Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Thực trạng và giải pháp bảo tồn chầu văn trong tín ngưỡng thờ mẫu ở hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 77 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này tơi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô
trong khoa Khoa học xã hội – Trường Đại Học Hải Phịng đã quan tâm giúp đỡ chỉ bảo
tận tình trong q trình học tập, thực hiện đề tài.
Tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.s Hoàng Thị Mỹ đã trực tiếp hướng dẫn,
định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
trong quá trình tìm hiểu, đi thực tế cũng như thực hiện khóa luận .
Trên hết tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến các nghệ nhân
trong hội văn nghệ dân gian đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tơi có thể hồn thành tốt
mọi cơng việc trong q trình tìm hiểu, nghiên cứu.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng khóa luận khơng thể tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý quý báu của quý thầy cô để những
lần nghiên cứu sau đạt kết quả tốt hơn.
Sinh viên
Phạm Hồng Gấm


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Phạm Hồng Gấm, sinh viên lớp: Văn Hóa Du Lịch K10A, Khoa:
Khoa Học Xã Hội, Trường: Đại Học Hải Phịng.
Tơi xin cam đoan về tồn bộ nội dung cũng như giá trị của đề tài khóa luận
“Thực trạng và giải pháp bảo tồn Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải
Phịng” là cơng trình nghiên cứu sáng tạo của cá nhân tôi, không sao chép bất cứ một
cồng trình nghiên cứu của tác giả nào về đề tài trên.
Hải Phòng, ngày 1 tháng 6 năm 2013
Kí tên
Phạm Hồng Gấm


MỤC LỤC
6. Những đóng góp của đề tài...................................................................................3



1.2.1.2. Nguồn gốc hình thành............................................14
1.2.1.4. Lên đồng - nghi lễ tiêu biểu của Đạo Mẫu............17


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một thành phố nằm trong vùng đồng bằng Bắc bộ, có nền văn hóa dân gian
đặc sắc với các loại hình diễn xướng dân gian: ca trù, hát đúm...Hải Phòng còn là nơi
lưu giữ những giá trị truyền thống về tín ngưỡng thờ Mẫu với loại hình diễn xướng
Chầu Văn. Chầu Văn là một hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng
người Hải Phịng, gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu. Đây là một thể loại âm nhạc được
quy định khá chặt chẽ về mặt trình diễn, từ làn điệu, bài bản đến phương thức trình
diễn, trang phục cũng như sự kết hợp giữa hát và múa. Chính sự kết hợp chặt chẽ đó
đã tạo nên sự độc đáo hấp dẫn của loại hình âm nhạc này.
Hiện nay việc sưu tầm và nghiên cứu các thể loại âm nhạc cổ truyền của người
Việt là một đóng góp khoa học quan trọng vào công việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hoá phi vật thể của dân tộc. Trong những cơng trình sưu tầm và nghiên cứu về
Hát Văn (hay Hát Chầu Văn), còn nhiều vấn đề về mặt âm nhạc của loại hình này cịn
chưa được chú ý tới. Đặc biệt, hệ thống bài bản và nguyên tắc kỹ thuật nhạc hát, nhạc
đàn kèm theo khối lượng tư liệu vang (băng tiếng, băng hình) của nó vẫn chưa được
khai thác triệt để. Sau một thời gian dài bị kiềm tỏa vì nhiều lý do khác nhau, hiện nay,
mơi trường diễn xướng của loại hình này đã được khôi phục trở lại. Tuy nhiên, theo
thời gian, ở Hải Phòng hiện nay các bậc nghệ nhân (cung văn) mẫu mực cịn lại khơng
nhiều. Phần lớn trong số họ đã qua thế giới bên kia mà chưa kịp truyền lại hết những
vốn liếng vô giá cho thế hệ tiếp nối. Phần vì thiếu lịng tin bởi sự ám ảnh của quá khứ,
phần vì muốn “dấu nghề” do áp lực của cơ chế thị trường, nên phần lớn các cung văn
lớp kế cận đang hành nghề hiện nay đều chỉ nắm giữ được một phần những giá trị của
truyền thống. Sự thẩm định với những chuẩn mực nhà nghề dường như chỉ có ở một số
nghệ nhân lão thành cuối cùng. Điều đó cũng có nghĩa là hiện nay, có rất ít người "biết

nghe" hát văn thực thụ.
Bên cạnh đó, chúng ta khơng thể phủ nhận rằng Chầu Văn có thể tồn tại và phát
triển cho đến ngày nay là nhờ nó đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người. Trong
tiếng trống, tiếng nhạc, tiếng hát sôi động của các cung văn, âm nhạc Chầu Văn như
đưa con người ta vào một thế giới đầy hạnh phúc, tạm quên đi những vất vả, cơ cực
đời thường để hưởng thụ, để khát khao và mơ ước. Đó phải chăng là nguyên nhân

1


khiến Chầu Văn – một loại hình âm nhạc ra đời từ rất lâu nhưng cho đến hơm nay nó
vẫn có một chỗ đứng vững chắc, là món ăn tinh thần không thể thiếu của một bộ phận
dân chúng ở Hải Phịng nói riêng và cả nước nói chung.
Qua các thời kì phát triển của đất nước, Hát Chầu Văn đã có sự giao thoa với các
loại hình âm nhạc dân gian khác, do đó hát Chầu Văn Hải Phịng đã có nhiều sự thay đổi.
Đặc biệt hiện nay hát Chầu Văn đã phát triển theo hai hình thức: Hát Chầu Văn trong tín
ngưỡng thờ Mẫu và tách hát Chầu Văn thành một loại hình dân ca truyền thống.
Là một vùng đất “phên dậu” của tổ quốc, với những cư dân “ăn sóng nói gió”
cộng với q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh chóng, những giá trị văn hóa truyền thống
ở Hải Phòng đang ngày bị mai một, lai căng, biến tướng và có nguy cơ bị suy thối.
Chầu Văn cũng khơng nằm ngồi nguy cơ đó nếu chúng ta khơng tích cực gìn
giữ và bảo tồn.
Việc nghiên cứu thực trạng để có cách bảo tồn phát huy giá trị của Hát Chầu Văn
Hải Phòng là một việc làm cần thiết mang tính thời đại, đây sẽ là một trong những tiền
đề để giúp hát Chầu Văn được hoàn thiện hồ sơ khi trình lên UNESCO để cơng nhận
là “di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”.
Chính vì lý do đó, tơi đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp bảo tồn Chầu văn
trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phịng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
-


Đánh giá thực trạng của Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng

-

Đưa ra một số giải pháp và đề xuất nhằm bảo tồn Chầu văn trong tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Hải Phòng

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Chầu văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu

-

Phạm vi nghiên cứu: Thành phố Hải Phòng

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu khơng phải là đề tài mới mẻ.
Nói tới mảng đề tài này, chúng ta không thể không nhắc đến những tên tuổi như:
GS. Ngô Đức Thịnh với cơng trình “Hát văn và Đạo Mẫu ở Việt Nam”. Tác giả
đã dày cơng tìm hiểu và phân tích đặt hát văn trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ
Mẫu. Trong cơng trình “Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền”, GS. Ngô Đức Thịnh cũng

2


đề cập đến hát văn với bài viết “Hát văn- Hầu bóng, một hiện tượng văn hóa dân gian
tổng thể”. Bài viết đã chỉ rõ hát văn không phải là một thể loại riêng lẻ đứng độc lập
như các thể loại nhạc khác.

Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền cũng là người có nhiều bài viết về các thể loại
âm nhạc truyền thống. Bài viết “Nghệ thuật Hát Văn và tín ngưỡng Tứ Phủ” của ông
cũng đã nghiên cứu về vai trò, nhạc cụ, kĩ thuật thanh nhạc của Hát Văn.
Nguyễn Dậu với “Tiếng hát, giọng hát Chầu Văn”, Tạp chí Văn hóa, số tết, 1970.
Bùi Đình Thảo (1996), Hát Chầu văn, NXB Âm nhạc, Hà Nội.
Bên cạnh đó, nói đến Hát Văn phải kể đến tên tuổi của GS. Trần Văn Khê. Ơng đã
có nhiều bài viết, bài phát biểu đầy tâm huyết về thể loại nhạc đặc sắc này của Việt Nam.
Nhìn chung, các bài viết về Hát Văn rất phong phú được đề cập đến từ nhiều khía
cạnh khác nhau. Hiện nay, trên các báo viết và báo điện tử, chúng ta có thể bắt gặp rất
nhiều những bài viết, bài nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, những cơng trình kể
trên chủ yếu là những đánh giá mang tính chuyên biệt, thiên nhiều về âm nhạc.
Hơn nữa, việc nghiên cứu về Chầu văn ở Hải Phòng chưa thực sự được đầu tư.
Trên các trang mạng, trên Thư viện Thành Phố và Thư viện của Trường đại học Hải
Phòng tài liệu về Chầu Văn ở Hải Phòng hầu như vắng bóng. Do đó, đề tài “Thực
trạng và giải pháp bảo tồn Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng”là
một việc làm cần thiết.
5. Phương pháp nghiên cứu
-

Nghiên cứu tài liệu, sách báo

-

Thu thập thông tin trên các phương tiện truyền thông

-

Tham khảo ý kiến giảng viên hướng dẫn

-


Tổng hợp, phân tích dữ liệu.

-

Phương pháp xã hội học

-

Phương pháp khảo sát thực địa

6. Những đóng góp của đề tài
-

Đề tài góp phần cung cấp về mặt tư liệu cho những người quan tâm và muốn
tìm hiểu về vấn đề này.

3


-

Đề tài chỉ ra những thực trạng về Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải

Phịng, từ đó đưa ra một số giải pháp và đề xuất nhằm bảo tồn một loại hình sinh hoạt
văn hóa - tín ngưỡng đặc sắc của dân tộc.
-

Trong nỗ lực nghiên cứu để trình lên UNESCO cơng nhận nghi lễ Chầu văn là


di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong tương lai thì đây là việc làm thiết thực.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội Dung của khoá
luận được chia làm ba chương:
Chương 1. Tổng quan về thành phố Hải Phịng và Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Hải Phịng
Chương 2. Thực trạng Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hải Phòng
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo tồn Chầu Văn trong tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Hải Phòng

4


CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
VÀ CHẦU VĂN TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
1.1 Vài nét về khơng gian văn hóa Hải Phịng
1.1.1 Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Hải phòng - thành phố hoa phượng đỏ là một thành phố lớn, là một trung tâm du
lịch lớn của Việt Nam, là một mắt xích quan trọng trong tam giác kinh tế và du lịch
Hải Phòng - Hà Nội - Quảng Ninh là một nơi địa linh nhân kiệt có vị trí đặc biệt quan
trọng trong vấn đề quốc phòng, an ninh quốc gia, là phên dậu của tổ quốc, có thể nói,
đây là thành phố có tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế, nhất là du lịch.
Phía Đơng Bắc Hải Phịng giáp với Quảng Ninh, phía Tây Nam giáp với Thái
Bình, Tây bắc giáp với Hải Dương. Phía Đơng giáp với Vịnh Bắc bộ.
Hải Phịng có điều kiện tự nhiên và thiên nhiên đa dạng với nhiều quần đảo lớn
nhỏ nằm rải rác trên biển trong đó lớn nhất là đảo Cát Bà. Thiên nhiên đã ban tặng cho
Cát Bà những lợi thế về cảnh quan cũng như giá trị tài nguyên thiên nhiên, vườn quốc
gia Cát Bà với hệ động thực vật đa dạng, phong phú, quý hiếm và cả loài đặc hữu Cát
Bà đã vinh dự được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Hải Phịng có núi non trùng điệp, kề biển tạo nên cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp

cho phong cảnh hùng vĩ nên thơ. Với núi đá vơi có nhiều hang động xen kẽ với đồi đất
chạy dọc bờ sông, chạy xô ra biển tạo ra nhiều phong cảnh đẹp như núi đá Tràng Kênh
chạy song song soi bóng trên dịng sơng Bạch Đằng lịch sử.
Đồng bằng Hải Phòng hiện nay là một bộ phận vịnh Biển Đông xưa được sỏi,
cát, phù sa bồi tụ, thuộc loại đồng bằng ven biển. Với các con sông lớn như: Bạch
Đằng, Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình, sơng Cấm mang theo lượng phù sa lớn lắng
đọng trước cửa sông tạo thành các bãi, đảo như đảo Đình Vũ, bãi nhà Mạc, Đồ Sơn,...
Sơng ngịi ở Hải Phịng khá nhiều, mật độ trung bình từ 0,6 - 0,8 km/1 km². Đây
là nơi tất cả hạ lưu của sơng Thái Bình đổ ra biển, tạo ra một vùng hạ lưu màu mỡ, dồi
dào nước ngọt phục vụ đời sống con người nơi đây. Hai hệ thống sơng Hồng và sơng
Thái Bình liền nhau tạo thành đường giao thông thuỷ quan trọng nối liền các tỉnh ở
đồng bằng Bắc bộ với trung du, Việt Bắc, Tây Bắc.

5


Về khí hậu, Hải Phịng nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa Châu Á, nên chịu
ảnh hưởng của gió mùa.Với mùa đông lạnh và khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10. Khí hậu Hải Phịng khá
ơn hịa là điều kiện thích hợp cho du khách đi du lịch.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho Hải Phịng nhiều giá trị q báu, các lồi sinh vật đặc
biệt là các hệ sinh thái trong một khu vực. Với tài nguyên về thủy sản rất phong phú:
cá chim, cá thu, vược, nhụ, song, tu hài, bào ngư, sò huyết,...tất cả đã tạo ra sự đa dạng
về tài nguyên cho Hải Phịng.
Với lợi thế về vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của mình, Hải Phịng đã vươn lên
phát triển thành thành phố cảng lớn nhất miền Bắc, một đầu mối giao thông quan
trọng, là cửa ngõ ra biển của các tỉnh phía Bắc, phát triển thành trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của cả nước. Đồng thời với tiềm năng về tài nguyên thiên
nhiên có khí hậu ơn hịa, bờ biển dài, bãi cát đẹp, nước biển trong xanh,... Hải Phòng
đã sớm trở thành trung tâm du lịch biển lớn của vùng đồng bằng Bắc bộ.

1.1.2. Lịch sử hình thành
Hải Phịng là miền đất có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, xã hội lâu đời.
Sự hình thành và phát triển của Hải Phịng gắn liền với các chứng tích của người tiền
sử ở di chỉ khảo cổ học Cái Bèo (Cát Bà) thuộc văn hóa Hạ Long cách ngày nay
khoảng 4000 đến 6000 năm, với sự hình thành của nền văn minh sơng Hồng thuộc văn
hóa Đơng Sơn với các chứng tích của con người ở di chỉ khảo cổ học Tràng Kênh
(Thủy Nguyên), Núi Voi (An Lão) cách ngày nay từ 2000 năm đến hơn 3000 năm; với
truyền thuyết về tên tuổi của nữ tướng Lê Chân - người lập trang An Biên vào đầu
Cơng Ngun - cái nơi hình thành nên đơ thị Hải Phịng ngày nay.
Là vùng đất đầu súng, ngọn giáo, “phên dậu” phía Đơng của đất nước, Hải
Phịng có vị thế chiến lược trong tồn bộ tiến trình đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Người Hải Phòng với tinh thần yêu nước nồng nàn, tính cách dũng
cảm, kiên cường, năng động, sáng tạo đó từng chứng kiến và tham gia vào nhiều trận
quyết chiến chiến lược trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Hải Phòng là vùng đất in đậm dấu ấn trong lịch sử chống giặc ngoại xâm phương
Bắc với các chiến thắng trận Bạch Đằng: trận Bạch Đằng - 938 của Ngô Quyền, trận
Bạch Đằng - 981 của Lê Hoàn và trận Bạch Đằng - 1288 của Trần Hưng Đạo. Thời

6


nhà Mạc, vì đây là quê hương của nhà Mạc nên vùng này được chú ý xây dựng thành
kinh đô thứ hai gọi là Dương Kinh.
Với những trang sử hào hùng, tên gọi Hải Phịng cũng có bắt nguồn từ xa xưa.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về tên địa danh này. Có giả thiết cho rằng tên gọi
Hải Phòng ngày nay là tên viết ngắn của cụm từ “Hải tần phòng thủ” - một chức của
nữ tướng Lê Chân. Cũng có cách giải thích khác cho rằng Hải Phòng là tên rút ngắn
từ một cơ quan thời Tự Đức trên đất Hải Dương - “Hải Dương thương chính quan
phịng”...
Hiện nay có nhiều học giả nghiên cứu về nguồn gốc tên gọi Hải Phòng và cho

rằng “Hải Phòng vốn bắt nguồn từ tên một thành đồn là ty sở nha Hải Phòng hoặc đồn
Hải Phòng lập đời Tự Đức làm nhiệm vụ bảo vệ lối ra ở cửa biển này”.
Vào thế kỉ XVIII, thực dân phương Tây ráo riết tìm thuộc địa, âm mưu xâm lược
nước ta. Sau nhiều lần thăm dị, chúng đã chiếm được sơng Cấm, sơng Tam Bạc ép ta
kí hiệp ước nhượng đất.
1883, vua tơi nhà Nguyễn quy phục thực dân Pháp, Bắc bộ đặt dưới sự bảo hộ
của thực dân Pháp.
1887, tỉnh Hải Phòng thành lập 3 huyện: Nghi Dương, An Dương, An Lão.
1988, thực dân Pháp thành lập thành phố Hải Phòng, tách ra khỏi tỉnh Hải Phòng
và trở thành đơn vị hành chính riêng.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, do yêu cầu tác chiến, Hải Phòng và
Kiến An hợp nhất thành liên tỉnh Hải Kiến 1946. Sau khi hịa bình lập lại, 1962 hợp
nhất tỉnh Kiến An và thành phố hải Phòng lấy tên là thành phố Hải Phòng.
1.1.3. Diễn xướng dân gian
Hải Phòng – thành phố Hoa phượng đỏ, vẫn được bạn bè phương xa biết đến
như là một “miền sóng, miền gió” đầy chất thợ của bến cảng với những con tàu lớn
nhỏ khơi xa… mà ít ai hiểu được một Hải Phịng vốn sâu đậm văn hóa từ xưa, là cái
nôi nuôi dưỡng tinh hoa, sản sinh ra biết bao loại hình diễn xướng dân gian độc đáo,
để lại kho tàng văn hóa nghệ thuật cho dân tộc. Hải Phịng là địa phương bảo tồn được
nhiều loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian phi vật thể, hầu hết đều nằm ở các làng xã
thuộc các huyện ngoại thành nhất là ở Vĩnh Bảo và Thủy Nguyên.

7


Ngồi các cơng trình văn hóa vật thể, ở Vĩnh Bảo cịn có nhiều lễ hội dân gian,
tiêu biểu là lễ hội ở đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các loại trò chơi dân gian như: pháo
đất, thả đèn trời, tạc tượng,...nhưng đặc biệt hơn cả là loại hình nghệ thuật múa rối cổ
truyền gồm có: rối cạn, rối nước ở hai làng Bảo Hà và Nhân Mục.
Rối cạn: Có nguồn gốc ở làng Bảo Hà xã Đồng Minh, đây là làng tạc tượng nổi

tiếng, trong làng có miếu thờ tượng Linh Lang Đại Vương - hồng tử nhà Lý có cơng
đánh giặc Tống. Đây là bức tượng độc đáo ít nơi nào có được, tượng có thể đứng lên
ngồi xuống giống như một con rối khổng lồ, vì vậy có thể nói, nghề làm rối ở Bảo Hà
có từ thời Lý. Những con rối nhỏ đem biểu diễn được làm bằng gỗ mít, đẽo gọt rất tỉ
mỉ, được sơn son thếp vàng. Múa rối cạn thường được tổ chức trên sân khấu có đóng
khung, tấm vải căng cao chừng 1,5m để che người biểu diễn, địa điểm biểu diễn
thường ở sân đình, chùa. Các vở thường diễn về đề tài như: múa tứ linh - với con Lân
dũng mãnh, xông xáo, con Phượng ngơ ngác nhìn Rùa đang bơi trong nước rồi mổ nhẹ
vào lưng Rùa, Rùa hốt hoảng rụt lại, Phượng cũng giật mình vỗ cánh bay lên. Hay như
diễn lại tích truyện Tấm Cám có mụ dì ghẻ độc ác đối lập với cơ Tấm ngoan hiền, trị
đấu vật giữa những chàng trai lực lưỡng, hay những màn “chèo đị” lấy quạt giấy làm
sóng nước,...tất cả đều hiện lên rất thật, rất nhân văn. Múa rối cạn ở làng Bảo Hà khác
với những nơi khác, diễn viên đứng sau bức mành vẽ họa tiết vân tản, đứng ngang với
con rối, khi biểu diễn lại không để lộ que điều khiển. Nghệ thuật múa rối cạn làng Bảo
Hà là vốn văn hóa truyền thống đang cần sự đầu tư của Nhà nước nhằm phục dựng lại
nghề truyền thống.
Rối nước: khi nhắc đến múa rối nước ở Vĩnh Bảo người ta nhắc ngay đến hai
làng Nhân Mục và Cựu Điện thuộc xã Nhân Hòa. Nơi đây từ xa xưa đã có loại hình
nghệ thuật dân gian nổi tiếng, độc đáo, được quần chúng u thích, hưởng ứng nhiệt
liệt, đó là múa rối nước. Loại hình biểu diễn này lấy mặt nước làm sân khấu, có sự kết
hợp của tổng thể thiên nhiên: ao, hồ + pháo bông + con rối đã tạo nên một khung cảnh
đẹp đẽ, lãng mạn, đậm chất trữ tình. Múa rối nước vơ cùng phong phú về đề tài, nó
phản ánh cuộc sống của người nơng dân Việt Nam trong lao động sản xuất: cày, bừa,
úp nơm, bắt cá,...hay múa tứ linh, chọi trâu, đánh vật, cưỡi ngựa,...với sự sáng tạo
dùng lực đẩy của pháo đã tạo ra sự hấp dẫn cho người xem. Múa rối nước Vĩnh Bảo
đã nổi tiếng gần xa, vượt qua biên giới quốc gia, vươn tầm quốc tế, được bạn bè quốc
tế đón nhận nhiệt tình.

8



Tuy nhiên hiện nay nghề múa rối cạn, múa rối nước ở Vĩnh Bảo đang ngày bị mai
một, các nghệ nhân lão thành thì tuổi đã cao, lớp trẻ thì ít thời gian quan tâm tới loại
hình nghệ thuật truyền thống, vì vậy Nhà nước cần quan tâm hơn, đầu tư để duy trì
loại hình độc đáo này.
Hát Đúm ở Thủy Ngun
Hát Đúm có ở nhiều nơi trong Hải Phịng: Cát Bà, Cát Hải, Đồ Sơn, Thủy
Nguyên, nhưng hiện nay chỉ còn vùng Phục Lễ huyện Thủy Nguyên còn duy trì loại
hình này.
Trong góc tiếp cận về phương diện âm nhạc học thuần túy, "hát Đúm" không
phức tạp và ở cấp độ cao như hát quan họ Bắc Ninh. Thậm chí, các làn điệu âm nhạc
mới chỉ ở cấp độ đầu trong tương quan của các hình thái sinh hoạt âm nhạc dân gian
Việt Nam. Nhưng nếu nhìn nhận "hát Đúm" trong cách tiếp cận tổng thể một hiện
tượng văn hóa dân gian lại là vấn đề khơng đơn giản, địi hỏi nhiều trí tuệ của các nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian. "Hát Đúm" sinh ra từ chính nhu cầu của người dân lao
động, được bao thế hệ nghệ nhân sáng tạo không ngừng qua năm tháng, và đến hơm
nay vẫn là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian được nhiều người yêu thích nhất ở
miền quê này.
Đã từ lâu, cứ vào ngày mùng 4 đến ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch hàng năm,
Tổng Phục lại mở Hội làng. Hội làng đầu xuân có rất nhiều cuộc thi: Thi cỗ bánh, thi
dệt cửi, thi đánh đu, đánh vật, đánh cờ...nhưng cuốn hút nhất vẫn là thi hát Đúm. Đây
là lễ hội có truyền thống từ xa xưa và được duy trì đến tận hơm nay trong niềm đam
mê khơng chỉ của các nghệ nhân có tuổi, mà cả ở tầng lớp thanh, thiếu niên.
Hát Đúm cũng có thể diễn ra ở trên đường đi, ngoài cánh đồng khi các tốp trai
thanh, gái lịch trong những bộ quần áo truyền thống ngày hội gặp nhau. Họ nắm tay
nhau say sưa hát đối những làn điệu giao duyên thể hiện khát vọng về tình u đơi lứa
thơng qua nhiều câu hát ví von mang đậm chất dân gian của vùng q.
Hội làng bên bến sơng Rừng
Díu dan câu đúm lừng chừng bước chân
Đồng quê đang biếc lúa xuân

Cầm tay anh nắn... bâng khuâng bến chờ...
Hát Đúm có nhiều loại lần lượt theo trình tự: Hát chào, hát mừng, hát hỏi, hát mời
trầu, hát cưới, hát tiễn.

9


Lần lượt sau mỗi bài hát bên nam - nữ đối lại ít nhất là 4 câu lục bát, nhiều là 8, 9
câu, nếu bên nào không hát được sẽ bị thua.
Hát Đúm vui nhất là hôm hát giã đám. Lúc này họ trao giữ kỷ vật cho nhau, nấn ná
đến tận khuya, mà đưa ra toàn những bài hát hay, mới nhất từ nỗi lịng sâu kín của họ.
Hơm đó hai bên ít hát đối đáp mà tồn những bài trữ tình, bâng khuâng, lưu luyến…
Những yêu đương, thương nhớ, những xa cách, chia ly, những hứa hẹn, đợi chờ và hy
vọng… Họ mong đợi mùa hội sau, để lại được say đắm trong tiếng hát của nhau.
Vào những ngày xuân, hát Đúm như trỗi dậy một sức sống mới vốn tiềm ẩn từ lâu
trong tâm trí và tấm lòng của những người con quê hương hát Đúm. Các chàng trai, cô
gái vẫn duyên dáng, say sưa trong những làn điệu hát Đúm ngày xuân. Hát đúm cũng
như một số hình thái sinh hoạt văn hóa dân gian khác đã phải trải qua những bước
thăng trầm. Vậy mà, sức sống lâu bền, mãnh liệt của nó vẫn cịn đến ngày hôm nay.
Bài bản của "hát Đúm" rất phong phú. Người hát Đúm phải hát được nhiều làn
điệu như: Cò lả, trống quân, quan họ, sa mạc...Giai điệu gần với hát ví của đồng bằng
Bắc Bộ nhưng khác ở chỗ luyến láy, nhấn giọng. Nét đặc sắc của hát Đúm tổng Phục
là ứng khẩu, tùy hứng từ những hoàn cảnh cụ thể nên địi hỏi người hát phải thơng
minh, nhanh trí. Trình tự của cuộc hát đúm thường là gặp gỡ, hát chào, hát mừng, hát
hỏi, hát mời trầu, hát cưới, kết thúc là hát tiễn, hát ra về. Trong hồn cảnh cụ thể có thể
hát họa, hát mời đến chơi nhà, hát khuyên nhau đi học, hát đi lính, hát gửi thư...
Hát Đúm tổng Phục Thủy Nguyên - Hải Phịng là sinh hoạt văn hóa dân gian độc
đáo, loại hình nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm phong phú văn hóa dân gian Hải
Phịng. Di sản văn hóa ấy cần được kế thừa và phát huy.
Ca trù: hay còn được gọi là hát ả đào là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở

Hải Phòng kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15,
từng là một loại ca trong cung đình và được giới q tộc và trí thức u thích. Ca trù là
một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc vừa mang tính hàn
lâm, vừa mang tính bác học. Nội dung thể hiện bằng thơ, múa, nhạc, hát ca ngợi lối
sống khoan dung, thanh khiết, thủy chung, hết mình vì tổ quốc, thể hiện khát khao:
nhân, trung, hiếu, nghĩa.
Ca trù bắt nguồn từ phủ Kim Mơn với dịng họ Phạm (nghệ nhân Phạm Thị Sang
xưa là một cung nữ trong cung, vì có tiếng hát hay nên được vua cho về quê truyền

10


nghề, bà được coi như là tổ của ca trù) kết hợp với dịng họ Tơ, Nguyễn, Trần,
Lưu,...dần dần lan tỏa cả một vùng.
Thơ ca trù nói cái “ta”, cái chung cộng đồng, khích lệ tình u non sơng đất
nước, danh lam thắng cảnh, trào phúng, phê phán...Ca trù cổ gồm các thể thơ như:
Thất ngôn, ngũ ngôn bát cú, tứ tuyệt,...nhưng ngày này đã có thêm thể tự do, không
hạn định số câu chỉ cần đủ ý là được. Ca trù thường được hát ở tư gia khi có khao
vọng, hay hát ở cửa đình, ca trù Hải Phịng hình thành và phát triển đã đạt đến đỉnh
cao cả về thơ và nhạc.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Cơng
ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng
10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây
là di sản văn hóa thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất Việt Nam, có phạm vi tới 15
tỉnh, thành phố phía Bắc.
Ngồi những thể loại diễn xướng dân gian trên, Chầu Văn cũng là một thể loại
âm nhạc tín ngưỡng được ưa chuộng ở Hải Phịng mặc dù Hải Phịng khơng phải là
q hương của nó.Từ nơi cội nguồn Chầu Văn đã phát triển ra các vùng lân cận trong
đó có Hải Phịng và trở thành món ăn tinh thần của người dân nơi đây. Chầu Văn ra
đời để phục vụ cho mục đích hầu bóng, phục vụ cho tôn giáo. Các giai điệu hát hầu là

yếu tố đầu tiên, quan trọng chi phối tồn bộ hành trình một buổi lễ. Khơng có Chầu
Văn thì khơng thể hình thành được một vấn hầu. Đã có rất nhiều người cho Chầu Văn
là nhạc rock của Việt Nam. “Trong Shaman giáo nói chung và Lên đồng của Việt Nam
nói riêng, âm nhạc có vai trị quan trọng, nó cùng với các yếu tố màu sắc, động tác
múa, mùi vị chất kích thích (rượu, thuốc lá…) đưa ơng bà đồng vào trạng thái ngây
ngất, nhập đồng”.
Trước kia, nghi lễ lên đồng đã có một thời gian bị coi là hiện tượng mê tín dị
đoan nên bị xem nhẹ, cho nên Chầu Văn cũng khơng có đất dụng võ. Đến nay, các
hình thức diễn xướng đang từng bước được khôi phục, duy trì như vốn có, được cộng
đồng cư dân bảo vệ, giữ gìn. Tuy nhiên vẫn cịn tình trạng một số đồng đền, cung văn có
nhận thức chưa đầy đủ về giá trị nghi lễ Chầu Văn, một số nơi xuất hiện hiện tượng
thương mại hóa, lợi dụng các sinh hoạt nghi lễ và lễ hội để kiếm tiền vì mục đích cá
nhân, khơng gian thực hành nghi lễ bị sân khấu hóa nửa tâm linh, nửa trình diễn, làm

11


méo mó giá trị văn hóa của nghi lễ này. Để bảo tồn và phát huy tốt các giá trị của nghi lễ
Chầu Văn ở Hải Phịng thì chúng ta cần hiểu rõ bản chất của vấn đề, nghiên cứu kĩ về loại hình
âm nhạc này, vai trị quan trọng của nó với tín ngưỡng thờ Mẫu, vén màn bí ẩn, mê tín dị đoan,
đưa nó vào đời sống nhân dân.
1.2 Khái quát về Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu
1.2.1 Tín ngưỡng thờ Mẫu
1.2.1.1 Khái niệm
Ở Việt Nam đa phần các nhà nghiên cứu tơn giáo cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu
là một loại hình tín ngưỡng dân gian, đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Nội hàm của tín ngưỡng thờ Mẫu
được dùng để biểu thị sự tơn vinh một nhân vật nào đó hay có thể đồng nhất với việc
thờ các vị nữ thần hiển linh, được tôn phong là Mẫu như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu,
Thánh Mẫu,...Tín ngưỡng Thờ Mẫu cịn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn đó chỉ là

dạng hình thức tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ, hình thức thờ cúng
những vị Mẫu cai quản trong vũ trụ.
Hiện nay chưa có cách đánh giá thống nhất về thờ Mẫu nhưng cơ bản có bốn loại
ý kiến đánh giá về thờ Mẫu:
Loại thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai.
Loại thứ hai: Xem thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian.
Loại thứ ba: Xem thờ Mẫu vừa là tín ngưỡng vừa là tập tục truyền thống.
Loại thứ tư: Xem thờ Mẫu là một “Đạo” có nghĩa là con đường, cách thức.
Với rất nhiều quan điểm khác nhau vậy, thiết nghĩ để hiểu về tín ngưỡng thờ Mẫu
một cách đầy đủ trước hết chúng ta phải hiểu về danh từ Mẫu - một danh từ gốc Hán
Việt được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Mẫu có thể được hiểu là mẹ, mụ, mạ, mế
với nghĩa chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó.
Mẫu cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn đó là sự tơn vinh, tơn xưng một nhân
vật nữ nào đó có thật hoặc khơng có thật như Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Nghi
Thiên Hạ.
Mẫu còn được dùng để chỉ sự sinh sôi nảy nở không ngừng của vạn vật như
những danh xưng: Mẹ cây, Mẹ lúa, Mẹ đất, Mẹ nước, Mẹ xứ sở…

12


Ở Đồng bằng Bắc Bộ, tín ngưỡng thờ Mẫu được hiểu là một loại hình tín
ngưỡng dân gian được tích hợp bởi các lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, thờ Mẫu thần và
thờ Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin vào quyền năng của Mẫu - đấng sáng tạo, bảo trợ
cho sự tồn tại và sinh thành của vũ trụ, đất nước và con người. Trong đó, thờ nữ thần
là thờ những vị thần là nữ. Nữ thần được thờ có thể là thần tự nhiên và cũng có thể là
nhân thần như thần Mưa, thần Mây, Mẹ lúa, Mẹ cá hoặc Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Âu Cơ,
Ỷ Lan...
Còn thờ Mẫu là sự phát triển của thờ Nữ thần, ở đó chỉ những nữ thần là chủ
thể của sinh nở mới được tôn là Mẫu. Danh xưng Mẫu gắn với chức năng sinh đẻ,

chăm sóc, ni dạy con cái. Cịn trong thờ Nữ thần có các nữ thần khơng bao hàm yếu
tố này như những “Bà cô” - những người không chồng, không con hoặc những phụ nữ
bị chết trẻ chưa chồng.
Nếu như thờ Mẫu thần được phát triển trên nền tảng thờ Nữ thần thì tín ngưỡng Tam
Phủ - Tứ Phủ có thể được coi là bước phát triển cao hơn về nhiều mặt từ thờ Mẫu thần.
Trong quan niệm dân gian của người Việt, “phủ” được hiểu là lâu đài, cung điện,
nơi ở của Chúa (tức là người có vị thế dưới vua). Theo Từ điển tiếng Việt, “phủ” có
thể hiểu là một đơn vị hành chính như một vùng, miền hay một không gian địa lý nào
đó. Người Việt cho rằng thế giới tự nhiên có thể được chia thành bốn vùng - tứ phủ:
Phủ Thượng Thiên (vùng trời); Phủ Thượng Ngàn (vùng rừng); Phủ Thủy (vùng nước)
và Địa Phủ (vùng đất). Đứng đầu và có quyền năng cai quản bốn vùng là bốn vị thánh
Mẫu: Mẫu Thượng Thiên; Mẫu Thượng Ngàn; Mẫu Thủy; Mẫu Địa. Tuy nhiên, trong
điện thần chỉ có Tam tịa gồm ba vị thánh Mẫu là Mẫu Thượng Thiên; Mẫu Thượng
Ngàn; Mẫu Thủy là thường xuyên xuất hiện còn Mẫu Địa rất ít gặp trong điện thờ
Mẫu. Bên cạnh cách hiểu này cũng có những cách lí giải khác: Tam Tịa – Tứ Phủ là
những Phủ Thượng Thiên, Phủ Thượng Ngàn,Thủy Phủ và một phủ thuộc về con
người - Nhân Phủ với sự hiện diện của Mẫu Liễu Hạnh. Trong một số trường hợp,
Mẫu Liễu Hạnh hóa thân vào Mẫu Thượng Thiên nên trong điện chỉ có Tam tịa nhưng
thực chất lại có sự hiện diện của Tứ phủ. Do đó mà gọi là Tam tịa - Tứ phủ.
Tóm lại, tín ngưỡng thờ Mẫu có thể được hiểu là “một loại hình tín ngưỡng dân
gian được tích hợp bởi các lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, thờ Mẫu và thờ Tam phủ - Tứ
phủ với niềm tin thiêng liêng vào quyền năng của Mẫu – đấng sáng tạo và bảo trợ cho

13


sự tồn tại sinh thành của vũ trụ, đất nước và con người. Trong quá trình nảy nở, vận
động và biến đổi, nó đã và đang chuyển hóa từ tín ngưỡng nguyên thủy để trở thành
một tôn giáo sơ khai.
1.2.1.2. Nguồn gốc hình thành

Người Việt và các dân tộc khác ở nước ta vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa ở
vùng nhiệt đới gió mùa. Từ ngàn đời nay, quan niệm, lối nghĩ đến nếp sống của họ về
cơ bản vẫn là nông dân. Đi sâu vào đời sống của người nơng dân trồng lúa nước thì đất
và nước là những điều kiện quan trọng hàng đầu, nó ni sống cây lúa để sản sinh ra
thóc gạo ni sống con người. Người Việt đã dựa trên cơ sở những cảm nhận trực
quan về sự sinh sôi, nảy nở của người mẹ, trong lao động sản xuất và trong đời sống
cộng đồng đã xuất hiện ý thức về sự sinh sôi, nảy nở và phát triển của vạn vật xung
quanh mình. Họ nhận thấy người mẹ đóng vai trị quan trọng trong việc mang thai,
sinh nở, giáo dưỡng và vì vậy người Việt đã sớm hình thành niềm tin thiêng liêng vào
người mẹ mang nặng đẻ đau, che chở, đùm bọc con cái. Chính niềm tin ấy đã sản sinh
ra cái mà ta gọi là Đạo thờ Mẫu.
Hơn thế nữa, đất nước ta đã từng trải qua một thời kỳ chế độ mẫu hệ. Người vợ,
người phụ nữ giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong tổ chức sản xuất và quản lý gia
đình, nhất là về phương diện kinh tế. Họ là người lo quản lý, chi tiêu, giáo dưỡng con
cái trong gia đình. Đến khi xã hội chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, nhà nước
phong kiến (thế kỷ X) đã được thiết lập, chế độ phụ quyền được thay thế chế độ mẫu
quyền dẫn đến vai trị và địa vị của người đàn ơng ngày càng tăng. Tuy nhiên, những
dấu vết và tàn dư của một thời mẫu hệ cũng khơng dễ gì có thể xố ngay được. Ở xã
hội Việt Nam, nguyên lý Mẹ (chữ của GS Trần Quốc Vượng) vẫn được đề cao và thấm
sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, ăn sâu vào tư tưởng, tính cách, truyền thống, thói
quen của người Việt Nam từ ngàn xưa cho tới tận hôm nay.
Cho đến giờ, khơng biết đích xác là tục thờ Mẫu có từ khi nào nhưng người ta tin
rằng bà mẹ thần linh này đã xuất hiện và định hình từ buổi “hồng hoang” của loài
người - từ khi con người khai phá đồng bằng sơng Hồng. Tín ngưỡng thờ Mẫu lấy việc
tôn thờ người Mẹ, người phụ nữ làm đấng sáng tạo bảo trì cho sự tồn tại, sinh thành
của vũ trụ, đất nước và con người. Mẫu và quyền năng của Mẫu không chỉ gắn với
hiện tượng tự nhiên (bà Mây, bà Mưa, bà Sấm, bà Chớp) với những bà mẹ có cơng

14



sinh thành ra dân tộc, hình thành cộng đồng người Việt ngày nay như mẹ Âu Cơ - bà
mẹ xứ sở sớm nhất của người Việt hay mẹ Pơ-Inư-Nagar là mẹ xứ sở của dân tộc
Chăm. Đó cịn là những Mẹ có cơng trong đánh giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ
đất nước: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Chúa Kho, bà Ỷ Lan...
Như vậy có thể thấy rằng, tín ngưỡng dân gian của người Việt nói chung và tín
ngưỡng thờ Mẫu nói riêng là sản phẩm văn hóa của người Việt. Trên cơ sở những đặc
trưng về văn hóa và tư duy của mình, trong q trình phát triển người Việt đã thu nhận
khơng ít những giá trị văn hóa, tinh thần ngoại sinh để bồi đắp nên một sản phẩm tinh
thần của riêng mình, khẳng định được bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt
Nam. “Tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung có
khả năng tự biến đổi, luôn vận động và bám sát cuộc sống, trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu tơn thờ
Mẫu (Mẹ) làm đấng sáng tạo và bảo trì cho vũ trụ - con người. Ở đó, con người có thể
ký thác những mong ước, khát vọng về đời sống trần thế của mình, mong đạt tới sức
khỏe và tài lộc. Đây là một tín ngưỡng hướng về đời sống trần thế hiện tại chứ không
phải ở thế giới bên kia như những tín ngưỡng, tơn giáo khác” [18, tr23]
1.2.1.3 Hệ thống thần linh
Hệ thống thần linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu phong phú và đa dạng. Tứ phủ công
đồng là đại diện toàn bộ thần linh tập hợp lại từ bốn miền của vũ trụ: Thiên phủ (miền
Trời), Nhạc phủ (miền rừng núi), Thoải phủ (miền sông nước) và Địa phủ (miền đất).
Các thần linh Tứ phủ không chỉ phân biệt theo từng phủ (từng miền) mình “cai quản”
mà cịn phân biệt theo thành các thứ bậc (hàng).
Ngọc Hoàng là vị thần tối cao và được đặt ở vị trí danh dự, có bàn thờ riêng
trong các đền và phủ nhưng khơng phải điện thờ Mẫu nào cũng có.
Tam Tịa Thánh Mẫu: Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại
hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ.
Ngũ vị Vương Quan (Từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ), thường thì người ta xếp Đức
Thánh Trần vào hàng các Quan. Trong Ngũ Vị Quan Lớn thì Quan Đệ Nhất và Quan
Đệ Nhị có nguồn gốc Thiên Thần.

Tứ vị Chầu Bà hay Tứ Vị Thánh Bà là hóa thân trực tiếp của Tam Tịa Thánh
Mẫu. Chầu Đệ nhất là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên. Chầu Đệ Nhị là hóa thân của

15


Mẫu Thượng Ngàn. Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị Thánh có dáng
vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm
sai Tứ Phủ (từ Thủy Phủ cho tới Thiên Cung).
Tứ Phủ Thánh Hoàng: đại diện là ơng Hồng Cả (áo đỏ), Hồng Bơ (áo trắng),
Hoàng Bảy (áo xanh lam đậm), Hoàng Mười (áo vàng).
Thập nhị Vương Cô: Hàng cô được gọi tên từ Cô Đệ Nhất (Cô Cả) đến Cô thứ
12(Cô Bé) đều là các thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Cô Đệ Nhất là thị nữ của
Mẫu Thượng Thiên, ăn mặc rất đẹp. Cô Đôi là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, giáng
đồng với 2 bơng hoa cài trên mái tóc.
Cơ Bơ (Ba) thuộc Thủy Phủ rất nổi tiếng, khi giáng đồng mặc y phục màu trắng,
thắt lưng hồng múa điệu chèo đị. Cơ thứ tư là thị nữ của Chầu Đệ Tứ. Cô thứ 5 thuộc
Chầu Đệ Ngũ. Cô thứ 6 thuộc Phủ Thượng Ngàn, ăn mặc quần áo chàm đeo túi hoa,
tóc cài hoa rừng, lưng thắt con dao nhỏ. Cơ thứ Chín là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn.
Cơ Bé (Cơ thứ 12) cịn gọi là Cơ Bé Bắc Lệ, Cơ Bé Thượng Ngàn, có đền thờ riêng ở
Bắc Lệ.
Thập vị Vương Cậu: Các Cậu Quận là những người chết trẻ từ 1 đến 9 tuổi, hiển
linh thành các bé Thánh. Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng
Cậu, họ là các phụ tá của các ơng Hồng. Thường thì lần lên đồng nào cũng có giá
Cậu Bơ (Ba) và Cậu Bé. Đó là những giá đồng với tính cách tinh nghịch, quần áo kì
cục, lời nói ngọng ngịu của trẻ con, kèm theo các điệu múa lân, múa kèn khá sôi nổi.
Ngũ Hổ là nơi thờ thần Hổ ở hạ ban, phía dưới bàn thờ Cơng Đồng. Trong quan
niệm dân gian, Hổ là vị Chúa cai quản rừng núi. Ngũ Hổ cai quản 4 phương và trung
tâm, là con vật quyền uy, là Thần chiến trận, cứu giúp các chiến tướng trong trận mạc.
Trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là kẻ thù của ác thần, tà thần, chuyên hãm hại người

sống cũng như người đã chết, là vị thần canh cửa của các ngơi đền.
Cuối cùng là hình tượng ơng Lốt. Ông Lốt hiện lên là đôi Thanh xà, Bạch xà nằm
vắt ngang phía trên điện thờ chính. Trong quan niệm dân gian, Rắn thần là vị chúa cai
quản nơi sông nước. Trong hầu đồng, cũng giống như các vị Ngũ Hổ.
Trong Đạo Mẫu Tứ Phủ, đây đó người ta cịn nhắc tới phủ Trần Triều, một phủ
thuần túy mang tính chất nhân Thần. Về phương diện điện Thần, Đức Thánh Trần
được coi là vị Thánh Tứ Phủ.

16


Đạo Mẫu là một tín ngưỡng của người Việt có khả năng tích hợp tơn giáo tín
ngưỡng cao làm cho điện thần và bộ mặt của nó mang tính chất đa tín ngưỡng, đa văn
hóa của khơng chỉ người Việt mà còn của cả các dân tộc thiểu số khác hiện sinh sống
trên đất nước Việt Nam. Hiếm có một tơn giáo tín ngưỡng nào lại có khả năng tích hợp
văn hóa như Đạo Mẫu.
1.2.1.4. Lên đồng - nghi lễ tiêu biểu của Đạo Mẫu
Theo GS Ngô Đức Thịnh: “Hầu đồng hay hầu bóng là hiện tượng nhập hồn nhiều
lần của nhiều vị thần linh, trong đó, mỗi lần một vị thần linh nhập hồn (nhập đồng,
giáng đồng), rồi làm quan (tức thời gian thực hiện các nghi lễ, nhảy múa, ban lộc, phán
truyền) và xuất hồn (thăng đồng), được gọi là một giá đồng (tức là thời gian thần linh
ngự trị trên cái giá của mình là các ơng Đồng, bà Đồng”. [ 21, tr190]
Thông thường trong một năm, có rất nhiều dịp diễn ra hầu đồng như: Lễ Xông
đền; Lễ hầu Thượng Nguyên (tháng giêng); Lễ hầu Nhập Hạ (tháng tư); Lễ Tán Hạ
(tháng Bảy); Lễ Tất niên (tháng chạp); Lễ Hạp Ấn (25 tháng Chạp)…nhưng dịp quan
trọng nhất vẫn là giỗ Mẫu và giỗ Cha “Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ”. Ngoài ra,
đối với từng đền, phủ hoặc đối với các ông Đồng bà Đồng cịn có những lễ hầu riêng:
Lễ hầu tiệc các vị thánh như tiệc Cô Bơ (12 tháng 6); Tiệc Quan Tam Phủ (12 tháng
6); Tiệc chầu Bắc Lệ (tháng 9); Tiệc Ơng Hồng Bẩy (12 tháng 7); Tiệc ơng Hồng
Mười (10 tháng 10); Tiệc quan Đệ Nhị (11 tháng 11); Tiệc Trần Triều (20 tháng 8)…

Để chuẩn bị cho ngày hầu đồng, các ông Đồng bà Đồng phải chọn ngày lành, sau
đó thơng báo với chủ đền kết hợp với người hầu dâng, mời cung văn và bạn bè con
nhang đệ tử, các bạn đồng tới dự.
Bên cạnh đó, việc sắm sửa các lễ vật để dâng cúng trong quá trình hành lễ cũng
rất cầu kì, phải tùy theo con đồng vào dịp lễ nào trong năm hay tính chất của buổi hầu
đồng đối với bản thân người hầu như lễ trình đồng, lễ hầu bản mệnh, các tiệc khao…
Trang phục trong buổi hầu cũng được các ông Đồng bà Đồng rất quan tâm. Mỗi
giá đồng thờ một vị thần linh nào đó thì phải có trang phục riêng, khơng dùng lẫn
trang phục của các vị thánh khác. Cho nên, hiện nay các ông Đồng, bà Đồng định hầu
bao nhiêu giá thì phải chuẩn bị bấy nhiêu trang phục. Trang phục dù là đắt tiền hay
không cũng phải phù hợp và tuân thủ những quy định về kiểu dáng, màu sắc của từng

17


giá đồng, phù hợp với các Phủ ví dụ như màu đỏ thuộc phủ Thiên, màu xanh thuộc
Nhạc phủ, màu trắng thuộc Thoải phủ còn màu vàng thuộc Địa phủ.
Để đem lại thành công cho buổi hầu đồng không thể khơng nhắc đến vai trị của
người hầu dâng và cung văn. Người hầu dâng thường là hai hoặc bốn người. Bốn
người này thường ngồi ở bốn góc chiếu gọi là Tứ trụ. Hai người ngồi phía trên sát bàn
thờ cịn gọi là Tay Quỳnh, Tay Quế - hai người này là những người đã từng hầu đồng
họ rất có kinh nghiệm trong việc hầu đồng nên họ là chân tay đắc lực cho cô đồng,
giúp cô thay quần áo và chuẩn bị các nghi thức, đạo cụ…Họ cũng là những người
nhắc bài cho thanh đồng mới chưa quen việc thánh. Còn hai người hầu dâng ngồi đằng
sau còn gọi là Tay Huệ, Tay Lan, hai người này cũng phụ giúp thanh đồng trong việc
nâng khăn sửa áo.
Bên cạnh đó, cung văn giữ một vai trị vơ cùng quan trọng trong hầu đồng.
“Những cung văn là người đã tạo điều kiện cho sự xuất thần của những ông Đồng, bà
Đồng vào cõi phiêu du của miền “địa linh” bằng những giai điệu, những lời hát và
nhạc cụ chủ đạo như đàn nguyệt, trống chầu, cảnh đồng, phách, thanh la… Khi tham

dự vào buổi hầu đồng, người ta sẽ thấy được sự phối hợp rất nhịp nhàng và chính xác
giữa ơng Đồng, bà Đồng, cung văn và những người hầu dâng như một kịch bản được
chuẩn bị một cách công phu, tỉ mỉ từ trước: quần áo cho mỗi giá được thay đổi rất
nhanh và chính xác, khơng lộn xộn, lời ca tiếng hát, tiếng nhạc của giá nào vào đúng
giá đấy mặc dù cung văn chỉ cần nhìn vào điệu bộ hay kí hiệu ở tay của các ơng bà
Đồng.” [ 19, tr.30]
Trong một buổi hầu đồng, trình tự một giá đồng có thể phân thành các bước:
-

Giáng đồng

-

Nhập đồng

-

Dâng hương

-

Múa hương dâng sớ

-

Múa đồng

-

Ngồi nghe cung văn, phán truyền, ban lộc


-

Thánh giá hồi cung

Tuy nhiên, có những giá đồng chỉ giáng chứ không nhập. Hiện tượng này người
ta gọi là hầu trùm khăn, hầu tráng bóng hoặc hầu tráng mạn.

18


Tóm lại, hầu bóng hay lên đồng là một nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các vị thần
linh vào thân xác các ơng bà Đồng. Nó thể hiện một khát khao được hịa mình, nhập
thần vào sự thiêng liêng, tự nhiên để rồi thoát ly khỏi cuộc đời thực trầm luân dù chỉ
trong chốc lát của con người trần tục. Tùy theo tính chất của buổi lễ trong năm hay
tính cách đồng (căn đồng), theo nhu cầu của từng ông Đồng hay bà Đồng mà họ làm
giá để cho các vị thánh nào nhập. Các vị thánh nhập hồn bao giờ cũng là các vị Thánh
làm những điều tốt đẹp phù hộ cho ông Đồng, bà Đồng và các con nhang làm đệ tử
làm ăn may mắn, tai qua nạn khỏi, chữa khỏi bệnh tật, trừ đuổi ma quỷ quấy nhiễu.
Phải chăng vì thế mà lên đồng vẫn bám trụ trong đời sống tinh thần của người dân Việt
Nam. Mặc dù lên đồng ngày nay vẫn là một vấn đề còn đang được bàn cãi nhưng nếu
loại bỏ những yếu tố tiêu cực thì lên đồng vẫn là một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm
linh mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
1.2.2 Chầu Văn trong tín ngưỡng thờ Mẫu
1.2.2.1 Khái niệm
Để phục vụ cho nghi thức quan trọng lên đồng, người ta đã sáng tạo ra một
hình thức âm nhạc gọi là Hát Vǎn để phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh.
Chầu Văn là một thể loại âm nhạc vô cùng độc đáo, với những tiết tấu phong phú, cấu
trúc giai điệu đa dạng, đã góp phần khơng nhỏ vào việc tăng cường tính hấp dẫn của
sinh hoạt tín ngưỡng.

Theo PGS. TS Nguyễn Thụy Loan trong tác phẩm âm nhạc cổ truyền Việt Nam:
“ Hát Chầu Văn hay Hát Văn là lối hát thờ gắn với tục lên đồng và một phức hợp tín
ngưỡng của người Việt, trong đó nổi bật nhất là tín ngưỡng Tứ Phủ (bốn vùng: Trời
-Thiên Phủ, Đất - Địa Phủ, Nước -Thoải Phủ và rừng núi -Nhạc Phủ) và tín ngưỡng
thờ Mẫu (Mẹ/nữ thần). Hát Văn do các cung văn thực hiện ở các đền, phủ hoặc trong
chùa (nhưng chỉ hát trước điện thờ hệ thống thần linh của phức hợp tín ngưỡng này ở
trong khn viên chùa).[16, tr.123].
1.2.2.2 Lịch sử hình thành Chầu Văn Hải Phịng
Hải Phịng từ lâu đã được khơng ít các nhà nghiên cứu và những nghệ nhân Hát
Chầu Văn coi đây là nơi gìn giữ được những nét truyền thống của Hát Chầu Văn xưa.
Để xác định Chầu Văn Hải Phịng có từ bao giờ là rất khó xác định, nhưng thơng
qua các thư tịch cổ cũng như truyền thuyết dân gian ta thấy:

19


Về nguồn gốc hình thành, căn cứ vào một số nguồn sử sách thì sớm nhất nghệ
thuật hát Chầu Văn, “hát trước mặt đế vương” đã hình thành từ thời Trần (thế kỷ XIII)
ở nước ta. Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của Lê Q Đơn có ghi: “Thời Trần có lối
hát trước mặt đế vương, gọi là hát chầu”. Rất có thể “Lối hát trước mặt đế vương” ở
thời Trần (hay từ trước đó nữa) chính là những bài hát, những điệu hát Chầu Văn hình
thành sớm nhất, sơ khai nhất.
“Dấu tích hậu Lê” khá rõ trong hát Chầu Văn cổ truyền. Đó là những dấu tích của
cả một trường kỳ lịch sử với sự khởi xướng và phát triển của khơng ít loại hình nghệ
thuật dân tộc cịn lưu tồn đến nay, trong đó có nghệ thuật đàn, hát Chầu Văn.
Truyền thuyết thứ hai: vào thế kỉ XVI, có vị Chúa Liễu (Thánh Mẫu Liễu Hạnh)
đã hạ giới 3 lần, trong lần hạ giới thứ 2, chúa Liễu đã dừng chân ở vùng biển Hải
Phòng. Mẫu Liễu Hạnh được tôn thờ ở nhiều nơi trên cả nước như phủ Tây Hồ (Hà
Nội), đền Lộ (Hà Tây), đề Sịng (Thanh Hố), phủ Giầy (Nam Định),... song tại phủ
Thượng Đoạn phường Đông Hải 1, quận Hải An, thành phố Hải Phòng đã nổi tiếng

như một trung tâm của xứ Đơng (Hải Dương- Hải Phịng) trong việc tơn thờ mẫu. Các
sách như: “Đại Nam nhất thống chí”, “Hải Dương dư địa chí” soạn vào đời Nguyễn,
đều có nhắc đến phủ Thượng Đoạn và xếp vào hàng cổ tích của tỉnh Hải Dương.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh vốn là tiên nữ trên trời, vì mắc tội làm vỡ chén ngọc mà
bị đày xuống trần gian. Lần giáng trần thứ nhất nàng được đầu thai vào làm con nhà
vợ chồng Thái Công, khi lớn lên kết hôn cùng Đào Lang. Sau khi hết hạn ở trần gian,
nàng lại hóa về trời.
Do cịn mối tơ duyên,thương nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng được Ngọc Hoàng
cho giáng trần lần hai. Khi xuống trần nàng ngao du khắp nơi, đàm đạo thơ văn, giúp
đỡ người nghèo khổ, trừng trị kẻ độc ác. Có thể nói vị Thánh Mẫu đã mang đủ 4 đức
tính Trung - Hiếu - Tiết - Nghĩa, là những đức tính cao quý nhất của người phụ nữ. Với
sự ra đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, tín ngưỡng Tam - Tứ Phủ đã hình thành nên Đạo
Mẫu. Đền phủ thờ Thánh Mẫu được xây dựng ở nhiều nơi trong cả nước, nhưng tiêu
biểu là di tích Đền Phủ Giày (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Phủ Thượng Đoạn
Hải Phòng. Hàng năm cứ vào tháng Ba âm lịch ở các đền phủ lại mở lễ hội truyền
thống , thu hút hàng nghìn con nhang đệ tử về tưởng niệm Thánh Mẫu.

20


Trong các nghi lễ thờ Mẫu Liễu Hạnh có một nghi thức vơ cùng độc đáo đó là
“Lên Đồng”, mục đích của nghi thức này là sự cầu mong của con nhang đệ tử với
Thánh Thần nhằm cầu mong những điều tốt lành nhất cho mình và người thân.
Gắn liền với nghi thức lên đồng là một loại hình âm nhạc vơ cùng độc đáo, góp
phần làm thành cơng một buổi hầu đồng đó chính là âm nhạc Chầu Văn.
Có thể Chầu Văn ra đời từ khi có tục thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Thời kỳ thịnh vượng nhất của Hát Văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời
gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát
văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu những
năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển.

Hát Chầu Văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các trung tâm của hát văn
là Nam Định và một số vùng quanh Hà Nội. Nam Định là vùng quê giàu truyền thống
văn hiến, bên cạnh những giá trị di sản văn hóa phi vật thể, tỉnh là nơi phát tích và bảo
lưu nhiều làn điệu dân ca, dân vũ. Trước hết, ở loại hình diễn xướng dân gian, theo các
nhà nghiên cứu, Nam Định là cái nôi của nghệ thuật Chầu Văn. Trong sách “Kiến văn
tiểu lục”, nhà bác học Lê Q Đơn ghi: “Thời Trần có lối hát trước mặt đế Vương, gọi
là hát chầu.” Về mặt văn học (tức ngôn ngữ và thể loại) hầu hết các giá trị văn cổ của
nghệ thuật Chầu Văn được lưu truyền trong dân gian đều ở thể thơ lục bát, song thất
lục bát. Tỉnh có hai lễ hội lớn là lễ hội Trần và lễ hội Phủ Dầy. Xuất phát từ hình thức
diễn xướng dân gian trong các lễ hội, hát Chầu Văn ra đời từ nghi thức tụng ca công
đức của Thánh Mẫu (Liễu Hạnh) và Đức Thánh Cha (Trần Hưng Đạo). Trong nghệ
thuật Chầu Văn, ngoài việc vận dụng các làn điệu dân ca phối hợp với các bộ gõ, bộ
dây (nhạc cụ), Chầu Văn Nam Định còn được biết đến bởi các làn điệu độc đáo như:
điệu cờn, điệu xá, điệu chèo đị mang đậm chất trữ tình, sâu lắng. Không gian của
Chầu Văn cổ truyền là ở các đền, phủ, miếu, thường có kết hợp với hầu bóng. Người
xưa quan niệm, đó là phương thức hữu hiệu để mọi người có thể giao tiếp với Mẫu,
với các chư vị linh thần nhằm bày tỏ lòng biết ơn và hướng thiện. Đặc biệt, các Mẫu tứ
phủ (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Địa, Mẫu Nhạc, Mẫu Thoải) là biểu tượng của tín
ngưỡng dân gian trong tâm thức cộng đồng dân tộc. Ở đây, có nhiều vùng quê phát
triển nghệ thuật Chầu Văn và xuất hiện các thế hệ cung văn nổi tiếng trong khắp cả
vùng. Nghệ nhân Đào Thị Sại, quê xã Yên Đồng (Ý Yên) được tặng danh hiệu “Nghệ

21


nhân dân gian”, có hơn 80 năm gắn bó với nghệ thuật Hát Văn và hành nghề tại khắp
các tỉnh Bắc, Trung, Nam. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật Hát
Văn, năm 13 tuổi, cụ Sại đã theo cha đi hát tại các hội làng, hội đình để kiếm kế mưu
sinh. Gắn đời với nghiệp “đàn ca”, cụ theo gánh hát đi khắp các miền quê từ Cao
Bằng, Lạng Sơn, Hải Dương đến các tỉnh miền Trung như Nghệ An, Huế… Với lòng

đam mê nghệ thuật Chầu Văn, cụ khơng quản khó khăn, tự tìm đến các vùng quê, trao
đổi với các “bạn nghề” rồi ghi chép tỷ mỷ, chi tiết những giá văn cổ, từ kỹ thuật hát
đến ca từ, nhịp phách. Không chỉ sưu tầm, cụ Sại còn tận tâm “truyền nghề” cho lớp
trẻ kế cận, tới đâu, gặp người tâm huyết muốn học Hát Văn, cụ đều nhiệt tình chỉ bảo.
Từ trong các đền, phủ, với vai trò là một phương tiện nghệ thuật phục vụ tín
ngưỡng tâm linh, Chầu Văn đã “chuyển mình’ vào sân khấu có sức sống lan tỏa trong
đời sống, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật của các tầng lớp nhân dân.
Các bài hát văn được soạn lời mới có nội dung ca ngợi tình yêu quê hương đất nước,
cổ vũ khối đoàn kết toàn dân chung sức, đồng lòng đứng lên đánh giặc, chống Mỹ cứu
nước, giải phóng dân tộc. Về cơ bản, các bài hát văn có chất liệu và giai điệu âm nhạc
vui tươi, trong sáng, được chắt lọc từ nghệ thuật Chầu Văn cổ truyền mang hơi thở và
nhịp sống đương đại. Năm 1962, tại hội diễn ca múa nhạc dân tộc khu vực phía Bắc,
tiết mục “Nam Định q tơi” do Đồn văn cơng Nam Định biểu diễn đã tạo nên sức
sống mới của nghệ thuật hát văn. Từ đó các tiết mục hát văn do diễn viên độc tấu, song
tấu, tam ca, tốp ca, tốp múa xuất hiện ngày càng nhiều trên sân khấu, được cơng chúng
đón nhận, trở thành phương tiện nghệ thuật phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính
trị. Qua giọng hát của NSƯT Kim Liên, Thế Tuyền, Kim Ngân, nghệ thuật Chầu Văn
và các tiết mục hát văn Nam Định ngày càng có sức lan tỏa trong tình cảm của cơng
chúng như các tiết mục: “Gái đảm Nam Hà”, “Mùa sen dâng Bác”, “Trẩy hội quê
hương”, “Hoa dũng sỹ”, “Mừng Việt Nam đại thắng”. Hiện nay, các đơn vị nghệ thuật
của tỉnh và các tổ, đội văn nghệ quần chúng trên địa bàn toàn tỉnh tổ chức sưu tầm,
nghiên cứu, dàn dựng nhiều tiết mục hát văn và nghệ thuật Chầu Văn qua các giá
đồng, tham dự các hội diễn, liên hoan khu vực và toàn quốc đoạt nhiều giải thưởng
cao. Tại lễ hội Phủ Dầy, vào mỗi dịp “Tháng 3 giỗ Mẹ” đều tổ chức hội thi hát văn,
thu hút các cung văn mọi miền tham dự. Hát văn ở Nam Định đang trở thành môn

22



×