Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

NGHIÊN cứu TÌNH HÌNH TRẦM cảm và các yếu tố LIÊN QUAN ở SINH VIÊN điều DƯỠNG và kỹ THUẬT y học hệ CHÍNH QUY TRƯỜNG đại học y dược HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.82 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

NGƠ THỊ NGỌC ÁNH

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU
TỐ
LIÊN QUAN Ở SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG VÀ KỸ
THUẬT
Y HỌC HỆ CHÍNH QUY TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y
DƯỢC HUẾ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN Y TẾ CÔNG CỘNG

Người hướng dẫn luận văn
TS.BS. NGUYỄN VĂN HÙNG


Huế, Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đã thực hiện quá trình làm khóa luận một
cách khoa học, chính xác và trung thực.
Các kết quả, số liệu trong khóa luận này đều có thực, kết quả
thu được từ q trình nghiên cứu của tôi chưa được đăng tải lên tài
liệu khoa học nào.
Huế, ngày 09 tháng 05 năm 2016
Tác giả luận văn



Ngô Thị Ngọc Ánh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BDI

: Beck Depression Inventory
(Thang đo trầm cảm của Beck)

BDI-II

: Beck Depression Inventory – II
(Thang đo trầm cảm của Beck phiên bản hai)

CBCC

: Cán Bộ Công Chức

CES-D

: The Centre for Epidemiological Studies- Depression Scale
(Thang đo trầm cảm của Trung tâm Dịch tế học)

DASS

: Depression Anxiety Stress Scales
(Thang đo trầm cảm, lo âu, stress)


ĐD

: Điều Dưỡng

ĐHYD TPHCM

: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

ESSA

: Education Stress Scale for Adolescents
(Thang đo áp lực học tập của thanh thiếu niên)

KTYH

: Kỹ thuật Y học

SVYK

: Sinh viên Y khoa

WHO

: Tổ chức Y Tế Thế Giới


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU......................................................................3

1.1. Trầm cảm.........................................................................................................3
1.2. Các nghiên cứu về tình hình trầm cảm ở sinh viên y khoa....................................7
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................13
2.1. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................13
2.2. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................13
2.3. Công cụ và kỹ thuật thu thập số liệu..............................................................15
2.4. Các biến số nghiên cứu và cách lượng giá.....................................................18
2.5. Phân tích và xử lý số liệu...............................................................................20
2.6. Đạo đức nghiên cứu.......................................................................................20
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................................................21
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu....................................................21
3.2. Tỷ lệ trầm cảm theo các mức độ ở sinh viên Điều Dưỡng, Kỹ thuật Y học
Trường Đại học Y Dược Huế................................................................................23
3.3. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên Điều Dưỡng, Kỹ thuật Y học
Trường Đại học Y Dược Huế................................................................................24
Chương 4. BÀN LUẬN..........................................................................................31
4.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu..............................................................31
4.2. Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ thuật Y học..........................32
4.3. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ thuật Y học 33
KẾT LUẬN.............................................................................................................39
KIẾN NGHỊ...........................................................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo Tổ chức Y tế Thế giới trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc

trưng bởi nỗi buồn, mất hứng thú hoặc niềm vui, có cảm giác tội lỗi hay tự đánh giá
thấp giá trị bản thân, ngủ không yên giấc hoặc chán ăn, cảm giác mệt mỏi và kém
tập trung [33]. Trầm cảm hiện nay đang là vấn đề ngày càng thu hút sự quan tâm
của cộng đồng và xã hội. Tổ chức Y tế Thế giới(2008) [32] khuyến cáo đến năm
2030, trầm cảm sẽ trở thành một trong hai nguyên nhân hàng đầu đưa đến những
năm sống mất đi do tàn tật trên toàn thế giới. Trầm cảm làm cho người bệnh bị gián
đoạn học tập, lao động và tách rời xã hội, không những ảnh hưởng đến sức khỏe,
bệnh tật cho bản thân mà cịn ảnh hưởng đến gia đình và xã hội.
Sinh viên Y Khoa nói chung được xem là đối tượng có nguy cơ caođối với
trầm cảm[12], [14], [15], [20].Theo các nghiên cứu ở sinh viên Y tiến hành tại Ai
Cập và Malaysia cho thấy tỷ lệ sinh viên bị trầm cảm lần lượt là 63,6%
và34,9%[11], [28]. Là đối tượng trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân nhiều nhất để thực
hiện những y lệnh của bác sĩ trong tương lai. Sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ thuật Y
học trong quá trình đào tạo tại trường phải chịu áp lực học tập cao, chương trình đào
tạo nặng nề, thực hành lâm sàng và thường xuyên chứng kiến sự đau đớn của bệnh
nhân tại các khoa phịng.Do đó, sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ thuật Y học là đối
tượng phải đối mặt với nguy cơ cao về trầm cảm. Một nghiên cứu ở sinh viên Điều
Dưỡng tiến hành tại Iran cho thấy tỷ lệ sinh viên bị trầm cảm là 38,7%[27]. Tỷ lệ
này ở sinh viên Điều Dưỡng của Hy Lạp là 43,9%[22]. Ở Việt Nam trong những
năm gần đây cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu về trầm cảm ở sinh viên y
khoa. Theo tác giả Trần Quỳnh Anh nghiên cứu trên 8 trường đại học y của Việt
Nam năm 2013, cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên y đa khoa là 43,2%[10]. Một
nghiên cứu khác về trầm cảm ở sinh viên Điều Dưỡng đại học y Thái Nguyên năm
2012, 45,6% sinh viên được báo cáo điểm số cho thấy có trầm cảm [18].
Từ đó cho thấy trầm cảm ở sinh viên y khoa của Việt Nam là tương đồng với


2

các kết quả tìm thấy trên thế giới và ở mức cao. Tình trạng này sẽ gây ra các hậu

quả như ảnh hưởng đến khả năng và kết quả học tập; kỹ năng thực hành lâm sàng,
thực hành nghề nghiệp trong tương lai và nặng nề hơn có thể dẫn tới hành vi tự tử.
Vì vậy, việc nhận thức được thực trạng của rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên
quan ở sinh viên y khoa có tầm quan trọng và ý nghĩa lớn cho cơng tác dự phịng,
chăm sóc và điều trị.
Mặt khác, nghiên cứu về trầm cảm trên đối tượng sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ
thuật Y học Trường Đại học Y Dược Huế vẫn chưa từng được thực hiện. Do đó, việc
thực hiện một nghiên cứu về trầm cảm ở sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ thuật Y học là
cần thiết nhằm cung cấp những bằng chứng có giá trị cho nhà trường, giảng viên và
các sinh viên trong việc dự phòng và nâng cao sức khỏe tâm thần cho sinh viên. Từ
đó giúp nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng nguồn cán bộ y tế trong tương lai.
Vì vậy, tơi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình hình trầm cảm và
các yếu tố liên quan ở sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ thuật Y học hệ chính quy
Trường Đại học Y Dược Huế”.
Nghiên cứu nhằm hai mục tiêu sau đây:
1. Xác định tỷ lệ trầm cảm theo các mức độ ở sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ
thuật Y học hệ chính quy tại Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên Điều Dưỡng
và Kỹ thuật Y học hệ chính quy tại Trường Đại học Y Dược Huế.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. TRẦM CẢM
1.1.1. Một số khái niệm về trầm cảm
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ
biến, đặc trưng bởi nỗi buồn, mất hứng thú hoặc niềm vui, có cảm giác tội lỗi hay tự

đánh giá thấp giá trị bản thân, ngủ không yên giấc hoặc chán ăn, cảm giác mệt mỏi
và kém tập trung [33].
Các giai đoạn trầm cảm điển hình (Major depressive period)[1]: giai đoạn trầm
cảm thường hình thành từ từ trong nhiều tuần với biểu hiện của hội chứng suy nhược
và khí sắc ngày càng suy giảm sau đó xuất hiện đủ bộ 3 triệu chứng trầm cảm:
- Cảm xúc bị ức chế (Depressed affect): là triệu chứng chủ yếu nhất biểu hiện
bằng cảm xúc buồn rầu biểu hiện ở các mức độ khác nhau: chán nản, thất vọng, có
trạng thái buồn chán nặng nề, sâu sắc, buồn khơng lối thốt dễ dẫn đến tự sát.
- Tư duy bị ức chế (Depressed thinking): q trình liên tưởng chậm chạp, hồi
ức khó khăn, tư duy bị chìm đắm trong những chủ đề trầm cảm, bi quan, xấu hổ, tủi
nhục, bất hạnh nhiều trường hợp kết tinh thành hoang tưởng bị buộc tội hoặc tự
buộc tội dễ dẫn đến tự sát.
- Hoạt động bị ức chế (Depressed activity): bệnh nhân ngồi im hoặc nằm im
lìm hàng giờ, khom lưng, cúi đầu, nằm ép ở giường hàng ngày, hàng tháng, hoạt
động bị ức chế hoặc những hành vi đơn điệu, đi lờ đờ, quanh quẩn trong phòng.
1.1.2. Nguyên nhân và ảnh hưởng của trầm cảm
Theo Viện Sức khỏe Tâm thần (National Institude of Mental Health)nguyên
nhân của trầm cảm là do các yếu tố di truyền, sinh học, môi trường và các sang chấn
về mặt tâm lý [25].


4

Có nhiều nguyên nhân gây ra trầm cảm, có thể tập trung vào các nhóm ngun
nhân chính sau đây:
Di truyền và sự thay đổi các chất sinh hóa não: các nghiên cứu ở những cặp
sinh đôi và những người cùng huyết thống cho thấy có vai trị của yếu tố di truyền
trong bệnh nguyên của trầm cảm. Theo Kaplan và Sadock, các cặp sinh đôi cùng
trứng nếu một người mắc trầm cảm thì người cịn lại có nguy cơ mắc trầm cảm là
50%, trong khi tỷ lệ này ở những cặp sinh đôi khác trứng là 25%. Thay đổi các chất

sinh hóa não do rối loạn hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh trong não như
serotonin, dopamin, norepinephrin, epinephrin,... thường dẫn đến trầm cảm nặng có
thể có ý tưởng và hành vi tự sát kèm theo các rối loạn loạn thần như hoang tưởng bị
tội, ảo thanh sai khiến tự sát[1].
Do bệnh thực thể ở não và sử dụng các chất gây nghiện hoặc các chất tác động
tâm thần: chấn thương sọ não, viêm não, u não,... những rối loạn và tổn thương cấu
trúc này làm giảm ngưỡng chịu đựng các sang chấn tâm lý của cơ thể, chỉ cần một
tác động nhỏ cũng có thể gây ra các rối loạn cảm xúc, đặc biệt là trầm cảm. Heroin,
Amphetamin (thuốc lắc), rượu, thuốc lá,...đặc điểm chung của các chất này là giai
đoạn đầu thường gây kích thích, sảng khối, hưng phấn nhưng sau đó thường rơi
vào trạng thái trầm cảm, mệt mỏi, uể oải, giảm sút và ức chế hoạt động tâm thần
(giai đoạn ức chế)[1].
Các yếu tố tâm lý xã hội và môi trường: các sang chấn tâm lý là nguyên nhân
thường gặp gây trầm cảm. Sang chấn tâm lý có thể đến từ bên ngồi cơ thể như
những mâu thuẫn trong gia đình, bạn bè, cơng việc, cuộc sống,... hoặc cũng có thể
đến từ bên trong cơ thể do bị các bệnh nặng, bệnh nan y (ung thư,...). Mơi trường
sống, văn hóa, kinh tế, xã hội, áp lực công việc, học tập,... là những yếu tố có ảnh
hưởng liên lục và kéo dài đến tâm lý của mỗi người. Các điều kiện bất lợi trong cuộc
sống hàng ngày có thể làm khởi phát cũng như tái phát các gia đoạn trầm cảm [1].
Trầm cảm là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố xã hội, tâm lý
và sinh học. Ngồi ra cịn có mối tương quan giữa trầm cảm và sức khỏe thể chất.
Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát, làm suy yếu đáng kể khả năng của một
người để thực hiện các hoạt động học tập, làm việc hoặc đối phó với khó khăn trong


5

cuộc sống hàng ngày. Nghiêm trọng nhất, trầm cảm có thể dẫn đến hành vi tự
tử. Khi trầm cảm ở mức độ nhẹ, mọi người có thể được điều trị mà không cần dùng
thuốc nhưng khi trầm cảm ở mức độ vừa hoặc nặng thì cần phải kết hợp giữa điều

trị thuốc và phương pháp tâm lý trị liệu [33].
1.1.3. Chẩn đoán trầm cảm
1.1.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm trên lâm sàng
Dù ở mức độ nào điển hình hay khơng điển hình, mức độ nặng, trung bình hay
nhẹ thì chẩn đoán trầm cảm ở Việt Nam trong những năm gần đây đều áp dụng các
nguyên tắc chẩn đoán đã được mơ tả trong ICD-10 [7]. Trong đó phải có các triệu
chứng đặc trưng sau:
1. Khí sắc trầm.
2. Mất quan tâm thích thú.
3. Giảm năng lượng, dễ mệt mỏi dù chỉ sau một cố gắng nhỏ.
và thường có những triệu chứng phổ biến khác là:
1. Giảm sút sự tập trung và chú ý.
2. Giảm sút tính tự trọng và lịng tự tin.
3. Có ý tưởng bị tội, khơng xứng đáng.
4. Nhìn vào tương lai ảm đạm, bi quan.
5. Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại cơ thể hoặc tự sát.
6. Rối loạn giấc ngủ.
7. Ăn ít ngon miệng.
Khi trầm cảm nặng thường có triệu chứng "sinh học" đó là: sút cân (5% trọng
lượng cơ thể trong vòng 4 tuần), giảm dục năng, ít ngủ, thức giấc sớm, sững sờ.
Tình trạng bệnh lý thường kéo dài ít nhất 2 tuần.
Chẩn đoán:
Trầm cảm mức độ nhẹ: chẩn đoán mức độ này khi bệnh nhân có ít nhất hai
trong số các triệu chứng đặc trưng và ít nhất hai trong số các triệu chứng phổ biến
và khơng có triệu chứng nào trong số các triệu chứng ở mức độ nặng. Các triệu
chứng này làm bệnh nhân gặp khó khăn trong các hoạt động xã hội, công việc


6


thường ngày nhưng vẫn có thể tiếp tục được. Trong trầm cảm mức độ nhẹ bệnh
nhân có thể có hoặc khơng có các triệu chứng cơ thể [7].
Trầm cảm mức độ vừa: khi bệnh nhân có ít nhất hai trong số ba triệu chứng đặc
trưng và ít nhất ba trong số các triệu chứng phổ biến. Các triệu chứng này gây khó
khăn đáng kể trong việc tiếp tục các chức năng nghề nghiệp, xã hội hoặc các sinh
hoạt trong gia đình. Bệnh nhân có thể có hoặc khơng có các triệu chứng cơ thể [7].
Trầm cảm mức độ nặng: khi bệnh nhân có cả ba triệu chứng đặc trưng và ít
nhất bốn trong số các triệu chứng phổ biến, vài triệu chứng trong số này phải ở mức
độ nặng. Trong giai đoạn trầm cảm mức độ nặng bệnh nhân không thể tiếp tục sinh
hoạt và làm việc được [7].
1.1.3.2. Chẩn đoán sàng lọc trầm cảm
Bên cạnh các tiêu chuẩn chẩn đốn trầm cảm trên lâm sàng thì cũng có những
thang điểm trắc nghiệm được sử dụng để chẩn đoán trầm cảm có thể sử dụng rộng
rãi ở cộng đồng như một cơng cụ sàng lọc hữu hiệu nhằm tìm ra một số lượng nhỏ
những đối tượng trong quần thể được dự đốn là có trầm cảm và đưa đến những
chẩn đốn chun khoa cao hơn. Có nhiều thang điểm trắc nghiệm để đánh giá các
mức độ trầm cảm, trong đó có các thang điểm trắc nghiệm được dùng phổ biến như:
trắc nghiệm của Beck và Hamilton, thang đánh giá trầm cảm The Centre for
Epidemiological Studies- Depression Scale (CES-D), thang đo Depression Anxiety
Stress Scales (DASS),…
Thang đánh giá trầm cảm của Hamilton, ra đời năm 1960, là một phương pháp
đơn giản để đánh giá bằng định lượng mức độ nghiêm trọng của tình trạng trầm
cảm, để chứng minh những chuyển biến của rối loạn này trong quá trình điều trị.
Thang điểm được xây dựng dựa trên bộ câu hỏi gồm 14 câu, trong đó 7 câu để đánh
giá mức độ trầm cảm và 7 câu đánh giá mức độ lo âu.
Thang tự đánh giá trầm cảm Beck Depression Inventory (BDI), được Beck AT
(Mỹ) và cộng sự xây dựng năm 1961, gợi ý từ những quan sát lâm sàng bệnh nhân
trầm cảm, nhất là từ liệu pháp tâm thần. Thang đo gồm 21 câu hỏi có các đề mục để
đo lường mức độ của các triệu chứng cả về mặt tâm lý và về mặt cơ thể. Test này đã
được dùng rất phổ biến trên thế giời trong nhiều năm qua, được WHO công nhận



7

đểđánh giá trạng thái trầm cảm và hiệu quả của các phương pháp điều trị. Ở Việt
Nam thang đo này đã được chuẩn hóa và dùng phổ biến tại Viện Sức Khỏe Tâm
Thần Quốc Gia từ năm 1989.
Thang đánh giá trầm cảm CES-D, ra đời năm 1977. Ưu điểm của thang đánh
giá này là sử dụng được ở cộng đồng để phân biệt các trường hợp có nguy cơ trầm
cảm cần phải có can thiệp tiếp. Thang đo này đã được đánh giá về tính giá trị và độ
tin cây đối với đối tượng vị thành niên ở Việt Nam.Thang đánh giá gồm 20 câu.
Các câu hỏi trong thang đo ngắn gọn và dễ sử dụng. Được thiết kế bao gồm các
triệu chứng chính của trầm cảm được xác định với sự nhấn mạnh vào các phần tình
cảm : trầm cảm tâm trạng, cảm giác tội lỗi và vô dụng, cảm giác bất lực và tuyệt
vọng, chậm phát triển tâm thần, mất cảm giác ngon miệng và rối loạn giấc ngủ. Hai
mươi câu hỏi về cảm xúc thanh thiếu niên hoặc hành vi liên quan đến triệu chứng
trầm cảm. CES-D được sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu ở cộng đồng [26].
Thang đo tự đánh giá về trầm cảm, lo âu, stress trên đối tượng vị thành niên và
người trưởng thành – DASS được phát triển bởi Livibond and Livibond năm 1995,
nhằm đo lường mức độ trầm cảm, lo âu, stress mà chủ thể nhận thấy về cuộc sống
của họ trong tuần vừa qua. Thang đo bao gồm hai phiên bản DASS-42 và DASS-21.
Phiên bản DASS-21 thang đo được chia là 3 phần mỗi phần 7 câu để hỏi về trầm
cảm, lo âu và stress. Sử dụng thang đo này có thể đo lường đồng thời cả 3 triệu
chứng [15].
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÌNH HÌNH TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN
Y KHOA
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Cùng với nhịp phát triển kinh tế, xã hội của thế giới trầm cảm ở thanh niên và
vị thành niên cũng xuất hiện và ngày càng phổ biến. Bên cạnh các yếu tố tác động
như những đối tượng khác, sinh viên y khoa (SVYK) còn phải chịu áp lực học tập

cao hơn. Do đó, trầm cảm ởSVYK cũng nhận được sự quan tâm lớn.
Các nghiên cứu về trầm cảm ở đối tượng SVYKđã được thực hiện ở rất nhiều
nơi trên thế giới. Trong những năm gần đây cũng được tiến hành phổ biến ở Châu Á,
Châu Phi và cho thấy một tỷ lệ trầm cảm ở mức cao. Trong đó có thể kể đến một vài


8

nghiên cứu mà kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trầm cảm thuộc nhóm cao điển hình
là: nghiên cứu cắt ngang của Ayat R.Abdallah [11]tiến hành trên 379 SVYK năm thứ
nhất, đại học Menoufiya, Ai Cập, nhằm xác định tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress và xác
định các yếu tố liên quan. Nghiên cứu sử dụng thang đo DASS-21, kết quả nghiên
cứu cho thấy tỷ lệ trầm cảm trong sinh viên (SV) là 63,6% và mức độ vừa phải chiếm
ưu thế.Nghiên cứu cắt ngang của Shawaz Iqbal, Sandhya Gupta và E. Venkatarao
[19] thực hiện tạiViệnKhoa học Y khoaởBhubaneswar, Orissa, Ấn Độ, nhằm nghiên
cứu về stress, lo âu và trầm cảm trong số SV y chưa tốt nghiệp và mối liên quan với
các đặc điểm xã hội - nhân khẩu học, sử dụng thang đo DASS-42. Kết quả nghiên
cứu cho thấy hơn một nửasố người được hỏiđã bị ảnh hưởngbởitrầm cảm51,3% (trầm
cảm mức độ vừa trở lên là: 36,5%).
Tỷ lệ trầm cảm thấp hơn được tìm thấy trong kết quả của các nghiên cứu như:
Nghiên cứu về trầm cảm, lo âu và các nhân tố liên quan ở SV y của Tabassum Alvi
và cộng sự [9], tiến hành trên 279 SV y tại đại học Wah, Pakistan, năm 2010, sử
dụng thang đo BDI cho thấy trầm cảm tìm thấy ở 35,1% SV trong đó trầm cảm nhẹ
19,7%, vừa 11,1% và nặng 4,3%. Nghiên cứu cắt ngang của Saravanan C. và Wilks
R. [28] tiến hành năm 2014 nhằm xác định tỷ lệ trầm cảm và lo âu trong một mẫu
gồm 358 SVYK học tại một trường đại học tư nhân ở Malaysia, nghiên cứu có sử
dụng thang đo DASS-21 cũng cho biết rằng34,9% (� = 125) SVđã được báo cáo là
có trầm cảm.
Bên cạnh những nghiên cứu ở đối tượng SVYK nói chung thì một số nghiên
cứu ở đối tượng SV Điều Dưỡng (ĐD) cũng đã được tiến hành và kết quả nghiên

cứu thể hiệntỷ lệ trầm cảm ở mức còn cao hơn kết quả nghiên cứu ở Pakistan và
Malaysia tiến hành trên đối tượng SV y như: Nghiên cứu ở 142 SVĐD của Khoa
Điều Dưỡng Viện Giáo dục Công nghệ Thessaloniki, sử dụng thang đo Beck
Depression Inventory – II (BDI-II). Kết quả nghiên cứu cho thấy 43,9% đối tượng
nghiên cứu có trải qua các triệu chứng trầm cảm (mức độ nghiêm trọng: 30% nhẹ,
6% trung bình, 8% nặng) [22]. Nghiên cứu cắt ngang của Fatemeh
Rezayat và Nahid Dehghan Nayeri [27] về mức độ của trầm cảm và sự quả quyết


9

trong SV ĐD được tiến hành tại đại học Khoa học y tế Tehran, Iran, năm 2012, sử
dụng thang đo BDI. Kết quả nghiên cứu cho thấy 38,7% SV đã bị trầm cảm từ nhẹ
đến nặng.
Bên cạnh tỷ lệ trầm cảm thì các yếu tố liên quan đến trầm cảm cũng được tìm
thấy trong các nghiên cứu trên với các yếu tố điển hình được khảo sát thuộc về các
yếu tố nhân khẩu học, yếu tố liên quan đến học tập của đối tượng nghiên cứu như:
nghiên cứucủa Tabassum Alvi [9] cho biết trầm cảm phổ biến hơn ở SV năm 2 (tỷ lệ
43%), tuổi (p=0,013), giới (p=0,016), không bằng lòng với kết quả thi cử (p=0,002),
quá sức với thời hạn kiểm tra (p=0,002) có sự liên quan đáng kể với trầm cảm.
Nghiên cứu của Ayat R.Abdallah[11] kết luận các yếu tố có mối liên quan với trầm
cảm là: nam giới, ở nơng thơn, sống một mình, khó khăn trong học tiếng anh có
nguy cơ cao mắc trầm cảm. Nghiên cứu của Shawaz Iqbal[19] cũng cho biết điểm
số cao hơn của bệnh trầm cảm được tìm thấy có liên quan với giới tính nữ, học kỳ
thấp (tỷ lệ mắc bệnh đã được tìm thấy nhiều hơn ở học kỳ thứ 5). Khác với kết quả
của Alvi [9] kết quả nghiên cứu của Melassa-HalikiopoulouC.[22] ở SV ĐD lại ghi
nhận điểm số trầm cảm thấp nhất ở SV năm 2 trong khi đó lại tăng cao hơn ở năm 1
và năm 3. Mặt khác, nghiên cứu của Saravanan C. và Wilks R.[28] lại cho thấy rằng
khơng có ý nghĩa trong mối quan hệ giữa giới tính, năm học hoặc giai đoạn đào tạo
với sự tồn tại hay không tồn tại của trầm cảm.

Các yếu tố liên quan khác cũng được tìm hiểu như: liên quan giữa sự quyết
đoán và trầm cảm ở nghiên cứu của Fatemeh Rezayat và Nahid Dehghan Nayeri
[27] trong số SV ĐDcho thấy một mối tương quan nghịch đảo ở mức trung bình (r =
0,314 và p<0,001) giữa sự quyết đốn và trầm cảm và mối quan hệ có ý nghĩa giữa
trầm cảm và quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu (p = 0,001).Hơn nữa theo nghiên
cứu của Shawaz Iqbal [19] thì các yếu tố:tuổi trẻ, khơng hút thuốc, học sinh hài
lịng với nền giáo dục thì có tỷ lệ trầm cảm thấp hơn.
1.2.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Cùng với quá trình đi lên của đất nước từ một nước nghèo gia nhập vào nhóm
các nước đang phát triển thì sự xuất hiện và gia tăng của trầm cảm đặc biệt là trầm
cảm ở đối tượng thanh thiếu niên cũng được chú ý với một loạt các nghiên cứu về
trầm cảm và các yếu tố liên quan với nó trên các đối tượng khác nhau. Tương tự


10

như ở các quốc gia khác thì đối tượng SV y của Việt Nam cũng là đối tượng được
lựa chọn tham gia nhiều vào các nghiên cứu về trầm cảm với quy mô nghiên cứu
lớn nhỏ và sự phân bố trải dài trên khắp các trường y của nước ta.
Kết quảcác nghiên cứu đưa ra cũng cho thấy một tỷ lệ ở mức tương đối cao
của trầm cảm trong SV các trường y tại nước ta nhưng nhìn chung vẫn ở mức thấp
hơn so với tỷ lệ trầm cảm tìm thấy ở đối tượng SV y trên thế giới cụ thể: kết quả
củanghiên cứu mô tả cắt ngang trên 2099 SV y các năm 1, 3 và 5 tại tám trường y
của Việt Nam do nhóm tác giả Trần Quỳnh Anh, Michael P Dunne, Hoạt Lưu Ngọc
[10] thực hiện về hạnh phúc, trầm cảm và ý định tự sát trong số SV y của Việt Nam,
sử dụng thang đo CES-D để đo lường mức độ trầm cảm. Kết quả nghiên cứu cho
thấy khoảng 25% SV có trải qua trầm cảm mức độ nhẹ trong thời gian gần đây.Một
nghiên cứu nhỏ hơn ở đối tượng SV yđa khoa trường đại học Y Hà Nộicủa tác
giảNguyễn Thị Bích Liên [3], sử dụng thang đo CES-D cho thấy tỷ lệ SV có nguy
cơ trầm cảm cao là 47,6%.

Tỷ lệ trầm cảm thấp hơn được tìm thấy trong nghiên cứu của tác giả Trần Thị
Kim Trang [8]tiến hành trên 483 SV năm thứ 2 khoa y và răng hàm mặt Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHYD TPHCM)trong tháng 6/2011nhằm khảo sát
tình trạng stress, lo âu và trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu. Sử dụng thang đánh giá
DASS -21. Kết quả cho thấy tỷ lệ SV bị trầm cảm 28,8% (mức độ nhẹ, vừa, nặng và
rất nặng lần lượt là: 11,2%, 8,1%, 0,8%, 2,3%).Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn
Hùng [16] về mối liên quan giữa chiến lược học tập tự điều chỉnh với thành tích học
tập và sức khỏe tâm thần trên 1246 SV y khoa từ năm 1 đến năm 5 trường Đại học Y
Dược Huế có sử dụng thang đo DASS-21. Kết quả nghiên cứu cho biết tỷ lệ trầm
cảm trong SV ở mức độ vừa trở lên là: 22,8%.
Ngoài các nghiên cứu tiến hành trên đối tượng y đa khoa, nghiên cứu về trầm
cảm ở các đối tượng khác cũng đang được chú trọng như: nghiên cứu về trầm cảm
và các yếu tố liên quan đến trầm cảm trong SV ĐDtại trường đại học Y Thái
Nguyên, năm 2011 của tác giả Hoàng Minh Hương [18], sử dụng thang đo CES-D.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng 45,6% SV ĐDcó điểm số được báo cáo là trầm
cảm (CES-D ≥ 16). Cũng báo cáo tỷ lệ trầm cảm ở SV là 45,6%(trong đó trầm cảm


11

mức độ vừa trở lên là 24,3%) là kết quả củanghiên cứu về trầm cảm, lo âu và stress
ở đối tượng SV y học dự phịng hệ chính quy năm 2015 của tác giả Nguyễn Tất Hòa
[2] được thực hiện tại trường Đại học Y Dược Huế, sử dụng thang đo DASS- 21.
Các yếu tố liên quan đến trầm cảm rất đa dạng cũng được tìm hiểu trong các
nghiên cứu này chủ yếu thuộc về các yếu tố nhân khẩu học và các yếu tố thuộc về
lối sống, mối quan hệ cá nhân và đặc điểm môi trường học tập. Các yếu tố có liên
quan đến trầm cảm được tìm thấy trong các nghiên cứu như: nghiên cứu của tác giả
Trần Quỳnh Anh[10]cho thấy SV nữ nói chung và SV năm nhất trải qua mức độ
trầm cảm cao hơn. Khó khăn về tài chính, có vấn đề với các mối quan hệ bao gồm
cả sự chia tay với người yêu và xung đột với bố mẹ có ảnh hưởng bất lợi mạnh mẽ

tới sức khỏe tâm thần cũng có liên quan đến trầm cảm.
Theo nghiên cứu cắt ngang về trầm cảm, ý định tự sát và lo âu ở SVYK miền
trung Việt Nam: tỷ lệ và các yếu tố liên quan được thực hiện bởi nhóm tác giả Võ
Văn Thắng, Trần Bình Thắng, Trần Quỳnh Anh và Michael P Dunne[6]đã tìm ra các
yếu tố liên quan đến trầm cảm là: giới tính (nữ), hơn nhân bố mẹ (ly dị/ly thân), nghề
nghiệp mẹ (nông dân), điểm tổng kết năm học và những sự kiện căng thẳng trong
cuộc sống.Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Liên [3] thì cho kết quả SV nữ có nguy
cơ trầm cảm lớn hơn 0,51 lần so với nam. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc trầm
cảm: khơng hài lịng trong các mối quan hệ với gia đình; mất người thân, bạn thân;
giảm sút sức khỏe; tăng áp lực học hành theo đó SV có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,2
lần ở những bạn có tăng áp lực học hành. Nghiên cứu khơng tìm thấy sự liên quan
giữa trầm cảm với các yếu tố: năm học và các biện pháp ứng phó với khó khăn.
Trái ngược với các kết quả rằng SV nữ cho thấy tỷ lệ trầm cảm cao hơn thì kết
quả nghiên cứu của tác giả Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, Michael Dunne[5]lại cho thấy
SV nữ ít trầm cảm hơn SV nam. Những yếu tố gia đình có ảnh hưởng đến mức độ
trầm cảm của SV nam trong khi những yếu tố liên quan đến mơi trường học tập có
mối liên hệ mạnh mẽ với mức độ trầm cảm của SV nữ. Nghiên cứu của Trần Thị
Kim Trang [8]cho thấy không khác biệt giữa các mức độ trầm cảm theo nguồn cư
trú và giới tính, riêng với giới tính thì trầm cảm nhất là ở mức độ nặng và rất nặng
thì nam nhiều hơn nữ.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Hùng [17]cho thấy phương pháp học tập


12

có ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của SV, cụ thể là việc áp dụng chiến lược học
tập tự điều chỉnh giúp giảm mức độ nghiêm trọng của trầm cảm ở SV, từ đó góp
phần nâng cao thành tích học tập.Nghiên cứu cịn tìm được các yếu tố khác liên
quan với trầm cảm, lo âu và stress là tài chính khó khăn, mất người thân và tiền sử
gia đình. Nghiên cứu khơng tìm được mối liên quan giữa trầm cảm với giới

tính.Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tất Hịa [2] cũng đã tìm được các yếu tố nguy
cơ với trầm cảm: ở trọ (nhất là ở trọ với người quen hoặc với bạn), cảm thấy áp lực
học tập nặng nề, gặp khó khăn trong tìm kiếm phương pháp học tập phù hợp, thiếu
trang bị máy vi tính phục vụ học tập, tình trạng tài chính khó khăn, hiện tại đang bất
hịa với người u, tiền sử gia đình, chọn biện pháp ứng phó với tiêu cực là tự giải
quyết hoặc khơng làm gì khi gặp khó khăn. Các yếu tố bảo vệ được tìm thấy là: có
bạn thân, tập thể dục thường xuyên, hài lòng với mối quan hệ gia đình, bạn bè, chọn
biện pháp ứng phó tích cực là tâm sự với bạn bè khi gặp khó khăn..
1.3.Mơ tả địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Trường Đại học Y Dược Huế.
Trường Đại học Y Dược Huế là một trong số 8 trường đại học thuộc đại học
Huế nằm ở trung tâm thành phố Huế được thành lập vào năm 1957. Hiện nay có
hơn 10.000 SV đang học tập và nghiên cứu tại trường. Các đối tượng đang được
trường đào tạo gồm: hệ chính quy, hệ vừa học vừa làm và hệ sau đại học. Năm
2004, khoa Điều Dưỡng, trường Đại học Y Dược Huế được thành lập trên cơ sở
của bộ môn Điều Dưỡng (1998). Từ đó bắt đầu đào tạo cử nhân Điều Dưỡng chính
quy hệ 4 năm. Trường đào tạo ngành Kỹ thuật Y Học (KTYH) hệ chính quy 4
năm, gồm 3 mảng chính: xét nghiệm, vật lý trị liệu và chẩn đốn hình ảnh. Hiện
nay, nhà trường chính thức tách ngành KTYH thành hai chuyên ngành riêng biệt
đó là kỹ thuật xét nghiệm y học, kỹ thuật hình ảnh y học nhằm đào tạo được
những kỹ thuật viên y học có đạo đức, có kiến thức và giỏi về kỹ năng nghề
nghiệp chuyên môn.


13

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên Điều Dưỡng và Kỹ thuật Y học hệ chính quy từ năm 1 đến năm 4,
Trường Đại học Y Dược Huế năm học 2015-2016.
Tiêu chuẩn lựa chọn : Sinh viên đồng ý tham gia vào nghiên cứu và có mặt tại
thời điểm lấy số liệu nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Sinh viên không đồng ý tham gia vào nghiên cứu hoặc khơng có mặt tại thời
điểm lấy số liệu nghiên cứu.
- Sinh viên các chuyên ngành khác và sinh viên không nằm trong hệ đào tạo
chính quy khơng nằm trong mẫu nghiên cứu này.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng, mơ tả cắt ngang.
2.2.2. Phương pháp tính cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo cơng thức ước lượng một tỷ lệ trong quần thể:
n = Z2(1 - ) x
Trong đó:
n: cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra trên SV.
α: mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05 thì Z(1-α/2) = Z0,975 = 1,96 (trị số từ phân
phối chuẩn).
d: sai số cho phép giữa tỷ lệ trầm cảm thu được từ mẫu nhiễn cứu (p) và tỷ lệ


14

trầm cảm thực của quần thể (P), ở đây ta lấy d= 0,05.
p: tỷ lệ ước đoán của quần thể =0,456 (theo nghiên cứu “Tỷ lệ và các yếu tố
liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên y học dự phịng hệ chính quy

Trường Đại học Y Dược Huế” của tác giả Nguyễn Tất Hòa năm 2015, kết quả thu
được là có 45,6% SV có trầm cảm trong tổng số 423 SV tham gia nghiên cứu) [2].
Thay vào công thức trên, ta được:
n = Z2(1 - ) x = 1,962 x = 382 SV
Thêm 10% số mẫu tối thiểu dự trù trường hợp một số mẫu có thể bị mất trong
q trình thu thập số liệu. Khi đó, ta tính được cỡ mẫu là: 382 + 382 x 0,1 = 421 SV.
Để tăng độ chính xác của nghiên cứu ta chọn cỡ mẫu của nghiên cứu là:
n=450 SV.
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu
Áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo tỷ lệ gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phân tầng theo tỷ lệ đối với từng năm học theo ngành.
Giai đoạn 2: Tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên đơn theo tỷ lệ đối với từng lớp.
2.2.3.1. Tính tốn số mẫu phù hợp với tỷ lệ cho mỗi tầng
Số mẫu phù hợp theo tỷ lệ cho mỗi tầng được tính tốn dựa trên cơng thức:
ni = n x
Trong đó:
ni: Cỡ mẫu của tầng i
n: Cỡ mẫu nghiên cứu
Ni: Số lượng quần thể tầng i
N: Số lượng của quần thể
Sinh viên ngành Điều Dưỡng năm 1 có Ni = 151 sinh viên, cỡ mẫu của nghiên cứu
n=450, số lượng SV của cả hai ngành là N=870. Thay vào cơng thức trên ta có:
n(Điều Dưỡng 1) = 151 x = 78 SV


15


16


Tương tự vậy, ta có thể tính số SV được chọn vào mẫu trong mỗi ngành
như sau:
Bảng 2.1.Số sinh viên được chọn vào mẫu nghiên cứu
theo năm và ngành học
Ngành học

Điều Dưỡng

Kỹ thuật xét nghiệm y học

Kỹ thuật hình ảnh y học

Năm học

Tổng số

Số mẫu

Năm 1

151

78

Năm 2

104

54


Năm 3

111

57

Năm 4

54

28

Năm 1

108

56

Năm 2

87

45

Năm 3

60

31


Năm 4

27

14

Năm 1

63

33

Năm 2

39

20

Năm 3

39

20

Năm 4

27

14


870

450

Tổng

2.2.3.2. Chọn số sinh viên vào mẫu trong mỗi lớp
Sau khi có danh sách các lớp theo ngành học và theo năm học. Tiến hành lập
khung mẫu bằng cách sắp xếp lại thứ tự tất cả các SV theo trật tự a, b, c,... của từng
năm theo ngành học. Sau đó, ta tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên đơn để chọn ra đủ
số mẫu cần thiết.
2.3. CÔNG CỤ VÀ KỸ THUẬT THU THẬP SỐ LIỆU
2.3.1. Công cụ thu thập số liệu
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền ẩn danh đã được thiết kế sẵn, bộ câu hỏi gồm 3 phần:
Phần 1: Thu thập thông tin về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (tuổi, giới
tính, dân tộc, ngành học, năm học,…).
Phần 2: Thu thập thông tin về các yếu tố liên quan đến trầm cảm bao gồm cả


17

thang đo áp lực học tập Education Stress Scale for Adolescents (ESSA).
Phần 3: Hỏi về sự tự nhận thức tình trạng trầm cảm của đối tượng qua thang
đo mức độ trầm cảm BDI-II.
Để đánh giá mức độ trầm cảm của SV nghiên cứu sử dụng thang đo BDI-II
của Aaron T.Beck đã được chuẩn hóa và sử dụng ở rất nhiều nghiên cứu về trầm
cảm trên thế giới. Ở nước ta cũng được chuẩn hóa và sửdụng phổ biến tại Viện Sức
Khỏe Tâm Thần Quốc Gia từ năm 1989.
Để đánh giá áp lực học tập của SV nghiên cứu sử dụng thang đo áp lực học tập
ESSA được phát triển năm 2010. Những yếu tố cấu trúc, tính thống nhất nội bộ, giá

trị đồng thời và giá trị tiên đoán cũng như đánh giá độ tin cậy và sự vững mạnh của
các yếu tố cấu thành thang đo ESSA đã được kiểm chứng trong nghiên cứu tại Sơn
Đông, Trung Quốc [21].
2.3.1.1. Thang đo mức độ trầm cảm BDI-II
Thang đo BDI-II là công cụ dùng để đo lường sự tự nhận thức về mức độ trầm
cảm được các nhà nghiên cứu sử dụng phổ biến trên thế giới [9], [22], [27].BDI
được xây dựng vào năm 1961, chuẩn hóa vào năm 1969, đăng ký bản quyền vào
năm 1979. Phiên bản hai của bộ trắc nghiệm này BDI-II được xây dựng theo những
sửa đổi trong phiên bản sửa đổi lần thứ tư của sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối
loạn tâm thần của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ.
Thang đo được xây dựng để đánh giá cường độ, mức độ và sự nhận thức về
trầm cảm ở những người có nguy cơ, nhằm đo lường mức độ trầm cảm mà đối
tượng tự nhận thấy về cuộc sống của họ trong 2 tuần vừa qua. Thang đo gồm 21 đề
mục, mỗi đề mục gồm bốn lựa chọn. Mỗi lựa chọn được ấn định một điểm từ 0 đến
3, cho biết mức độ của các triệu chứng. Các đề mục từ 1 đến 13 đánh giá các triệu
chứng về mặt tâm lý, trong khi các đề mục từ 14 đến 21 là về các triệu chứng cơ
thể. Tổng điểm trầm cảm là tổng điểm thành phần của 21 câu. Vì vậy, ta có điểm
thấp nhất là 0 điểm và cao nhất là 63 điểm.
Tổng điểm sẽ được so sánh với bảng thang điểm của của thang đo BDI-II để
đưa ra mức độ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu.


18


19

Bảng 2.2. Thang điểm phân chia mức độ trầm cảm theo BDI-II
Mức độ nghiêm trọng
Bình thường

Nhẹ
Trung bình
Nặng
Mức độ tin cậy của thang đo BDI-II :

BDI-II
0 – 13
14 – 19
20 – 28
29 – 63

Thang đo BDI-II có hệ số Cronbach’s alpha ở hầu hết các nghiên cứu về BDIII trung bình khoảng 0,9 (dao động trong khoảng 0,83-0,96). Điều này đảm bảo tính
nhất quán của thang đo khi hệ số Cronbach’s alpha > 0,7. Về mặt giá trị, thang đo
BDI-II được so sánh với các thang đo khác sử dụng để đánh giá trầm cảm như thang
đo CES-D, HAM-D, SDS, MADRS, GDS cũng cho thấy tính đồng thời và hiệu lực
của BDI-II ở mức khá cao, dao động 0,66-0,86. Về độ nhạy của thang đo, các
nghiên cứu về BDI-II đã báo cáo độ nhạy ≥ 0,7 và độ đặc hiệu là khoảng 75% và
cao hơn [31].
2.3.1.2. Thang đo áp lực học tập ESSA
Thang đo áp lực học tập ESSA là công cụ mới để đánh giá áp lực học tập được
sử dụng để đo lường tính chất đa chiều của căng thẳng trong học tập bao gồm: áp
lực từ việc học, lo lắng về điểm số, sự thất vọng, sự tự kỳ vọng và khối lượng cơng
việc. Với mục đích để xác định học sinh có nguy cơ rối loạn tâm thần thì thang đo
ESSA có thể phục vụ như là một cơng cụ hữu ích [24].
Thang đo này gồmcó 16 câu được chia thành 5 phần: áp lực từ việc học; lo
lắng về điểm số; sự thất vọng; sự tự kỳ vọng và khối lượng công việc. Mỗi câu sử
dụng thang điểm từ 1 (rất không đồng ý) đến 5 (hoàn toàn đồng ý) nhằm đo lường
mức độ stress trong học tập của đối tương nghiên cứu. Tổng điểm stress là tổng
điểm thành phần của cả 16 câu. Vì vậy, điểm thấp nhất là 16 và cao nhất là 80 điểm
với điểm số cao hơn chỉ mức độ căng thẳng hơn.

Đánh giá độ tin cậy của thang đo ESSA :
Tính nhất quán giữa các câu hỏi: Hệ số Cronbach’s Alpha cho tổng số 16 câu
hỏi của ESSA là 0,81 và các hệ số là 0,74, 0,71, 0,66, 0,66 và 0,75 cho năm yếu tố
tương ứng. Kết quả này cho thấy một mức độ tốt về nhất quán giữa các câu hỏi, nó
đảm bảo tính nhất qn của thang đo khi hệ số Cronbach’s alpha chung > 0,7 tất cả


20

cho thấy một mức độ tốt về độ tin cậy.Kiểm tra-kiểm tra lại độ tin cậy: các ICC cho
tổng số điểm ESSA là 0,78cho năm yếu tố tương ứng là 0,75, 0,61, 0,70, 0,59 và
0,62 cho thấy độ tin cậy tốt trong giai đoạn kiểm tra-kiểm tra lại. ICC cho mỗi một
câu hỏi trong số 16 câu hỏi khác nhau là trong khoảng 0,44-0,67 cho thấy trung
bình độ tin cậy tốt hơn hai tuần [24].
2.3.2. Kỹ thuật thu thập số liệu
Bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên các biến số nghiên cứu. Sau khi bộ câu hỏi
được hoàn thành tiến hành điều tra thử trên một mẫu nhỏ SV nhằm kiểm tra tính phù
hợp và logic của bộ câu hỏi trước khi chính thức thu thập số liệu nghiên cứu.
Trước khi tiến hành thu thập số liệu, các điều tra viên được phát bộ câu hỏi để
tìm hiểu, tập huấn trước về phương pháp và nội dung thu thập thông tin, giải đáp
những thắc mắc liên quan đến nghiên cứu, bộ câu hỏi và quy trình nghiên cứu.
Cơng tác thu thập số liệu được tiến hành trong tháng 11/2015 chọn khoảng
thời gian này vì khoảng thời gian này SV có mức độ chịu tác động của các yếu tố
cũng như áp lực học tập ở mức trung bình.
Sau khi đã chọn được các SV tham gia vào nghiên cứu các bạn sẽ được lên
danh sách theo mỗi lớp, liên hệ phòng đào tạo đại học để biết lịch học của từng
lớp. Trên cơ sở lịch học, chọn thời điểm phù hợp để tiến hành thu thập số liệu sao
cho ít ảnh hưởng nhất tới quỹ thời gian của những bạn được chọn tham gia vào
nghiên cứu.
Trong trường hợp SV có trong danh sách khơng tham gia nghiên cứu, điều tra

viên sẽ chọn ra một số bạn theo thứ tự trong danh sách mẫu dự phịng của lớp đó để
tiếp tục điều tra tránh mất mẫu ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.
2.4. CÁC BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU VÀ CÁCH LƯỢNG GIÁ
2.4.1. Các biến số về đặc điểm chung của sinh viên
- Tuổi
- Giới tính
- Chuyên ngành học
- Năm học


×