Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn tập làm văn SKKN 20 21

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.51 KB, 28 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN ……..
TRƯỜNG ………………………..

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Họ và tên người viết: ………………………..
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học …………….
Công tác được phân công: Giáo viên dạy lớp ……..
Tên đề tài:
"Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn Tập làm văn"
I. Đặt vấn đề:


Đối với môn Tiếng Việt, các phân mơn đều có vai trị tương tác hỗ trợ lẫn
nhau, học phân mơn này góp phần học tốt phân mơn kia và ngược lại. Trong đó,
phân mơn Tập làm văn là mơn học có tính tổng hợp cao. Qua tiết học Tập làm văn,
học sinh có khả năng xây dựng được một văn bản: đó là bài nói, bài viết. Nói và
viết là những hình thức rất quan trọng. Thơng qua đó hình thành và rèn luyện cho
học sinh khả năng trình bày văn bản (nói, viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Do vậy,
yêu cầu học sinh phải có vốn kiến thức về ngữ liệu văn học (vốn từ có văn hố).
Học sinh Tiểu học (học sinh lớp 3) ngồi vốn kiến thức sẵn có từ thực tiễn và vốn
từ các em được tiếp nhận qua các môn học khác, các em cịn được cung cấp từ qua
mơn Tiếng Việt (Tập đọc ; Luyện từ và câu…). Đó là vốn từ vô cùng quý giá nếu
chúng ta biết cách khai thác và vận dụng.
Qua nhiều năm được lãnh đạo phân công, giao nhiệm vụ giảng dạy lớp 3,

bản thân tơi nhận thấy học sinh cịn nhiều hạn chế trong phân môn Tập làm văn.
Học sinh thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước hoặc nói lại ý của bạn. Và điểm
bài làm thường thấp hơn so với các phân môn khác. Nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế này chính là do bài Tập làm văn của các em ý còn rời rạc, khả năng dùng
từ, liên kết câu cịn hạn chế. Để góp phần khắc phục tình trạng trên đây, trong q
trình giảng dạy, tơi đã rất quan tâm nghiên cứu, thực hiện các giải pháp để nhằm
nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn. Từ trong q trình tổ chức thực hiện,
ứng dụng có kết quả, bản thân tôi đã tổng kết thành đề tài : “Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn Tập làm văn.”
II. Nội dung cơ bản của sáng kiến:
1. Cơ sở:
a. Cơ sở lý luận:



2
Mơn Tập làm văn ngồi việc trang bị kiến thức và rèn luyện các kĩ năng làm
văn cho học sinh, nó cịn góp phần cùng các mơn học khác mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy lô-gic, tư duy trừu tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ và
hình thành nhân cách cho học sinh. Để đạt được mục tiêu này, giáo viên cần làm
cho học sinh hiểu rõ được quan niệm: Muốn học có kết quả mơn Tập làm văn thì
học sinh phải chịu khó tập dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn,... nhiều lần. Chú ý sửa
đi sửa lại câu văn, đoạn văn đã viết. Bản thân giáo viên cũng cần kiên trì hướng
dẫn học sinh luyện tập và giúp các em sửa chữa kịp thời các sai sót. Đây cũng
chính là cơ sở để thực hiện các biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm

văn lớp 3.
b. Cơ sở thực tiễn:
Phân môn Tập làm văn lớp 3 cũng giống như phân môn Tập làm văn ở Tiểu
học nói chung có nhiệm vụ rèn cho học sinh kĩ năng biết tạo lập văn bản, rèn 4 kĩ
năng: nghe, nói, đọc, viết. Có thể nói Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn
luyện tổng hợp, có tính chất tích hợp các phân mơn khác trong môn Tiếng Việt.
Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết
phù hợp với đề bài.
Ngơn ngữ giữ vai trị quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính
vì vậy hướng dẫn cho học sinh nói đúng, viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ
đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm
văn nói riêng.

Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các
phân mơn của mơn Tiếng Việt, rất nhiều học sinh không hứng thú học tiết học này
một phần lớn do vốn từ còn hạn chế, khả năng diễn đạt chưa tốt, học sinh thường
ngại đọc các câu chuyện cổ tích hay các tác phẩm văn học để củng cố vốn từ, mà
ngược lại chỉ thích đọc truyện tranh. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động
học tập, do vốn từ còn hạn chế, khả năng tư duy ngơn ngữ và kĩ năng giao tiếp của
các em cịn nhiều lúng túng nên học sinh cịn ngại nói vì vậy tiết học chưa đạt hiệu
quả cao. Kết quả làm văn của các em chưa đáp ứng được yêu cầu.
Với vai trò là một giáo viên đang dạy Tiểu học, trăn trở trước những khó
khăn, hạn chế vừa nêu trên, bản thân tơi tự nhận thấy mình cần phải nghiên cứu,
học hỏi thêm rất nhiều để mỗi giờ dạy Tập làm văn của mình ngày càng đạt hiệu
quả cao, thu hút, khơi gợi được năng lực làm văn của từng học sinh.

2. Thực trạng (đánh giá thực trạng/ thực tế, thuận lợi, khó khăn):
a) Thực trạng:
- Tập làm văn là một trong những phân mơn có vị trí quan trọng của mơn
Tiếng Việt. Phân mơn này địi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng
hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ


3
năng: nghe - nói - đọc - viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt, về cuộc
sống thực tiễn.
- Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo văn bản,
trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng

Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, tập làm văn được coi là phân mơn có
tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các mơn học khác. Trên cơ sở nội dung,
chương trình phân mơn tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên địi hỏi tiết dạy Tập
làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của
thầy (cơ), học sinh cần có vốn kiến thức, ngơn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì
vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà cịn
là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết, cách hành văn cho học sinh.
b)Thuận lợi:
+ Giáo viên:
- Trong việc thực hiện đổi mới Chương trình sách giáo khoa bậc Tiểu học,
do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện
cho học sinh khả năng trình bày văn bản nói – viết ở nhiều thể loại khác nhau. Vì

vậy, giáo viên luôn không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp dạy học phù hợp
mục tiêu dạy và học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành những bài văn nói –
viết một cách độc lập, sáng tạo.
- Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học.
Với mỗi loại bài tập, giáo viên đã nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ
chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh
đó, giáo viên ln động viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng tượng, óc
sáng tạo. Từ đó kích thích được sự tìm tịi ham học hỏi ở học sinh, hình thành thói
quen học tập tốt phân mơn Tập làm văn.
- Để giúp học sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú, sáng
tạo giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh nói tốt sẽ
trình bày bài viết tốt.

- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: xem đài, đọc sách báo, tài liệu…
giáo viên thường xuyên được tiếp cận với việc đổi mới phương pháp.
+ Học sinh:
- Ở lứa tuổi học sinh lớp ba, các em rất ham tìm tịi học hỏi.
- Nội dung chương trình mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm
văn nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù
hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em.
- Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng tạo lập văn bản, kể chuyện, miêu
tả từ các lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn lớp ba.


4

c) Khó khăn:
+ Đối với giáo viên:
- Tiếng việt là mơn học khó, nhất là phân mơn Tập làm văn địi hỏi người
giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần phải có vốn kiến thức sống
thực tế, người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy.
Biết gợi mở óc tị mị, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói
viết thành văn bản, ngơn ngữ quả khơng dễ.
+ Đối với học sinh:
- Học sinh lớp 3 vốn ngơn ngữ của các em chưa nhiều: các em cịn mãi chơi
nhiều hơn học. Việc tiếp thu bài còn thụ động theo cách truyền tải của giáo viên
nên nó ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em.
- Môn tập làm văn là một mơn khó, nhiều em cịn ngại học văn, lười suy

nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài qua loa cho xong. Cách
dùng từ đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý.
- Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn
ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin
trong học tập.
- Chính vì những lý do trên nên việc học văn ở lớp Ba còn hạn chế. Trong
tiết “Nghe - kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được chuyện mặc dầu chuyện
đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở
SGK thì các em diễn đạt cịn lúng túng nhất là những học sinh chậm khơng nói
(viết) được bài.
3. Các biện pháp đã tiến hành:
Trong một tiết Tập làm văn giáo viên không chỉ áp dụng duy nhất một

phương pháp dạy học mà cần phải vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp với
nhiều hình thức tổ chức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực học tập của học
sinh để cuối cùng đạt được mục đích đó là học sinh hiểu bài và làm được bài.
Sau đây là những biện pháp mà tôi đã vận dụng trong các tiết Tập làm văn
của lớp mình :
*Giải pháp 1 : Hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn
- Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh khác nhau nên đa số bài văn
của học sinh lớp 3 có ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày
hạn hẹp trong khn khổ nhất định. Giáo viên cần giúp các em tìm ý để thực hành
một bài văn nói - viết hồn chỉnh về nội dung với những ý tưởng trong sáng giàu
hình ảnh và ngây thơ chân thật. Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽ hướng dẫn
học sinh một cách chặt chẽ từ sự liên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Từ đó

học sinh dễ dàng tìm ý và diễn đạt bài văn rõ ràng, mạch lạc hơn.


5
a/Hướng dẫn học sinh biết hồi tưởng:
- Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào đó, học sinh có thể qn một
số hình ảnh, sự việc… mà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên
khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ, hình ảnh thực tế có liên
quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp với thực tế và trình độ học sinh để các em dễ
dàng diễn đạt được đúng yêu cầu của đề tài.
- Ví dụ: Ở tuần 8 bài “Kể về một người hàng xóm mà em yêu quý”, giáo
viên gợi ý người đó làm nghề gì? Bao nhiêu tuổi? Cơng việc em thường thấy là gì?

b/Hướng dẫn học sinh tưởng tượng, liên tưởng dựa trên kết quả đã quan sát:
- Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng
những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm
như thế tuy đủ ý nhưng khơng có sức hấp dẫn, lơi cuốn người đọc, người nghe. Vì
vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh
liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí
qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày
bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo.
Ví dụ: Ở tuần 17 : Kể về thành thị, nông thôn
- Xem ảnh một bức tranh thành thị, có học sinh nói:“Thành phố nơi mình
sống rất sầm uất, nhiều nhà cao tầng.” Cũng có học sinh khác nói:“Thành phố có
rất nhiều cửa hàng, cửa hiệu với các loại hàng hóa phong phú, đa dạng.”

- Như vậy, cùng một tấm ảnh chụp nhưng mỗi học sinh lại có các cách liên
tưởng khác nhau. Trí tưởng tượng ở học sinh lớp 3 rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ
nghĩnh, hơn nữa các em cũng đã được học về phép so sánh, nhân hóa cho nên cách
liên tưởng của các em rất thú vị. Ngoài ra giáo viên có thể đưa thêm một số hình
ảnh về các thành thị, nơng thơn khác để học sinh có thể tưởng tượng và viết được
đúng yêu cầu, rõ ràng các ý của bài văn viết về thành thị, nông thôn.
- Với phương pháp hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn giúp học sinh nắm
được mục đích yêu cầu của bài, chủ động trao đổi với bạn, tích cực giơ tay trình
bày khi nói, viết bài cũng mạch lạc, rõ ràng hơn.
*Giải pháp 2: Rèn kĩ năng diễn đạt khi nói và viết cho học sinh.
a) Rèn kĩ năng nói cho học sinh:
- Do tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp 3 và khả năng sử dụng từ ngữ, khả năng

giao tiếp của các em trước đám đông chưa được tự tin, mạch lạc, cịn nhiều sai sót
về kĩ năng nói như: nói nhỏ, ấp úng, ngọng, nói lặp từ, nói ê a…Các ý văn rời rạc,
khơng thốt ý khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu, khơng hiểu được nội dung
văn bản. Vì vậy tơi u cầu học sinh trình bày bài nói theo các bước sau:


6
+ Bước 1: Nói dưới hình thức trả lời theo các câu hỏi gợi ý (dành cho những
học sinh trung bình)
+ Bước 2: Nói gộp từ 2 – 3 câu hỏi một lúc, có liên kết các câu với nhau
(dành cho học sinh khá)
+ Bước 3: Nói thành bài văn (dành cho học sinh giỏi)

- Khi học sinh nói tơi nhắc các em khác tập trung theo dõi, lắng nghe, tơn
trọng người nói để cho bạn trình bày khơng bị mất bình tĩnh, nói được liền mạch,
học sinh có thể theo dõi được lời nói của bạn trên cơ sở đó các em phát hiện ra
những lỗi sai để sửa giúp bạn. Ngồi ra khi bạn nói thì các em có thể học tập
những câu văn hay, sáng tạo để vận dụng vào bài làm của mình.
b) Rèn kĩ năng viết cho học sinh:
- Nói được là sẽ viết được. Tuy nhiên giữa nói và viết một văn bản cũng có
sự khác nhau. Khi nói, học sinh có thể được phép ê a, sử dụng các từ :“à, ờ, thì, là,
mà…”nhưng khi viết không cho phép học sinh sử dụng các từ như vậy, mỗi câu
văn cần phải rõ ý, đủ thành phần chính của câu. Ngồi ra, giáo viên cần hướng dẫn
cho học sinh cách trình bày một bài viết, cách dùng từ ngữ, viết câu chính xác, các
ý diễn đạt có thứ tự hợp lý. Giáo viên cần phải khuyến khích, động viên, ghi nhận

những học sinh có ý tưởng hay, bài viết sáng tạo để khen ngợi và nhân rộng đối với
học sinh khác. Ngoài việc chú ý về nội dung , khi viết cũng cần chú ý tới hình thức
trình bày, nhắc nhở học sinh về chữ viết, lỗi chính tả. Một bài văn viết tốt phải đảm
bảo cả hai tiêu chí: nội dung và hình thức.
*Giải pháp 3: Tìm hiểu nội dung câu chuyện và kể lại trong dạng bài
Nghe – kể ở phân môn Tập làm văn Lớp 3
- Đây là một dạng đề khá khó trong chương trình tập làm văn lớp 3. Ngữ
liệu học tập của dạng đề này phần lớn là các chuyện vui nên năm học này Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành chương trình giảm tải nhằm bỏ bớt một số bài tập
không yêu cầu học sinh thực hành (Phần này đã được nêu ở trên). Trong sách giáo
viên, hầu hết các tiết dạy dạng đề này được triển khai theo cùng một hướng như
sau:

+ Giáo viên kể chuyện 2 hoặc 3 lần.
+ Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý chi tiết để học sinh làm điểm tựa nhớ lại
nội dung chuyện.
+ Một vài học sinh kể: Học sinh kể theo nhóm; Đại diện vài nhóm học sinh
kể lại chuyện trước lớp.
- Để hoạt động của tiết học dạng đề trên đa dạng hơn, học sinh vui và tích
cực học hơn, giờ học có hiệu quả hơn nhất là những học sinh trung bình và yếu.
Tơi xin đề nghị thêm một số phương án dạy học như sau:


7
Cách 1:

- Cho học sinh xem tranh và đoán nội dung chuyện. Giáo viên ghi vài điều
cơ bản (nhân vật, một vài sự kiện) mà học sinh đoán được lên bảng (cho học sinh
làm việc tồn lớp hay nhóm).
- Học sinh nghe giáo viên kể chuyện hai lần.
- Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung
mình đã đốn để điều chỉnh những điều đã đươc ghi trên lớp (cho học sinh làm vào
phiếu học tập).
- Học sinh trao đổi về một vài điều thú vị trong chuyện hay ý nghĩa của
chuyện.
- Học sinh kể lại chuyện theo cặp (theo nhóm)
- Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)
- Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.

Ví dụ: Nghe kể lại câu chuyện: Dại gì mà đổi (BT1-TV3 - tập 1- tr36)
- Nội dung câu chuyện trong SGV – TV3 – tập 1 - tr103
1.Chuẩn bị
- Tranh vẽ ở SGK phóng to
- Phiếu bài tập: Em hãy xem tranh và đoán thử xem nội dung chuyện theo
bảng sau và điều chỉnh lại khi nghe chuyện.
Câu hỏi gợi ý

a. Thử đoán nội dung

b. Điều chỉnh nội
dung khi nghe kể


Câu chuyện có mấy nhân vật

.................................

................................

Họ đang làm gì?

..................................

................................


Người mẹ đã nói với con điều gì? ..................................
người con trả lời mẹ ra sao?
……………………...

................................

Kết quả câu chuyện như thế
..................................
nào?

................................


……………………

2. Cách tiến hành:
- Giáo viên treo tranh vẽ trên bảng, chia nhóm học sinh và phát phiếu học
tập cho các nhóm, cho học sinh đọc yêu cầu của bài tập ghi trên phiếu và tiến hành
làm bài tập a.


8
- Giáo viên theo dõi và gọi đại diện các nhóm nêu một số ý và giáo viên ghi
lên bảng.

- Giáo viên kể chuyện 2 lần (nội dung chuyện có trong SGV) học sinh đối
chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đốn để điều
chỉnh ở phần b của bài tập.
Ví dụ:
Câu hỏi gợi ý
Câu chuyện
mấy nhân vật
Họ đang làm gì?



a. Thử đốn nội dung


b. Điều chỉnh nội dung khi nghe
kể

Chuyện có hai nhân vật

Chuyện có hai nhân vật

Họ đang nói chuyện vớiNgười mẹ dọa sẽ đổi cậu bé để lấy
nhau
một đưa con ngoan về ni.


Người mẹ nói sẽ đối con để lấy đứa
Người mẹ đã nói
con ngoan về ni. Người con trả
Người mẹ nói với con phải
với con điều gì?
lời với mẹ là mẹ chẳng bao giờ đổi
ngoan, nghe lời mẹ. Người
người con trả lời
được đâu vì khơng ai dại gì mà đổi
con ngồi im lặng.
mẹ ra sao?
đứa con ngoan lấy đưa con nghịch

ngợm cả.
Kết
quả
câu
Người con khơng nghe lờiDại gì mà đổi một đứa con ngoan
chuyện như thế
mẹ
lấy một đứa con nghịch.
nào?
- Giáo viên bao quát lớp, kèm cặp thêm cho học sinh trung bình và yếu
- Cho học sinh trao đổi về một điều thú vị trong truyện hay nêu ý nghĩa
chuyện: câu chuyện buồn cười ở chỗ nào? (Chuyện buồn cười vì cậu bé nghịch

ngợm mới 4 tuổi cũng biết rằng không ai muốn đổi một đứa con ngoan lấy một đứa
con nghịch ngợm.) Giáo viên chốt lại nội dung: Không ai dại gì mà đổi một đứa
con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm cả.
- Cho học sinh kể lại chuyện theo nhóm.
- Đại diện nhóm kể lại trước lớp. Học sinh nhận xét bổ sung, giáo viên nhận
xét chung.
Cách 2: Giáo viên kể một phần đầu của câu chuyện sau đó đặt câu hỏi đề
nghị học sinh đốn sự kiện gì có thể xảy ra tiếp theo. Giáo viên ghi một vài ý học
sinh đoán lên bảng.
- Học sinh nghe giáo viên kể tiếp rồi trao đổi đối chiếu điêu được nghe với
điều đã đoán để điều chỉnh phần được ghi trên bảng.



9
- Giáo viên kể lại chuyện 2 lần đề nghị học sinh nêu thêm một số tình tiết
nữa phần đầu của truyện (ở hoạt động này giáo viên có thể dùng thẻ từ ghi các sự
kiện thể hiện trong phần đầu của ttruyện và học sinh chọn đưa vào dàn ý đã có trên
bảng).
- Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị trong chuyện.
- Học sinh kể lại chuyện (theo nhóm hay cặp)
- Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp.
- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung và nhận xét chung.
Ví dụ minh hoạ: Nghe kể lại chuyện: Dại gì mà đổi. (BT1-TV3 - tập 1tr36)
Nội dung câu chuyện trong SGV – TV3 – tập 1 - tr103

1.Chuẩn bị: Tranh vẽ ở SGK phóng to
2.Cách tiến hành:
- Giáo viên treo tranh vẽ lên bảng
- Giáo viên kể phần đầu của chuyện kết hợp chỉ tranh: “Có một cậu bé 4 tuổi
nhưng rất nghịch ngợm. Một hôm, mẹ cậu doạ sẻ đổi cậu để lấy một đứa trẻ ngoan
về nuôi.”
- Giáo viên hỏi: Các em thử đoán xem cậu bé trả lời như thế nào?
- Giáo viên ghi một vài ý học sinh đốn lên bảng:
Ví dụ :
+ Cậu bé òa khóc.
+ Cậu bé hét lên.
+ Cậu bé mừng rỡ.

+ Cậu bé không đồng ý đổi.
- Giáo viên kể tiếp câu chuyện và cho học sinh đối chiếu điều được nghe với
điều đã đoán để điều chỉnh phần ghi ở bảng.
- Giáo viên kể chuyện lần 2, đề nghị học sinh nêu lên một số tình tiết nửa
phần đầu của chuyện. Giáo viên có thể đưa lên một số thẻ từ ghi một số tình tiết
của chuyện.
Ví dụ:
+ Mẹ sẽ chẳng đổi được đâu!
+ Vì sao thế?
+ Chẳng ai muốn đổi đứa con ngoan để lấy đứa con nghịch.



10
- Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị của chuyện
- Học sinh kể lại chuyện (theo nhóm hay cặp) kết hợp câu hỏi gợi ý ở SGK.
- Đại diện vài nhóm học sinh kể trước lớp.
- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.
Cách 3:
- Giáo viên kể chuyện lần 1 kết hợp hướng dẫn học sinh nắm các nhân vật có
trong chuyện.
- Giáo viên kể lần 2, học sinh nghe rồi hồn thành các sự kiện trong các
khung cịn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu (có thể cho học sinh làm
việc theo nhóm hay theo cặp đơi) có thể đánh số hay vẽ mũi tên. Giáo viên có thể
để trống tất cả các ơ hoặc viết sẵn ý trong một vài ô. Các ô khác học sinh nghe rồi

hồn thành. Sơ đồ trình tự câu chuyện như sau:
Sau khi hồn thành sơ đồ trình tự câu chuỵện, học sinh trao đổi sửa chữa.
- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm (hay
cặp).
- Đại diện nhóm kể lại trước lớp.
- Học sinh trao đổi ý nghĩa câu chuyện, cả lớp theo dõi nhận xét, giáo viên
bổ sung nhận xét chung.
Ví dụ minh hoạ: Nghe - kể lại chuyện: Không nỡ nhìn.(BT1- SGK - TV3 Tập 1 - Tr.61)
- Nội dung câu chuyện trong SGV – TV3 – tập 1 - tr103
1.Chuẩn bị :
- Tranh vẽ ở sách giáo khoa phóng to
- Phiếu học tập: Sơ đồ trình tự câu chuyện

2.Cách tiến hành:
- Giáo viên kể chuyện lần 1 và hỏi học sinh: Câu chuyện có mấy nhân vật?
Ở đâu?
- Học sinh sẽ trả lời:
+ Câu chuyện có hai nhân vật.
+ Chuyện xảy ra trên chuyến xe buýt.
- Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện
trong khung cịn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập.(Học sinh
hoạt động theo nhóm 4)
Ví dụ:



11
- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm.
- Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp.
- Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung.
- Cho học sinh trao đổi về tính khơi hài của chuyện: Anh thanh niên trên
chuyến xe buýt không biết nhường chổ cho người già, phụ nữ mà lại che mặt và
giải thích rất buồn cười là khơng nở nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.
- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên
trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì?
- Giáo viên nhận xét chung .
Cách 4: Giáo viên kể chuyện một lần và đề nghị học sinh cho biết: câu
chuyện có mấy nhân vật? giáo viên phác hoạ hình các nhân vật đó lên bảng (bằng

cách vẽ ơ trịn và trên đó ghi tên nhân vật)
* Một số lưu ý khi dạy dạng bài trên:
- Có rất nhiều cách để tiến hành giờ học dạy dạng bài “Nghe - kể lại
chuyện”. Giáo viên có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh để chọn cách
dạy phù hợp nhất.
- Cho dù dạy theo cách nào, giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị bài trước
(Tranh ảnh phục vụ nội dung chuyện hoặc xây dựng mạch câu chuyện: Phiếu bài
tập) để giờ học sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh hơn.
- Chú ý giao việc cho học sinh rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động nhóm và nên
theo dõi kèm cặp thêm cho học sinh trung bình và yếu, tạo cho các niềm tin, mạnh
dạn hơn trong học tập.
*Giải pháp 4: Tập cho học sinh cách kể hay nói, viết về một chủ đề ở

phân mơn Tập làm văn Lớp 3
Mục đích: Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh
kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị
hoặc nơng thơn; Kể về gia đình ; Kể về một buổi thi đấu thể thao...
Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng
đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết minh
và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được tiến
hành theo một trình tự như sau:
- Giáo viên giới thiệu bài
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ Giáo viên cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ

thống câu hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.


12
+ Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét.
- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
- Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài u cầu cả nói và viết.
Theo tơi khi dạy dạng đề này ngoài phương án được nêu trên trong sách giáo
viên, giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa để giúp học sinh tìm kiếm và phát
triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện

pháp dạy học cụ thể - Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho
học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm
văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hố tối đa hoạt động nói và viết của
học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ
bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ
sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng
và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong SGK.
* Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:
Hoạt động 1 : Tìm hiểu đề:
- Học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời
biết đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề. Trong trường
hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng.

- Để thực hiện hoạt động này giáo viên có thể sử dụng một trong các bước
sau:
+) GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng,
+) Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.
+) Kể một mẫu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến đề tài.
+) Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học
sinh tự sưu tầm.
+) Cho học sinh tơ màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên
cung cấp) liên quan đến đề tài.
+) Sử dụng mơ hình (khung ngơi nhà, khung ngơi trường ...). Trên nền
khung giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào .
+) Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm

của học sinh.
Hoạt động 2: Tìm ý:


13
- Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung
chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy. Khi tiến hành
hoạt động này giáo viên cần sử dụng một trong các bước sau:
+ Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát
triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh
nghiệm riêng của các em.
Ví dụ: Đối với văn miêu tả, câu hỏi có thể được triển khai theo hướng mở

sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? Em cảm thấy gì?...
+ Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh
suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được
trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài: Bơng hoa,
chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...
+ Đối với học sinh lớp lớn đã quen với việc sử dụng mạng, giáo viên nên để
các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh.
+ Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo viên
tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã được ghi
lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân trong
phiếu học tập thì trên bảng chỉ cịn lại khung mạng trống.
Hoạt động 3: Lập dàn ý: Sắp xếp ý đã có trong mạng.

- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự
chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tích chất mở (đoạn văn miêu tả
thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả
chi tiết, cụ thể thì nói sau).
- Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để
cả lớp theo dõi việc làm mẫu của một số học sinh. Ngoài khung mạng làm mẫu,
giáo viên vẽ sẵn trên bảng các mạng tương tự và che chúng lại. Sau khi học sinh đã
tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên
thể hiện lại ý của mình vào các khung mạng trên bảng.
Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới
dạng nói hay viết:

- Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của
mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đơi là
tốt nhất.
- Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ xoay
quanh mạng ít nhất một câu.


14
- Hình thành và phát triển “mơi trường tư liệu ở lớp học” để giúp học sinh có
điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi tìm ý và ý thành bài:
+ Thu nhập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới

thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
+ Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu nhập
danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.
+ Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ
hay trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.
Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:
- Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức trao
đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và
thể loại của đề bài .
- Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo
hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa)
Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hồn

chỉnh.
Ví dụ minh họa:
+ Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92)
1.Chuẩn bị: Phiếu học tập
a. Hoàn thành bảng dưới đây:
Tên bài đọc Quê hương là...
Giọng
hương

quê ..................................
..................................


Quê hương

..................................
..................................

Chi tiết làm em xúc động nhất
.....................................................................
.....................................................................

Đất quý, đất ..................................
yêu
..................................


.....................................................................

quê ..................................
..................................

.....................................................................

Vẽ
hương



15
Chõ bánh ..................................
khúc của dì
..................................
tơi

.....................................................................

b. Đánh dấu (X) trước mỗi câu nếu em đồng ý.
Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
+ Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên.

+ Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
+ Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương.
c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì
đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành:
Hoạt động 1 : Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thơng tin ý
tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh
hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
- GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu
kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài
tập.

Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong
khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình
đang nghĩ tới.
- GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích
thích học sinh hồi tưởng.
- HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bìa phụ ghi vào
khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của
mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưu ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)
Ví dụ:
ngơi nhà

vườn bách thú


thành phố

con sông

Quê hương em

cây đa, giếng nước


16


nông thôn

đường phố

nhà cao tầng

Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng dẫn
các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
- GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để giúp các em
điều chỉnh.
Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói: Cho hai em nói mẫu trước
lớp.

Ví dụ :
+ Em sinh ra và lớp lên ở nông thôn. Quê hương em thật là đẹp. Ở đó có cây
đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngơi nhà
em là con sơng q hương. Em rất thích tắm mình dưới con sơng ấy khi mùa hè
đến. Em yêu quê hương của mình.
+ Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà
cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em
thường được bố mẹ dẫn đi xem vườn bách thú, được ngồi trên lưng chú voi con.
Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.
- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5 : Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc
biệt lưu ý giúp học sinh yếu.

Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp:
- GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp ( khơng nhìn mạng ý nghĩa).
Nếu là học sinh yếu, GV cho học sinh nhìn mạng để nói.
- Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về q hương mình. Khuyến
khích HS tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. GV nhận xét chung.
+Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1-TV3 -tập1- tr 28)
Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói: Kể được
một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.
1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm cơng việc gì?Tính
tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?
2.Cách tiến hành :
Hoạt động 1:

- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu
của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.


17
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những
từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
- Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. Học sinh đọc thầm và hồi tưởng.
- Học sinh làm vào giấy nháp. Giáo viên gọi đồng thời hai em làm vào bảng
phụ, ghi vào khung chủ đề cụm từ “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng
nào của mình có được xung quanh chủ đề đó.
Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự

1,2,3...
- Giáo viên bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp
các em điều chỉnh.
Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói
- Giáo viên gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.
Ví dụ: Gia đình mình có 5 người : Bố mẹ tớ, anh Thắng, chị Hà và tớ. Bố tớ
là công nhân nhà máy dệt. Mẹ tớ làm nhân viên bán hàng tại siêu thị. Anh Thắng,
chị Hà đều là học sinh. Mẹ tớ rất hiền. Những lúc nhàn rỗi, mẹ tớ thường kể
chuyện cho tớ nghe. Lúc nào về nhà, bố cũng mua quà cho anh em chúng tớ. Gia
đình tớ rất hạnh phúc.
- Cả lớp nhận xét,giáo viên sữa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu sai).
- Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 3,

chúng ta sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một
phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo
viên cũng phải suy nghĩ, tìm tịi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của
từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần phải đảm bảo đúng kiến
thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh tiếp
nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.
- Ví dụ khi dạy đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92), các
bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy như sau thay cho
việc sử dụng mạng ý nghĩa:
Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ
cho đề bài) để hoàn thành bài nói về q hương dễ dàng hơn.
Ví dụ 1: Quê hương em ở thành phố. Ở nơi đây có nhiều nhà cao tầng, xe cộ

đơng đúc, náo nhiệt. Những ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem cơng
viên, đi siêu thị ăn kem thật là thích. Em rất u q hương của mình.
Ví dụ 2: Nơng thôn là nơi em sinh ra và lớn lên. Quê hương em thật là đẹp.
Ở nơi đây có những con đị chạy trên những dịng sơng. Đầu làng có giếng nước
trong veo, cây đa cổ thụ tỏa bóng che mát cả một vùng. Những ngày hè nóng nực,


18
em thường được bố mẹ dẫn đi tắm mát dưới dịng sơng. Em u q nơi này biết
bao.
Hoặc khi dạy bài: Kể về gia đình (BT1-TV3 - tậpI - tr 28), giáo viên thực
hiện các bước như sau:

- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu
của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những
từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh
biết một số từ ngữ liên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ
và hồi tưởng.
- Học sinh ghi vào giấy nháp về gia đình mình.
- Giáo viên gọi một vài em kể về gia đình mình cho cả lớp nghe.
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
* Lưu ý: Học sinh lớp 3 tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ
phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn chỉnh.

Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, giáo viên nên chuẩn bị bản
đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa áp dụng vào giảng dạy. Đối với những học sinh
khá giỏi, giáo viên cũng có thể hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy trong một số
bài học nhưng không yêu cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản
đồ tư duy phục vụ cho bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để
các em hồn thành, tránh tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu
ra.
*Giải pháp 5 : Tổ chức trị chơi
Tâm lí học sinh Tiểu học thích “học mà chơi, chơi mà học”. Vì thế, tơi
thường xun tổ chức trị chơi cho các em nhằm tạo sự hứng thú trong học tập.
Qua đó, củng cố, khắc sâu kiến thức bài học đồng thời giúp học sinh ghi nhớ một
cách tích cực hơn. Tùy hình thức trị chơi, tơi bố trí vào một thời điểm thích hợp

trong tiết học. Tuy nhiên, phần lớn các trị chơi tơi thường tổ chức ở phần củng cố.
Ví dụ : Bài : Viết về cảnh đẹp đất nước.(tuần 12)
Giáo viên ghi một số từ, cụm từ trên tấm bìa, xếp lộn xộn.
Hót líu lo / mấy chú chim / trong tán lá / ẩn mình.
Màu xanh sáng / những lá già / còn những lá non / màu xanh đậm.
Yêu cầu học sinh lên xếp tạo thành câu đúng, phù hợp.


19
Giáo viên gọi 8 em chia thành 2 nhóm lần lượt lên xếp, mỗi em xếp một tấm
bìa, mỗi nhóm 4 em xếp được 1 câu. Nhóm nào xếp đúng, nhanh nhóm đó thắng
cuộc.

Như vậy, thơng qua trị chơi này, học sinh có thêm vốn kiến thức (ít nhất
được 2 câu văn mẫu để làm tư liệu) góp phần làm giàu vốn kiến thức về văn học
cho học sinh.
- Mấy chú chim ẩn mình trong tán lá hót líu lo.
- Những lá già màu xanh đậm còn những lá non màu xanh sáng.
*Giải pháp 6: Dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh
trong việc tìm hiểu nội dung đề bài.
Ở mỗi đề bài Tập làm văn , giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu
cầu các bài tập. Việc nắm vững yêu cầu giúp học sinh khi thực hành đi đúng
hướng, không bị lạc đề. Bên cạnh việc nắm vững yêu cầu, giáo viên còn cần giúp
học sinh nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý. Các câu hỏi gợi ý này sắp xếp hợp lí
như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau

đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu
gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó giúp các em trình bày đoạn
văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm vững nội
dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo,
khơng có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn.
Ví dụ: Tuần 8:“Kể về một người hàng xóm mà em q mến” tơi cho học
sinh xác định rõ yêu cầu của đề bài là kể về người hàng xóm. Sau đó tơi định
hướng cho học sinh tìm hiểu các câu hỏi gợi ý bằng cách hỏi học sinh:
- Người đó tên là gì, bao nhiêu tuổi?
- Người đó làm nghề gì? ( kĩ sư, nơng dân, cơng nhân, giáo viên, bác sĩ, bán
hàng, nội trợ,…)
- Tình cảm của gia đình em đối với người hàng xóm như thế nào? ( thân

thiết, quan tâm, chia sẻ hay gặp gỡ…)
- Tình cảm của người hàng xóm đối với gia đình em như thế nào?
*Giải pháp 7: Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá
- Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá cũng là một trong những yêu cầu
đặt ra cho giáo dục Tiểu học hiện nay. Việc chữa bài của học sinh khơng chỉ có duy
nhất giáo viên làm mà cần để cho học sinh được tự kiểm tra, đánh giá cho nhau.
Thông qua việc kiểm tra đánh giá bài của bạn, các em sẽ phát hiện ra những sai sót
để sửa chữa, đồng thời phát hiện ra những từ, những ý, những câu hay của bạn để
học hỏi. Để làm tốt khâu này , giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để


20

học sinh có cơ sở lắng nghe và nhận xét bài của bạn. Từ nhận xét, học sinh có thể
tự chữa lỗi hoặc giúp bạn chữa lỗi theo các hướng sau đây:
a. Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về từ:
- Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp,
nghĩa của từ chưa hay hoặc từ thơng dụng địa phương…
Ví dụ : “Sáng sớm, mọi người ùa nhau ra đường đi làm, đi học” GV giúp HS
thấy được dùng từ “ùa” ở đây là khơng phù hợp với ngữ cảnh, sau đó cho HS tìm
ra từ hợp lý hơn để thay thế.
b. Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về câu:
- Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu văn dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc
cần cho học sinh sửa sai lược bỏ ý dư, ý trùng lặp. Giáo viên khuyến khích học

sinh tự sửa câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.
Ví dụ : “Người hàng xóm mà em kể là cô Thu. Cô Thu năm nay 37 tuổi. Cô
Thu làm nghề giáo viên. Cô Thu mỗi ngày đều đến lớp sớm để soạn bài dạy cho
các em học sinh. Cô Thu rất thương yêu học sinh và rất thương em. Mỗi ngày, cô
đều qua nhà và dạy em các bài em chưa hiểu. Em rất quý cô.” Giáo viên hướng dẫn
học sinh lược bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế cho từ “cô Thu” để tránh lặp
từ quá nhiều trong bài.
c. Hướng dẫn phát hiện lỗi về hình thức một đoạn văn :
- Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn, nếu học sinh trình bày đủ nội dung
theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em đạt yêu cầu về nội dung, cịn về hình thức,
một số em cịn tự do xuống dịng, chưa đúng u cầu về hình thức của một đoạn
văn, điều này giáo viên cũng rất cần lưu tâm.

d. Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi về sự chặt chẽ liên kết trong đoạn
văn
Ví dụ : Với gợi ý: Kể lại buổi đầu em đi học, từng gợi ý phần mở đoạn có rời
rạc, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể khơng theo
trình tự từng ý nhưng vẫn đảm bảo nội dung và làm cho phần mở đầu đoạn sinh
động, lôi cuốn người đọc hơn. Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mở đầu
đoạn văn để nói hoặc kể một cách sáng tạo.
- Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích
học sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như:
“đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng” để đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục
từng ý với nhau. Do đặc điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh không
đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn văn viết;

vì vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn dễ hiểu, có thể cho học
sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình.


21
- Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu
chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong
phú sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế cịn vấp phải trong bài viết. Từ đó
học sinh có sự suy nghĩ đểsửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết của mình
một cách hợp lí và sáng tạo.
*Giải pháp 8: Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác trong nhà
trường để thực hiện tốt việc dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3.

- Với việc phối kết hợp với các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường là
việc cần thiết trong dạy và học phân môn Tập làm văn Lớp 3. Nhằm giúp các em
có thêm vốn hiểu biết thực tế để vận dụng linh hoạt vào viết văn theo đúng u cầu
của đề bài.
Ví dụ:
+ Đối với cơng tác Đội của nhà trường: Giáo viên tổng phụ trách sẽ tổ chức
cho học sinh tham gia các tiết hoạt động tập thể theo các chủ đề như: tìm hiểu về
các lễ hội và hoạt động có trong lễ hội; Các buổi biểu diễn văn nghệ chào mừng
các ngày lễ như: ngày khai giảng, ngày 20/11, ngày Giỗ tổ Hùng Vương,....Tất cả
những hoạt động trong tiết hoạt động tập thể mà các em được quan sát, tìm hiểu
thực tế cuộc sống sẽ là tư liệu để học sinh có thể vận dụng vào viết bài văn theo đề
bài như: Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật mà em được xem, Kể về một ngày

hội mà em biết,...
+ Với môn Thể dục: Giáo viên bộ môn sẽ cho học sinh được học hỏi, quan
sát và tham gia thi đấu các môn thể thao như: kéo co, nhảy dây, bóng rổ, bóng ném,
bóng đá,...để từ đó hình thành cho học sinh có sự hiểu biết về các môn thể thao và
biết vận dụng linh hoạt vào viết bài văn theo đề bài: Viết về một trận thi đấu thể
thao. Chính nhờ sự quan sát thực tế một trận thi đấu thể thao qua tiết thể dục thì
học sinh mới có thể viết được linh hoạt về một trận thi đấu thể thao mà mình đã
được xem.
 Tính mới của sáng kiến:
- Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này đã tiến
hành trong thời gian dài, được bản thân rút kinh nghiệm qua q trình giảng dạy
các mơn học, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Những kinh nghiệm tích luỹ được

trong giảng dạy trong đó có sự tiến bộ của học sinh ở phân môn Tập làm văn, được
giáo viên ghi chép vào nhật kí dạy học. Những kết quả giảng dạy được bản thân
thường xuyên cập nhật để so sánh, rút kinh nghiệm vào từng thời điểm trong năm
học và so sánh kết quả với những năm học trước. Từ đó đề ra những biện pháp để
giảng dạy đạt kết quả cao hơn.
- Sáng kiến của tôi đã được nhiều đồng nghiệp viết, nhưng đề tài của tôi đã
mạnh dạn sử dụng 4 giải pháp mới như giải pháp 5: Tổ chức trò chơi; Giải pháp 6:
Dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc tìm hiểu nội dung


22
đề bài; Giải pháp 7: Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá; Giải pháp 8: Phối

hợp với các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường để thực hiện tốt việc dạy và
học phân môn Tập làm văn lớp 3. Trong q trình dạy, tơi đã vận dụng và mang lại
hiệu quả cao cho học sinh lớp tôi, giúp học sinh có hứng thú học tốt phân mơn Tập
làm văn hơn.
III. Hiệu quả:
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về việc dạy tập làm văn lớp 3 với dạng
bài: Nghe - kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ đề đã được triển khai tại
đơn vị chúng tôi. Kết quả thu được như sau:
- Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp 3, giáo viên
cảm thấy giờ học không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực
hành giao tiếp cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu
quả.

- Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh
nghe giáo viên kể chuyện trên lớp sau đó nhiều em đã kể lại trọn vẹn câu chuyện
trước lớp. Qua kiểm tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ nét.
- Ở các tiết học Tập làm văn, nhất là từ đầu học kỳ II, khi đã làm quen với
cách học này, học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất
là đối với những học sinh trung bình và yếu.
Qua thời gian vận dụng và thực hiện kinh nghiệm trên kết quả kiểm tra của
lớp tôi phụ trách trong năm học 2020 -2021 đã có những bước phát triển đáng kể
như sau:
- Đầu năm, tôi đã khảo sát chất lượng học phân môn Tập làm văn ở lớp 3/2
và thu được kết quả như sau:
Giỏi


Khá

Trung bình

Yếu

5 học sinh

10 học sinh

22 học sinh


3 học sinh

12,5 %

25 %

55 %

7,5 %

- Cuối học kì 1, lớp tơi đã thu được kết quả như sau:

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

15 học sinh

20 học sinh


5 học sinh

0 học sinh

37,5 %

50 %

12,5 %

- Vì được tổ chức dưới nhiều hình thức nên học sinh tham gia rất tích cực,
lớp học sinh động và học sinh ln phát huy được tính tích cực trong học tập.

- Học sinh ngày càng u thích giờ học hơn, khơng cịn chán ngán trong các
tiết học Tập làm văn. Với kết quả trên, tôi nhận thấy chất lượng học tập của học


23
sinh tiến bộ rõ rệt, số học sinh yếu cuối học kì 1 khơng cịn, số học sinh giỏi thì
tăng dần theo thời gian. Như vậy việc tổ chức dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng
đổi mới của tôi đã có kết quả khả thi.
IV. Bài học kinh nghiệm:
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với các dạng
bài tập: “Nghe - kể lại chuyện”; “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, theo tơi người
giáo viên phải có trách nhiệm cao trong cơng tác giảng dạy. Người giáo viên phải

tìm ra những biện pháp thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em
phát huy năng lực của bản thân mình. Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập
khoa học và một thái độ học tập đúng đắn, người giáo viên cần lưu ý một số việc
sau:
- Nắm vững nội dung chương trình mơn Tiếng việt lớp 3, đặc biệt là các bài
dạy Tập làm văn có trong chương trình để từ đó xâu chuỗi được các kiến thức cần
cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy.
- Chuẩn bị kỹ bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài.
- Trong từng tiết học cần vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy học
khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh đều hiểu và làm bài tập
được ngay tại lớp.
- Đối với các bài tập: “Nghe - kể lại chuyện”, giáo viên cần trau dồi giọng kể

của mình, đảm bảo âm lượng vừa đủ, kể đúng ngữ điệu, biết nhấn giọng khi cần
thiết đặc biệt là những câu chuyện có nhiều câu hội thoại.
- Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối tượng học sinh yếu
và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh khơng theo kịp bài để có biện pháp giúp
đỡ kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài học sau.
- Dạy Tập làm văn theo phương pháp "tích hợp - lồng ghép" các phân môn
trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức
phân môn Tập làm văn của các khối lớp.
- Động viên khen thưởng kịp thời để gây hứng thú học tập cho học sinh.
V. Kết luận:
- Với các phương pháp trên không chỉ áp dụng cho phân mơn tập làm văn
mà cịn có thể áp dụng cho nhiều môn học khác, chất lượng học tập sẽ được nâng

cao. Học sinh cảm nhận được mỗi ngày đến trường là một niềm vui, các em khơng
cịn lo sợ mỗi khi đến lớp.
- Đề tài này không dừng lại ở khối 3 mà có thể triển khai áp dụng vào các
khối lớp trong nhà trường, xây dựng tích hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa
các môn học.


24
- Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết
quả khả quan: học sinh tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh
phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh. Tiến hành khảo sát theo những tiêu chí ban
đầu đề ra đối với khối lớp 3.


Quận 6, ngày 22 tháng 2 năm 2021
Người viết

…………………..


25
NHẬN XÉT CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TRƯỜNG
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

.................................................................................................................................


×