Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.5 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
Mục lục
1. Cơ sở đề xuất giải pháp
1.1 Sự cần thiết hình thành giải pháp
1.2 Mục tiêu của giải pháp
1.3 Căn cứ đề xuất giải pháp
1.4 Phương pháp thực hiện, đối tượng và phạm vi áp dụng
1.4.1 Phương pháp thực hiện
1.4.2 Đối tượng và phạm vi áp dụng
2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp
2.1 Quá trình hình thành nên giải pháp
2.2 Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn
2.3 Nội dung của giải pháp mới
2.3.1 Cung cấp cho học sinh các kiến thức văn học
2.3.2 Luyện điền từ, chọn từ
2.3.3 Dạy cho học sinh viết câu có kết cấu đơn giản
2.3.4 Dạy cho học sinh viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp
2.3.5 Dạy các biện pháp nghệ thuật
2.3.6 Dạy viết văn
3. Hiệu quả của giải pháp
3.1 Thời gian áp dụng giải pháp
3.2 Hiệu quả đạt được
3.3 Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng
4. Kết luận và đề xuất kiến nghị
4.1 Kết luận
4.2 Đề xuất, kiến nghị

1


Trang
1
2
2
3
3
5
5
5
5
5
6
7
7
8
8
9
10
16
19
19
19
20
20
20
20
21


1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

1.1 Sự cần thiết hình thành giải pháp
Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con
người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục
trẻ nhỏ.
Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ
thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên
chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi
dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc
dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với
những thành viên của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một
điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước
mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ
đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn
học.
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng
ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có
tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra,
nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể
vươn tới được. Điều đó cho thấy việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần
thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ
sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn
tri thức mới trong các môn học khác. Nhiệm vụ của người giáo viên Tiểu học
là cung cấp những kiến thức một cách toàn diện cho học sinh . Mỗi môn học
đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho các em
những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và sinh hoạt sao
cho tốt nhất và có hiệu quả cao. Một trong những môn học ở Tiểu học có tác
dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến phân
môn tập làm văn. Đây là một môn tổng hợp cao nhất và chiếm thời lượng khá
2



lớn của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học: Tập đọc, Kể
chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và người học
là “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho các em
cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung
quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh.
Hiện nay thực tế cho thấy, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học,
phần lớn học sinh viết văn rất khô khan. Qua thực tế dạy phân môn Tập làm văn
nhiều năm ở lớp 4, tôi nhận thấy bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội
dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm
xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống và vốn kiến thức của các
em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở: “ Làm thế
nào để giúp các em yêu thích môn văn? Để giúp các em có điều kiện tiếp cận
với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật, thiên nhiên đất nước? Giúp các em có
cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách
cho các em?”.
Trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 4A6
Trường Tiểu học Trường Sơn. Với suy nghĩ: " Làm thế nào để học sinh học tốt
phân môn tập làm văn?”, nên tôi đã quyết định chọn đề tài: "Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn”.
1.2 Mục tiêu của giải pháp
- Tìm hiểu và phát hiện nguyên nhân khó khăn của học sinh và giáo viên khi dạy
và học môn Tập làm văn. Khảo sát nội dung dạy học môn tập làm văn ở lớp 4.
- Tìm biện pháp khắc phục giúp học sinh biết quan sát đối tượng miêu tả một
cách toàn diện đầy đủ, sắp xếp theo trình tự hợp lí.
1.3 Căn cứ đề xuất giải pháp
Đầu năm học 2014-2015, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 4. Qua quá
trình giảng dạy và qua việc dự giờ, để học tập chuyên môn ở các đồng nghiệp.
Tôi nhận thấy việc làm văn ở lớp 4 còn gặp một số khó khăn:


3


* Về phía giáo viên:
- Chưa thực sự khai thác hết thế mạnh của các phương pháp dạy học tích cực và
những kĩ thuật dạy học mới vào bài dạy trong từng bài học.
- Do chưa chú ý đúng mức tới từng đối tượng học sinh nhất là đối tượng học
sinh tiếp thu bài chậm.
- Tốc độ và thời gian giảng dạy chưa cân đối giữa việc cung cấp kiến thức với
việc thực hành còn nhanh, khiến học sinh tiếp thu bài chậm không nắm bắt kịp.
- Chưa tạo hứng thú trong tiết dạy.
* Về phía học sinh:
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn
giản, trực quan nên việc làm văn của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Chất
lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn
chưa cao.
- Vốn sống và vốn cảm thụ văn học của học sinh còn hạn chế. Hơn nữa không ít
em chưa có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với
các tác phẩm văn học.
- Do nắm bắt kiến thức cũ chưa tốt, đọc viết còn chậm, vốn từ còn hạn chế, chưa
biết diễn đạt ý, khả năng tiếp thu bài chậm.
* Đối với phụ huynh:
Một số phụ huynh thiếu quan tâm đến việc học tập của con cái, hướng dẫn
con em học còn gặp nhiều khó khăn .
- Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng làm văn của học
sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn. Đây cũng chính là một thực trạng
khiến tôi luôn băn khoăn, trăn trở về việc làm văn của học sinh lớp 4. Trước
thực tế ấy, tôi đã luôn suy nghĩ tìm tòi và tham khảo: Làm thế nào để nâng cao
được chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4? Cuối cùng tôi cũng tìm được một

số biện pháp để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4.

4


1.4 Phương pháp thực hiện, đối tượng và phạm vi áp dụng
1.4.1 Phương pháp thực hiện
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu, học hỏi
tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm
1.4.2 Đối tượng và phạm vi áp dụng
- Phạm vi nghiên cứu đề tài là khối lớp 4.
- Đề tài này áp dụng với tất cả học sinh khối lớp 4.
- Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4.
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP
2.1 Quá trình hình thành nên giải pháp
Bậc Tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu
về tự nhiên và xã hội, phát triển nhận thức, hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng và
phát huy tình cảm thói quen. Đức tính tốt đẹp của người Việt Nam. Mục tiêu nói
trên được thực hiện thông qua việc giảng dạy tất cả các môn học ở Tiểu học.
Trong các môn học đó cùng với môn học toán, môn tiếng Việt có vị trí rất quan
trọng. Xuất phát từ một nhận thức học sinh có sức khoẻ bình thường đều nắm
được những tri thức ban đầu về Tập làm văn. Bước đầu hình thành khả năng trìu

tượng hoá, khái quát hoá kể lại được câu chuyện đã được nghe, được đọc có
miêu tả hành động lời nói của nhân vật. Quan sát các sự vật để miêu tả và ghi lại
được những đặc điểm nổi bật đó bằng các từ ngữ, câu văn có hình ảnh. Qua đó
gây hứng thú học tập, phát triển hợp lí khả năng suy luận đơn giản, góp phần rèn
5


luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học sáng tạo của con người mới
trong quá trình đất nước đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Ngoài tính chất
đặc thù của môn Tiếng việt còn góp phần rèn luyện đạo đức của người lao động
mới. Trong môn học Tiếng Việt các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính
tả, Kể chuyện có mối quan hệ kiến thức rất chặt chẽ. Muốn học tốt phân môn
Tập làm văn các em cần đạt được kiến thức cơ bản về các phân môn trên. Các
kiến thức trong môn học được thể hiện đồng đều trong từng tuần học từng chủ
điểm cụ thể. Vì thế giáo viên dạy cần chú ý khắc sâu tất cả kiến thức ở các phân
môn, các dạng bài để tạo những kiến thức nền tảng học phân môn Tập làm văn
được tốt.
Muốn nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4 đòi hỏi người
giáoviên phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một công việc rất khó khăn. Tôi đã tiến
hành những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng làm văn.
2.2 Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn
Trong thực tế, giáo viên tiểu học gặp nhiều khó khăn khi dạy Tập làm văn,
đặc biệt là giáo viên dạy lớp 4. Những năm học cuối cấp tiểu học, kiến thức về
Tập làm văn được cung cấp khá nhiều, khá sâu, chương trình lại cấu trúc theo
kiểu đồng tâm mở rộng nên nếu không nắm được kiến thức ở lớp dưới, các em
sẽ khó tiếp thu được kiến thức mới ở lớp trên.
Tình hình học tập của học sinh hiện nay so với học sinh các năm trước có
những tiến bộ đáng kể, nhất là khả năng giao tiếp. Học sinh đã tự tin hơn khi
trình bày ý kiến trước đám đông, có khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp của các
tác phẩm văn học và được học nhiều kiến thức mới so với nội dung chương trình

cũ như thuyết trình tranh luận, phát biểu cảm nghĩ v..v Tuy nhiên do thực trạng
địa bàn học sinh ở nhiều nơi, nhiều vùng miền, qua cách giảng dạy trên lớp, qua
việc kiểm tra đánh giá hàng tháng. Tôi nhận thấy học sinh viết văn còn khô
khan, hạn chế về ý, diễn đạt thiếu mạch lạc. Một số em dùng từ đặt câu còn sai,
gặp nhiều khó khăn, có em viết sai nhiều lỗi chính tả, chưa biết đặt dấu câu
...chất lượng học tập chưa cao vì thế tôi rất lo lắng, nếu học sinh không có kĩ
năng viết văn làm sao có thể viết được bài văn.
6


Trong các hạn chế trên, mặt nào cũng cần khắc phục. Tuy nhiên, trong
phạm vi đề tài này, bản thân tôi muốn tập trung một vấn đề. Đó là “Một số biện
pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn”.
2.3 Nội dung của giải pháp mới
2.3.1 Cung cấp cho học sinh các kiến thức văn học
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới
có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các
em rất ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu
vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Bằng mọi cách phải bổ sung vào
vốn từ ít ỏi của các em bằng sự phong phú của tiếng Việt. Cách làm nhanh nhất
là thông qua môn Tập đọc. Tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa tất cả những từ
ngữ mà các em chưa hiểu, sau đó tôi chốt và yêu cầu các em ghi vào “ sổ từ”,
tập đặt câu để hiểu chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình.
Ví dụ: Ở bài Đường đi Sa Pa. ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 102), tôi yêu cầu
các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các từ ngữ và hình ảnh.
- Trắng xóa tựa mây trời,
- Lướt thướt liễu rủ.
- Bồng bềnh huyền ảo.
Bài Con chuồn chuồn nước ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 127).

- Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, cao vút.
- Đặt câu: - Thân đa cao vút, đỉnh chót vót giữa trời xanh.
- Trời xuân trải sắc xanh trên biển lúa mênh mông.
Vậy qua môn Tập đọc học sinh tích lũy được “ vốn liếng” từ không hề nhỏ.
Ngoài ra cuối mỗi tiết Tập đọc tôi thường cho học sinh tìm những câu văn hay
trong bài, những câu văn mang tính nghệ thuật cao để các em đưa vào văn bản
của mình.
Ví dụ:

Cá thu Biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
( Đoàn thuyền đánh cá)
7


Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi cong
lướt thướt liễu rủ.
( Đường đi Sa Pa)
2.3.2 Luyện điền từ, chọn từ
Song song với việc tích lũy vốn từ qua môn Tập đọc. Trong tiết luyện viết
đoạn văn tôi thường xuyên cho các em củng cố về từ ngữ qua dạng bài luyện từ,
từ dễ, từ khó.
* Điền từ để câu văn giàu hình ảnh:
- Nắng ban mai (hồng tươi) nhuốm chan hoà trên từng sắc lá.
- Hoa hồng đẹp (lộng lẫy) cánh hoa đỏ (thắm), mịn (như nhung).
- Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang (phả lửa) lên trời.
- Bầu trời xanh (thăm thẳm), mây trắng (bồng bềnh) trôi.
- Cây cao (cao vút).
- Gió thổi (rì rào) trong đám lá.
- Mào của trống ta y hệt một bông hoa đỏ (chon chót)

- Những quả cam (vàng óng), da (căng mọng) như mời gọi người đến thưởng
thức.
- Đôi mắt (long lanh như thuỷ tinh), lúc nào cũng (liến láu) nhìn quanh.
Việc chọn từ điền vào câu văn, giáo viên nên để học sinh thoải mái, không
ép hay áp đặt. Sau mỗi lần để học sinh chọn từ điền tôi cũng để học sinh khác
bình luận, nhận xét xem câu nào hay hơn. Các em học chưa tốt môn văn có thể
học hỏi được nhiều từ, câu của các bạn học tốt. Bài tập này đa dạng, dễ cho ví
dụ. Giáo viên nên khuyến khích và động viên làm tốt. Nếu với những câu quá
khó giáo viên có thể gợi ý.
Với dạng bài này tôi cho các em luyện tập ở các tiết “Luyện tập xây dựng
đoạn văn”, tiết “Hướng dẫn học” giúp các em lựa chọn các câu văn hay để viết
đoạn văn, vừa khiến cho các em thoải mái trong giờ học, vừa nhớ lâu.
2.3.3 Dạy cho học sinh viết câu có kết cấu đơn giản
Tháp cao nào cũng phải xây dựng từ dưới mặt đất. Để viết được những câu
văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước tiên học sinh cần nắm được câu
8


dạng đơn giản nhất, đó là những dạng câu học sinh đã được học: Ai làm gì? Ai
thế nào? Ai là gì?... câu khiến, câu hỏi, câu cảm.
Dạy những loại câu này đối với học sinh không khó. Ta chỉ cần hư ớng dẫn
tốt qua tiết Luyện từ và câu. Xác định các yêu cầu cơ bản học sinh cần nắm
được, và thường xuyên củng cố thật nhiều.
Câu phải có hai bộ phận chính: Chủ ngữ và vị ngữ.
- Chủ ngữ trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Vật gì?
- Vị ngữ trả lời câu hỏi: Làm gì? Như thế nào? Là gì?
Đi đôi với việc dạy lý thuyết tôi cho học sinh luyện viết câu, phân tích thật
nhiều, lấy ngay các từ học sinh tích luỹ được trong tiết Tập đọc để đặt câu:
Ví dụ: Sau khi học xong bài Tập đọc “ Sầu riêng” Tiếng việt 4 tập 2:
+ Học sinh cần tích luỹ từ: ngọt ngào, quyến rũ, quyện.

+ Đặt câu và phân tích:
Dạ hương / ngọt ngào lan toả khắp khu vườn.
CN

VN

Vườn hoa / quyến rũ lũ ong bướm rập rờn bay đến.
CN

VN

Mít chín / thơm nồng, ngọt sắc như vị của trứng gà quyện với mật ong già
hạn. CN

VN

Cứ như vậy, luyện tập nhiều sẽ giúp học sinh có một kiến thức vững chắc về
câu.
2.3.4 Dạy cho học sinh viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp
Nếu một bài văn chỉ viết bằng một loại câu thì sẽ gây ra đơn điệu, không hấp
dẫn người đọc. Bởi vậy, ta cần trang bị những kiến thức nâng cao về câu cho
những “mầm non văn học”. Tuy nhiên ta không bắt buộc học sinh tiếp thu
những gì quá phức tạp không phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Một số dạng câu có
thể dạy là:
- Câu có trạng ngữ.
- Câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ.

9



2.3.4.1 Với câu có trạng ngữ
Đầu tiên tôi cho học sinh tiếp xúc với các loại câu này, tập tìm chủ ngữ, vị
ngữ.
Trên vòm cây, chim hót líu lo.
Học sinh rất dễ nhầm lẫn “Trên vòm cây” là chủ ngữ nếu chư a tiếp xúc với
loại câu này. Bởi vậy, tôi cho học sinh đặt câu hỏi:
+ Con gì hót líu lo? ( con“ chim” vậy “ chim” là chủ ngữ).
+ Con chim làm gì? (“hót líu lo” vậy “hót líu lo” là vị ngữ).
Vậy “Trên vòm cây” là bộ phận gì? học sinh sẽ rút ra đó là bộ phận phụ nói rõ
chim hót ở đâu.
Tương tự như vậy tôi hướng dẫn học sinh hiểu về trạng ngữ chỉ thời gian,
nguyên nhân, mục đích, nơi chốn để học sinh có thể đặt câu:
Ví dụ: - Ngoài vườn, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
- Để chăm sóc con, chị gà cần mẫn bới đất tìm thức ăn.
- Từ trong kẽ lá, những nụ hồng lấp ló trông thật xinh.
2.3.4.2 Câu có nhiều chủ, vị
Tôi hướng dẫn học sinh thay thế nhiều câu thành một câu.
Ví dụ: Cánh hoa đỏ thắm, mịn như nhung.
Bằng cách làm này, bài văn sẽ không bị lặp lại từ và bớt đi sự cứng nhắc khô
khan kể lể. Học sinh viết câu văn hấp dẫn hơn.
- Hoa lan, hoa cúc, hoa huệ đua nhau khoe sắc.
- Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ căng đầy sức sống.
- Chú mèo cuộn mình, lăn tròn như quả bóng.
- Chiếc cặp tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất tiện lợi.
Sau khi được tập luyện nhiều, học sinh có thói quen kết hợp ý để diễn đạt. Bài
văn không rời rạc, khô khan bởi chỉ được viết từ các câu đơn.
2.3.5 Dạy các biện pháp nghệ thuật
Muốn bài văn hay thì trong bài văn không thể thiếu tính nghệ thuật. Học
sinh lớp 4 kiến thức về lĩnh vực này còn hiểu lơ mơ, hời hợt. Nếu giáo viên
không dạy, học sinh khó mà nắm bắt được. Để đưa nghệ thuật vào trong văn có

10


rất nhiều biện pháp. Nhưng theo tôi, đối với học sinh ở lứa tuổi này, hai biện
pháp nghệ thuật phù hợp nhất là so sánh và nhân hóa.
2.3.5.1 Biện pháp so sánh
Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm các câu có các biện pháp so sánh trong các bài
Tập đọc đã học.
Ví dụ:
- Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng rực rỡ.
- Hoa cẩm chướng là ngôi sao màu trên vòm trời xanh lục giữa vườn.
- Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông
hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ngọn nến
trong xanh.
- Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn .
- Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con.
- Những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.
- Với những cánh tay quều quào xoè rộng, nó như con quái vật già nua cau có và
khinh khỉnh giữa đám bạch dương tươi cười.
- Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đó thả
hàng vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời xanh biếc chi chít cành và xoay thành
những tán tròn quanh thân cây.
Với những câu văn này tôi sẽ giới thiệu để các em nắm chắc được biện pháp so
sánh bằng cách sau:
Ví dụ: Câu “Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng
vàng rực rỡ”. Tôi phân tích cách sử dụng biện pháp so sánh, tác giả lấy hình ảnh
mặt trời để tả bông hướng dương.
Để thấy được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi lấy một câu
khác để mô tả bông hướng dương.
“Bông hướng dương rất to, màu vàng, có rất nhiều cánh nhỏ”. Và yêu cầu

học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn. Dĩ nhiên là câu thứ nhất, 100% học sinh
được hỏi đều trả lời như vậy. “Hay hơn vì sao?”. Các em trả lời: “Vì sử dụng

11


biện pháp nghệ thuật so sánh”. Muốn các em vững vàng hơn về cách so sánh tôi
lại đưa ra một câu văn nữa.
“Bông hướng dương như chiếc đĩa màu vàng”.
Yêu cầu học sinh nhận xét, so sánh với câu thứ nhất. Khi các em khẳng
định câu thứ ba không hay bằng câu đầu, tôi đặt câu hỏi: “Tại sao cả hai câu đều
sử dụng biện pháp so sánh mà câu đầu lại hay hơn?” và giải thích “ở câu thứ
nhất, tác giả dùng hình ảnh mặt trời đang toả nắng” một hình ảnh đẹp, sinh động
và rất độc đáo để so sánh vì vậy đã làm cho bông hướng dương tươi đẹp hẳn lên.
Còn câu thứ ba so sánh với cái đĩa có đặc điểm giống bông hướng dương song
đơn điệu và giảm đi giá trị vẻ đẹp của bông hoa. Từ đó giúp học sinh hình thành
sự hiểu biết. Khi so sánh muốn làm cho một sự vật đẹp hơn phải so sánh với sự
vật khác giống nhưng đẹp hơn, có những nét độc đáo, nổi bật hơn và ngược lại.
Việc này học sinh phải được luyện tập thường xuyên, vì nếu không luyện tập
thì các kiến thức đó cũng mai một dần. Sau đây là một vài dạng bài tập mà tôi đã
xây dựng trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn”:
* Nhận xét những hình ảnh so sánh trong đoạn văn, câu văn
So sánh như vậy giúp các em cảm nhận được điều gì mới mẻ của sự vật?
Thân dừa bạc phếch tháng năm.
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè, hoa nở cùng sao.
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng chú lấp
lánh. Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh
như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.

Dạng bài này không khó đối với học sinh nhưng không phải học sinh nào
cũng cảm nhận được cái đẹp cái mới mẻ trong đoạn văn, đa phần các em chỉ
nhận ra hình ảnh so sánh.
* Điền từ thích hợp vào chỗ trống tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh
gợi tả:
- Nhìn từ xa, cây bàng… một chiếc ô khổng lồ lợp bằng lá xanh tươi.
12


- Những quả chuối cong cong… vầng trăng khuyết.
- Những chiếc gai… những chú lính đứng trang nghiêm gác cho nàng công chúa
hoa hồng.
Ở dạng bài này hướng dẫn các em chọn các từ sau để điền: như, giống
như, tựa, tựa như, tựa hồ, như là, giống hệt.
* Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích hợp vào mỗi chỗ trống
để mỗi dòng dưới trở thành câu văn có ý nghĩa mới mẻ, sinh động.
- Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như (bàn tay vẫy hoặc một
mặt trời mới mọc).
- Hoa bòng treo lủng lẳng từng chùm trên cây như (những chiếc đèn lồng nhỏ
xíu hoặc chùm quả).
- Ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như (những mũi tên bay trong gió hoặc
những viên đạn rời khỏi nòng súng).
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như (hai mái nhà hoặc chiếc ô dù vững chãi) che chở
cho các chú gà con.
- Ánh mắt dịu hiền của mẹ là (ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời con hoặc ngôi sao dẫn
đường cho con đi lên phía trước).
- Nụ hồng trông giống hệt những (chiếc tháp) bé bé, xinh xinh.
Với dạng bài này tôi giúp học sinh thường xuyên luyện tập chọn từ điền
thoải mái, không áp đặt. Sau đó nhận xét tìm ra những từ ngữ hay nhất, khen
học sinh chọn từ để cho học sinh hứng thú học văn.

* Tập so sánh
Nâng cao hơn, tôi yêu cầu các em tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt câu.
Tôi đưa ra những sự vật ví dụ như:
- Hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa loa kèn, hoa xoan.
- Con đường, bãi cỏ, đồng lúa chín.
- Tàu dừa, vầng trăng (tròn, khuyết), mặt hồ.
Loại bài tập này khó hơn, nó đòi hỏi học sinh có trí tưởng tượng phong
phú lẫn kĩ năng diễn đạt mới có thể chọn ra những câu văn hay. Bởi vậy, tôi

13


thường đưa ra những câu tham khảo khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà vẫn
chưa có được những câu văn có thể tích luỹ được để làm tư liệu. Ví dụ:
- Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên cành.
- Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn.
- Đồng lúa chín y hệt một biển vàng.
- Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương lớn in sắc mây, trời.
- v.v.
Cứ với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một phong
phú, khả năng diễn đạt câu văn cũng ngày càng một nâng cao. Trong các bài
viết, đưa biện pháp mô tả vào để so sánh một việc làm dễ dàng đối với học sinh.
2.3.5.2 Biện pháp nhân hóa
Đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn
trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái ốc. Rồi những câu
chuyện cổ tích của bà, của cô giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế giới
phong phú của nghệ thuật nhân hoá. Không cần phải dạy nhiều, ta chỉ cần giới
thiệu học sinh sẽ nhanh chóng nắm được ngay.
Để học sinh thấy được sự ưu việt của biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho
các em so sánh các cặp ví dụ cụ thể:

1. Thân chuối màu đen khô ráp vì nắng gió.
2. Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió.
1. Gà Mái Mơ nuôi con rất khéo.
2. Chị gà Mái Mơ dịu hiền chăm sóc con thật khéo léo.
1. Những con gà chạy lung tung khắp nơi.
2. Những chú gà hiếu động tung tăng chạy khắp nơi.
1. Gốc hồng màu đen xám.
2. Gốc hồng như một người mẹ già đi trong bộ áo xám đen nhường sắc non
xanh cho hoa, cho lá.
1. Bông hồng nhung vươn cao.
2. Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp của
mình.
14


1. Nắng chiếu đầy vòm lá.
2. Những tia nắng tinh nghịch đùa trên vòm lá.
v.v .
Không khó khăn cho học sinh trong việc lựa chọn, tất cả đều có chung
một câu trả lời: Câu văn thứ hai hay hơn câu văn thứ nhất.“ Nó hay hơn vì
sao?”. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi nghĩ giáo viên cần lí
giải: Câu thứ 2 hay hơn vì đã sử dụng biện pháp nhân hóa: Chị Mái Mơ, chị
chuối, chú gà, cô hồng nhung… trở nên sinh động, đáng yêu vì đã có những suy
nghĩ, tính cách của con người. Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện
pháp này, tôi giới thiệu cho các em cách nhân hoá sự vật.
* Gọi tên sự vật
Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cô trăng, chị gió, bác
mặt trời, anh gà trống, chị Mái Mơ, bác mèo mướp, chị chuối tiêu.
* Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật
- Hoa quỳnh trầm tư.

- Đào bích cười tươi roi rói.
- Phong lan yểu điệu.
- Chị Mái Mơ hiền lành.
- Những bé gà ngơ ngác.
- Nắng nhảy nhót.
- Trăng tinh nghịch nhòm qua cửa sổ.
Song song với việc giới thiệu, tôi thường dành thời gian đọc cho các em
nghe những câu chuyện có sử dụng nhiều biện pháp nhân hoá như: Dế Mèn
phiêu lưu kí, Võ sĩ Bọ Ngựa, Hai con ngỗng của nhà văn Tô Hoài (tiến hành vào
tiết Sinh hoạt tập thể, Kể chuyện).
Nhắc học sinh liên tưởng đến các câu chuyện cổ tích có các con vật đáng yêu
thông minh, tinh nghịch. Đó là những câu mẫu mực cho học sinh tập,để nắm
được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.
Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này ta cho
các em luyện tập ngay một số dạng bài tập:
15


1.Tập nhân hoá các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh bằng cách 1 hoặc cách
2?
2.Nêu tâm trạng của các loài hoa vào mùa xuân?
3.Tưởng tượng ra cuộc trò chuyện của bầy chim, những chú chó, mèo?
4.Chị Mái Mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những cử chỉ,
lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó?
Dựa vào những câu chuyện đã được nghe, những bộ phim hoạt hình đã được
xem thì những bài tập trên không khó lắm đối với học sinh. Tuy nhiên giáo viên
cần lưu ý chủ đề viết. Có thể gợi ý học sinh như sau:
- Bác mặt trời toả tia nắng ban mai hồng tươi.
- Chị gió tinh nghịch nô đùa cùng đám lá.
- Mèo mướp lười biếng nằm sưởi nắng ở dưới sân.

- Cô gà mái đảm đang dẫn đàn con đi kiếm mồi.
- Chị chim sâu chăm chỉ lách chách chuyền cành.
- Hồng nhung lộng lẫy trong chiếc áo đỏ thắm mịn màng.
- Cúc vàng ủ rũ nhìn các bạn đi hội xuân. Nó không còn bộ quần áo nào lành lặn
cả.
- Hễ kiếm được miếng mồi nào chị Mái Mơ cũng lục tục gọi bầy con đến
nhường cho chúng.
- Chị dang đôi cánh ấm áp ủ bầy con nhỏ.
- Từ ngày nuôi lũ con, bộ lông chị gà cứ xơ xác hẳn đi.
- Chị gà rất giàu kinh nghiệm, chị chẳng bao giờ dẫn đàn con đến gần rãnh
nước.
Bằng cách luyện tập này thì việc vận dụng biện pháp nhân hoá vào bài
làm của các em tiến bộ rõ rệt. Câu trả lời này, tôi sẽ minh hoạ bằng bài văn của
các em ở phần sau.
Trên đây là các bước “dạo đầu” giúp các em có một vốn văn học nhất
định phục vụ cho việc viết bài. Học sinh sử dụng các “viên gạch” đó xây nền các
“ngôi nhà” như thế nào mới quan trọng. Muốn có bài văn hay cần gì trong tiết
dạy?
16


2.3.6 Dạy viết văn
Mục tiêu lớn nhất của việc dạy văn là chất lượng của bài viết. Một bài viết
hay là một bài văn được kết hợp hài hoà nhiều yếu tố: Nội dung, nghệ thuật,
cảm xúc. Nhiệm vụ của người giáo viên là làm sao để bài văn của học sinh cần
có tất cả các yếu tố đó. Muốn vậy trong mỗi tiết làm văn ta tập trung giải quyết 3
nhiệm vụ.
2.3.6.1 Xây dựng nội dung
Phong phú về nội dung là yêu cầu đầu tiên của một bài viết tốt. Giải quyết
nhiệm vụ này tương đối khó nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ. Khi dạy, giáo viên

cần lưu ý hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa vì chương trình văn được soạn
cho trình độ phổ cập, đối với lớp tiếp thu bài tốt ta có thể bổ sung thêm. Đích
đầu tiên học sinh cần đạt là phải hoàn thiện về bố cục (có 3 phần: Mở bài, thân
bài, kết bài) ý phong phú có trọng tâm.
Khi đã hoàn thiện về bố cục. Tôi tiếp tục chú ý đến nội dung bài văn.
Muốn bài văn phong phú học sinh phải biết cách trả lời câu hỏi. Thường mỗi câu
hỏi học sinh phải trả lời bằng một đoạn văn chứ không phải một câu cộc lốc. Ví
dụ như câu hỏi:
- Thân cây thế nào? (trong bài quan sát cây hoa hồng). Tôi không bằng lòng với
câu trả lời kiểu: “Thân cây khẳng khiu, cành đâm ra mọi phía”. Cao hơn, tôi đòi
hỏi ở học sinh sự quan sát tỉ mỉ (màu sắc, độ cao, to, cách bố trí, các cành, cành
non, cành già, gai) và trả lời bằng một đoạn văn.
- Thân cây thâm thấp, màu xanh tươi. Cành cây khẳng khiu đan chéo vào nhau,
vươn ra mọi phía. Đôi ba mầm non mới trồi lên mập mạp đầy sức sống. Rải rác
trên cành lá những chú gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như những chú lính
gác cho nàng công chúa hoa hồng .
Rèn luyện thói quen quan sát nhiều góc cạnh của sự vật sẽ giúp học sinh
có được những bài văn “giàu ý”. Tuy nhiên không thể dàn trải mênh mông mà
bài văn phải có trọng tâm. Học sinh biết lựa chọn chi tiết nổi bật, lướt qua chi
tiết phụ để viết câu dùng “từ đắt”. Ví dụ bài: Tả cây hoa hồng thì phải tả kĩ.
17


Nhìn tổng thể hoa trên cây, nhìn chi tiết từng bông: Bông nở to, bông chúm
chím, nụ. Phát hiện vẻ đẹp riêng của chúng, so sánh chúng. Quan sát kĩ từng
cánh hoa, cách cấu tạo và điều quan trọng nhất là phải làm nổi bật hình ảnh loài
hoa, cây hoa mình quan sát.
2.3.6.2 Đưa nghệ thuật vào bài văn
Nói đến nghệ thuật ta có cảm giác nó cao siêu và xa vời với học sinh Tiểu
học. Nhưng cái “nghệ thuật” ở các em chỉ đơn giản là việc chọn lọc từ ngữ, hình

ảnh và sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa. Bởi vậy nó cũng rất gần gũi
quen thuộc với các em vì các em đã có được cả một quá trình học tập và rèn
luyện. Trong quá trình tập diễn đạt nội dung, có thể gợi ý bằng các câu hỏi:
- Ta có thể tả màu sắc hoa hồng nhung bằng từ nào? (đỏ thẫm, đỏ thắm).
- Gốc hồng làm nhiệm vụ gì?
“Tuy nó sần sùi màu nâu và khô cằn”. Em có thể dùng biện pháp so sánh hay
nhân hoá để làm nổi bật nét đẹp trong hình thức xấu xí của nó được không? (gốc
cây như người mẹ giản dị trong bộ áo nâu xám. Nhường sắc xanh tươi cho lá,
cho hoa).
- Những chiếc gai có thể nhân hóa được không? (Nhân hoá như những người
lính).
- Tàu lá chuối có thể so sánh với cái gì? ( Cái quạt khổng lồ, tấm lụa màu xanh
lục).
- Những quả chuối cong cong giống cái gì? (Vầng trăng khuyết).
Bằng cách gợi mở, dẫn dắt như vậy học sinh sẽ nêu ra những ý kiến của
mình. Sau khi nghe phần trình bày của các em, tôi sẽ rút ra một số từ ngữ, hình
ảnh, câu văn hay để cả lớp có thể học tập và đưa vào bài của mình.
2.3.6.3 Đưa cảm xúc vào bài văn
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu “cảm
xúc” của người viết. Cảm xúc không chỉ có ở phần kết luận. Nó phải được thấm
đậm trong từng câu, từng lời của bài văn. Đối với học sinh nhỏ thì điều này thật
là trừu tượng.

18


Bởi vậy ta không nên đòi hỏi các em một cách chung chung. Các em lồng
được tình cảm của mình vào từng ý văn, giáo viên nên gợi ý cụ thể như sau:
- Hoa hồng đẹp đến khó tả được. Khi ngắm nhìn hoa em cảm thấy như thế nào?
(Hoa đẹp lộng lẫy say đắm lòng người).

- Hương chuối chín thơm lừng gợi cho em cảm giác như thế nào? (Thèm được
ăn ghê lắm).
- Được ăn trái ngon em có suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn).
Tương tự như vậy ta cần “hướng” học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận xét
cảm xúc của mình trước một vật, sự việc. Bài văn sẽ không đơn giản là sự liệt
kê. Nó thấm đẫm các suy nghĩ, cảm xúc của người viết.
Kết hợp được 3 yếu tố trên: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc thì bài văn của học
sinh cũng đạt tới một thành công lớn. Bên cạnh đó một việc làm mà người giáo
viên không thể bỏ qua đó là nhận xét, sửa bài kiểm tra, trả bài tập làm văn cho
học sinh để học sinh rút kinh nghiệm. Tất cả những điều trên sẽ là mảnh đất màu
mỡ cho ta vun trồng những năm học tới.
3. HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP
3.1 Thời gian áp dụng giải pháp
- Áp dụng vào năm học 2014-2015
- Đầu năm học tôi kiểm tra phân loại đối tượng học sinh, sau đó lập kế hoạch
thực hiện hướng dẫn cho học sinh kĩ năng viết văn.
3.2 Hiệu quả đạt được
Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự
lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Tôi nhận thấy chất
lượng học văn của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được
những bài văn, câu văn gãy gọn, mạch lạc thì đa số các em đã xây dựng được
những bài văn hay, câu văn giàu hình ảnh. Qua đó hình thành cho học sinh
những kĩ năng về viết văn, tạo niềm hứng thú cho mỗi học sinh tính ham học, tự
tin khi làm bài.

19


3.3 Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
Căn cứ vào quá trình thực hiện và kết quả đạt được trong việc: ứng dụng đề

tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn”
đã thực sự có tiến triển. Những kinh nghiệm mà tôi đúc rút được là rất sát với
thực tế không những ở trường, lớp tôi mà ở một số trường Tiểu học khác cũng
có thể áp dụng được.
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng
Từ thực trạng dạy và học văn ở trường Tiểu học. Tôi đã nghiên cứu tìm một
số biện pháp khắc phục khó khăn của giáo viên và học sinh. Theo tôi muốn học
sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp 4 mỗi giáo viên cần:
- Thấm nhuần đổi mới phương pháp dạy học. Giáo viên là người tổ chức hướng
dẫn giúp học sinh tự giác tích cực trong quá trình học.
- Giáo viên cần coi trọng việc rèn kĩ năng làm văn cho học sinh, chú ý đến luyện
tập, thực hành.
- Đặc biệt chú ý bồi dưỡng vốn văn học, phát triển vốn từ ngữ, tích lũy vốn ngôn
ngữ và cách sử dụng các biện pháp tu từ vào viết văn, tạo nên những bài văn
giàu hình ảnh.
- Tôn trọng cách nghĩ, cách biểu cảm riêng của mỗi học sinh, không áp đặt, bắt
buộc học sinh làm theo văn mẫu. Tôn trọng những cảm xúc đẹp của học sinh.
- Nhận thức đúng về tác dụng của việc chữa lỗi. Việc chấm chữa phải được thực
hiện nghiêm túc, có hệ thống.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Đề tài : "Phương pháp giúp học sinh học tốt môn tập làm văn lớp 4” đã có
ý nghĩa rất quan trọng đối với tôi, nó giúp tôi có kinh nghiệm trong giảng dạy
những kiến thức về tập làm văn. Từ đó sẽ giúp cho học sinh dễ hiểu và làm bài
được tốt hơn .
20


4.2 Đề xuất, kiến nghị
Dạy các dạng bài tập “Tập làm văn ” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt

bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy:
* Đối với học sinh: Các em cần được quan tâm, xác định được tầm quan
trọng của môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của
mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó
chính là gia đình - nhà trường - xã hội.
* Đối với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ
đồng nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh.
+ Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối
tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng
bài.
+ Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới
giỏi.
+ Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có
trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi
giúp đỡ học sinh.
* Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện
cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức.
+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại
sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.
+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều
thành tích cao trong giảng dạy và học tập.
+ Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy
nhằm bồi dưỡng niềm say mê, yêu thích môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4.
21


Trong quá trình thực hiện tôi đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song
không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tôi rất mong nhận được sự quan tâm,

giúp đỡ và đóng góp chân thành của các cấp lãnh đạo, quý thầy cô trong Ban
giám hiệu nhà trường và bạn bè đồng nghiệp để tôi giảng dạy ngày một tốt hơn,
góp một phần công sức nhỏ bé của mình nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Phước nguyên, ngày 20 tháng 02 năm 2016
Người viết

Trần Thị Kim Loan

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy Tập đọc ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2000
2. Luyện thực hành tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản Đà Nẵng- Năm 2003
3. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục- Năm 2005
4. Sách Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2005
5. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2005

23



×