay tối đa” hoặc “bảo lãnh cho các khoản vay phát sinh trong
khoảng thời gian” [72]. Tác giả Nguyễn Anh Đức nêu trường hợp “hợp đồng
bảo lãnh kết thúc vì thời hạn bảo lãnh đã chấm dứt” [167] [194]. Về nội dung
này, tác giả Quách Tú Mẫn cho rằng, “khi gia hạn hoặc thay đổi điều khoản
hợp đồng vay ban đầu, hợp đồng bảo lãnh đương nhiên chấm dứt” [181]. Tác
giả Lê Đình Việt nêu khó khăn trong việc hiểu thế nào về nghĩa vụ hình thành
trong tương lai, khoản vay trước khi ký hợp đồng bảo lãnh, nhưng được đảo
nợ sau khi ký hợp đồng bảo lãnh có được coi là nghĩa vụ trong tương lai
không? [192]. Tác giả Đỗ Văn Đại nêu một số vụ án cụ thể về trường hợp các
bên không thỏa thuận rõ phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh hoặc không ghi phạm vi
nghĩa vụ bảo lãnh [39, tr.492-497].
Ngƣời có tài sản nhờ ngƣời khác vay giúp tiền tại tổ chức tín dụng
và ngƣời vay giúp đã yêu cầu ngƣời có tài sản ký hợp đồng bảo lãnh để
vay số tiền lớn hơn (vay thêm): Nội dung này có rất nhiều tác giả đề cập,
phân tích, nội dung chính của quan hệ này là người có tài sản nhờ người khác
vay giúp một số tiền nhỏ tại TCTD, nhưng người được nhờ đã lợi dụng việc

này để vay số tiền lớn hơn, số tiền chênh lệch sẽ giữ lại. Việc vay số tiền lớn
hơn có thể được người bảo lãnh đồng ý, với điều kiện người bảo lãnh sẽ
không phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền vay mà người được nhờ đứng
tên vay sẽ trả toàn bộ lãi cho ngân hàng; có trường hợp người có tài sản hồn
tồn khơng biết mà do tin tưởng nên ký vào tất cả các giấy tờ do người vay
giúp đưa ra; cịn có trường hợp người có tài sản ủy quyền cho người vay giúp
đứng ra lập hợp đồng bảo đảm để bảo đảm cho khoản vay của Công ty của
người vay giúp hoặc chính người vay giúp [165, 196].
- Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: tác giả Đỗ Văn Đại phân
tích 04 bản án của Tòa án các cấp và chỉ ra thực tế, “các Tòa án vẫn xác định
18


quy chế dự bị của người bảo lãnh, mặc dù các bên khơng có thỏa thuận vấn
đề này trong hợp đồng bảo lãnh” [39, tr.528-550]; hoặc “nhiều Tòa án đều
tuyên theo hướng nghĩa vụ giữa những người đồng bảo lãnh là liên đới và
liên đới luôn với người được bảo lãnh, mặc dù hợp đồng bảo lãnh đã thỏa
thuận rất rõ về bảo lãnh theo phần (không liên đới)” [39, tr.551-568]. Về
nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh lâm vào tình trạng phá
sản, tác giả Đỗ Văn Đại có quan điểm cho rằng, pháp luật phá sản và Quyết
định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ấn định, “quan hệ bảo lãnh cần phải
tạm đình chỉ để đợi kết quả phá sản, trường hợp tài sản của bên bị phá sản
khơng đủ trả nợ thì bên nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện yêu cầu bên bảo
lãnh tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh” là không phù hợp, phải căn cứ vào
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo lãnh [39, tr.570-586]. Tác giả
Hoàng Yến nêu những khó khăn trong việc xác định người phải thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp người bảo lãnh chết [193, 194]. Tác giả
Đỗ Văn Đại phân tích trường hợp người bảo lãnh từ chối thực hiện nghĩa
vụ do người nhận bảo lãnh vi phạm, từ đó đưa ra kiến nghị giải pháp trên
cơ sở tham khảo pháp luật nước ngoài [39, tr.592-597]. Tác giả Quách Tú

Mẫn phân tích trường hợp bên nhận bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ thông báo
cho bên bảo lãnh biết về thời điểm bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ
thanh toán [181].
1.3. Tình hình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong
tố tụng dân sự
1.3.1.Về khái niệm giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự
Tác giả Đào Xuân Tiến đưa ra khái niệm, “Thủ tục xét lại bản án,
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật là thủ tục đặc biệt nhằm kiểm
tra, xem xét, xác định bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
được xét xử đúng pháp luật và xét lại đối với bản án, quyết định của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới
làm thay đổi nội dung hoặc kết quả giải quyết vụ án” [152, tr.20]. Tác giả
19


×