Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

(Thảo luận Triết) TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY TRÌNH BÀY CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ VẬN DỤNG CÁC BÀI HỌC ĐÓ VÀO LĨNH VỰC HỌC TẬP CỦA MỖI NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.93 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH

BÀI THẢO LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI: ĐỐI VỚI TỈNH NINH BÌNH

Thầy hướng dẫn: PGS TS Phương Kỳ Sơn
Nhóm: 2
Lớp: 2119MLNP0221

Hà Nội 2021


“Nếu một người đổ
hết ví vào đầu, khơng
ai có thể cướp được nó
khỏi anh ta.”
Benjamin Franklin

1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tâp thể nhóm 2 lớp K56B3KD chúng em xin được
gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy - người đã tân tình giảng
day, giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình học tâp.
Nhờ công giảng day tận tâm, nhiệt huyết của thầy mà bản báo
cáo thảo luân ngày hôm nay của chúng em đã được hoàn thành hoàn
thành một cách trọn vẹn và chỉn chu nhất. Mặc dù chúng em còn


nhiều han chế về kiến thức và đôi lúc pham lỗi trong quá trình học
nhưng chúng em biết thầy luôn công bằng, khách quan và tao nhiều
cơ hội cho chúng em được kết quả tốt nhất và được cải thiện lỗi của
bản thân.
Bởi vậy nhóm chúng em cảm ơn thầy và rất mong nhân được sự
đóng góp chân thành, khách quan từ thầy và các ban về bài thảo luận
của chúng em.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

2


3


LỜI CAM ĐOAN
Trong suốt quá trình thảo luận, nhóm chúng em đã vận dụng
những kiến thức thầy day kết hợp tham khảo những tài liệu liên quan
trong pham vi môn Triết học. Tuy nhiên, chúng em cam đoan rằng bài
thảo luận của nhóm không sao chép trùng lặp với bất cứ bài thảo luận
nào trước đó mà nhóm biết!

4


PHẦN MỞ ĐẦU
Tầm quan trọng của đề tài:
Hiện nay, thế giới ngày một phát triện mạnh mẽ, nhanh chóng hơn. Để có
thế bắt kịp sự phát triển ấy, một nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam ta phải
không ngừng đổi mới, tiếp thu và học hỏi. Để tạo bước đột phá mới cần tiếp tục

đổi mới mạnh mẽ tư duy nhằm tạo ra không gian mới, động lực mới cho sự phát
triển về kinh tế - xã hội ở nước ta. Muốn làm được điều đó, mỗi sinh viên nói
riêng và thế hệ trẻ Việt nam nói chung cần tìm hiểu kĩ và vận dụng những bài
học về tơn trọng khách quan và đổi mới tư duy. Bởi vậy bài học này có một tầm
quan trọng to lớn: Đổi mới tư duy có sức mạnh kỳ diệu trong nâng cao năng lực
và tầm vóc đi lên của mỗi cá nhân, tổ chức, và xã hội.Ngoài ra, đổi mới tư duy
cần trở thành sự lựa chọn khảng khái và dũng cảm của mỗi cá nhân, tổ chức, và
toàn xã hội. Hơn nữa, đổi mới tư duy sẽ tạo nên nền tảng vững chắc và sức
mạnh tiềm tàng cho dân tộc ta đi tới vị thế vẻ vang và xứng đáng của mình trong
cộng đồng thế giới.
Mục đích của đề tài: Nhận ra giá trị và tầm quan trọng của việc vận dụng
bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy, nhóm 2 chúng em đã sử dụng
nó làm đề tài để thảo luận.
Cách thức hoàn thành: chúng em đã họp nhóm qua các cuộc gọi video,
chat,… vì dịch bệnh Covid nên khơng có điều kiện để gặp mặt, tuy vậy các buổi
họp nhóm vẫn diễn ra một cách hiệu quả.

5


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Cơ sở lí luận của bài học tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy là quan
điểm về chủ nghĩa duy vật khoa học về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

1.Vật chất
1.1 Phạm trù của vật chất:
Vật chất là gì? là câu hỏi ngay từ thời cổ đại người ta đã tìm kiếm, giả đáp
thắc mắc chho nên có rất nhiều quan điểm về vấn đề này. Theo quan niệm của
chủ nghĩa duy tâm trước C.Mác, các nhà triết học duy tâm ‘’thừa nhận sự tồn tại
của sự vật, hiện tượng, vật chất nhưng phủ định đặc tính khách quan của vật

chất’’. Cịn chủ nghĩa duy vật thời cổ đại thì lại khác. Vì chưa có sự phát triển
của khoa học nên họ phỏng đoán vật chất là nước, đất, lửa, gió, kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ,… tức qui luật vật chất về vật thể hữu hình, cảm tính, là hình thức cụ
thể trong việc nghe thấy, nhìn thấy, sờ thấy. Đây là quan điểm của các nhà duy
vật phương Đông Cổ đại cịn phương Tây cũng chính trong thời kì ấy, nhà khoa
học Lơxip( khoảng 500-440 TCN) và Đêmocrit ( khoảng 427-374 TCN) đều cho
rằng “ vật chất là nguyên tử”” và ơng có cả ‘thuyết ngun tử’. Ơng phân tích
nếu chia nhỏ cục đá ra rồi lại chia nhỏ, nhỏ nữa đến phần cịn lại cuối cùng
khơng chia được nữa thì ơng gọi đó là ngun tử. Như vậy ngun tử là phần
nhỏ bé nhất của sự vật, không thể phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại
vĩnh viện => Tất cả sự vật đều được cấu tạo từ nguyên tử => ‘’Bản chất của vật
chất là nguyên tử’’. Quan điểm này đã thống trị con người hàng nghìn năm mà
không một ai vượt qua.
Mãi đến thế kỉ XIX, XX cuộc cách mạng khoa học tự nhiên nổ ra làm phá
sản các quan điểm về vật chất trước đó. Lúc này, vật lí học phát triển rất mạnh
và người ta khám phá ra cái còn bé hơn cả nguyên tử là lượng tử ( tia laze,thuyết
tương dối,…). Chính những sự phát triển đó làm con người khủng hoảng tư duy,
mất phương hướng khơng biết vật chất là gì. Đứng trước tình hình đó, để khắc

6


phục sự khủng hoảng và đưa ra quan điểm mới về vật chất V.I.Lenin khẳng
định:’’ Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cả giác.

Nội dung định nghĩa của Lenin về vật chất:
Thứ nhất, cần phải phân biệt khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù
triết học( tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi

tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học) với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành( tức
khái niệm dùng để chỉ các dạng vật chất cụ thể, cảm tính, những biểu hiện cụ
thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội).
Thứ hai, thuộc tính cơ bản của mọi tồn tại vật chất được khái quát trong
phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách
quan tức là độc lập, khơng phụ thuộc vào ý thức con người.
Thứ ba, vật chất là cái có thể gây lên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp
hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự
phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái ý thức phản ánh.
*Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của Lenin:
Xuất phát từ điều kiện vật chất làm cơ sở cho mọi hoạt động của mình.
Chống thái độ chủ quan duy ý chí, tùy tiện, nóng vội, phiến diện, qui luật
khách quan đề ra mục tiêu không tưởng dẫn đến thất bại.
Khi đặt ra mục tiêu cụ thể cho bản thân hoặc nhiệm vụ được giao phải xuất
phát từ thực tế khách quan thì mới có chủ trương đúng đắn và có khả năng đạt
mục đích.
1.2 Phương thức tồn tại của vật chất:
*Vận động là phương thức tồn tai của vật chất.
Tại sao khơng có vận động thì khơng có vật chất? Mỗi người khơng có vận
đơng từ lúc sinh ra, lớn lên liệu có vật thể ngồi ngay đây khơng? Vận động được
hiểu từ nhiều góc độ khác nhau. Các lĩnh vực khoa học đều nghiên cứu về vận
7


động tuy nhiên mỗi nhà khoa học đều chỉ nghiên cứu nó ở một lĩnh vực xác
định, khơng cụ thể. Cịn triết học chính là bao trùm tất cả khoa học -> ‘Vận động
là mọi sự thay đổi’. Có nghĩa là từ vận động cơ bản nhất là vận động cơ học( sự
di chuyển trong không gian) cho đến vận động tư duy con người, tất cả đều là
vận động. Ph.Angghen định nghĩa:’’ Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất tức

được hiểu là phương thức tồn tại vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ vị
trí thay đổi đơn giản đến tư duy”.
=> Vận động là mọi sự thay đổi, là phương thức tồn tại của vật chất, do đó
nó tồn tại vĩnh viễn, khơng thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Vật chất chỉ tồn tại
bằng cách vận động và chỉ thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại
của mình. Con người chỉ nhận thức sâu sắc về sự vật thông qua trạng thái vận
động của giới vật chất.
*Các hình thức tồn tại của vật chất:
Dựa vào thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận
động thành 5 hình thức cơ bản: vận động cơ học( di chuyên vị trí của các vật thể
trong khơng gian), vận động vật lí( vận động của các phân tử, điện tử, xác hạt cơ
bản, các quá trình nhiệt, điện phân,…), vận động hóa học( sự biến đổi các chất
vơ cơ, hữu cơ trong q trình hịa hợp và phân giải), vận động xã hội( sự biến
đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống xã hội,…).
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính
cố hữu của vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động
tuyệt đối là vĩnh viễn. Đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời
và là một trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn
định; vận động chưa làm thay đổi về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự
vật=> Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối.
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tai của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính nhất định( chiều cao, chiều rộng và chiều dài) nhất định và tồn tại
8


trong mối tương quan nhất định( trước và sau, bên trái và bên phải, bên trên hay
dưới,…) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại của vật chất lên
khơng gian, thời gian có những tính chất chung nhưng những tính chất của vật

chất đó là khách quan, tính vĩnh cửu, tính vơ tạn và vơ hạn.
Ngồi ra, khơng gian có thuộc tính ba chiều( chiều cao, chiều rộng và chiều
dài) cịn thời gian có tính một chiều( từ q khứ tới tương lai). Tính ba chiều của
khơng gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng
tính và q trình biểu diễn của vật chất vận động.
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Chỉ có một thế giới duy nhất tồn
tại => Đó là thế giới vật chất. Tính thống nhất của thế giới là ở trong tính vật
chất của nó. Thế giới vật chất là cái có trước, tồn tại khách quan và độc lập với ý
thức con người.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, không được sinh ra và không bị
mất đi, các sự vật, hiện tượng ln ln vận động, biến đổi khơng ngừng và
chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau, về thực
chất đều là những quá trình vật chất.
Mọi tồn tại của vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với
nhau biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là kết cấu vật
chất, có nguồn vật chất, do nguồn gốc sinh ra và cũng chịu sự chi phối của
những qui luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Bản chất của vật chất và tính thống nhất của vật chất của thế giới là kết
luận được rút ra từ sự khái quát những thành tựu của khoa học và cuộc sống hiện
thức của con người kiểm nghiệm. Nó khơng chỉ định hướng cho con người giải
thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng con người tiếp túc nhận
thức về tinh đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp qui luật.
=>. Vũ trụ khơng có biên trong khơng gian, khơng có bắt đầu và kết thúc
trong thời gian và chẳng có việc gì cho ‘’ Đấng sáng thế’’ phải làm ở đây
cả( theo Stephen).
9


2. Ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa, phát triển và khắc phục các quan
niệm về ý thức qua từng thời kỳ lịch sử và đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức:
Ý thức là dự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ lão người thông qua
lao động và ngôn ngữ ; ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao
gồm từ cảm giác cho tới tư duy, lí luận, trong đó tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức.
2.1: Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm của CNDT: Ý thức là bản thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là
nuyên nhân sinh ra và chi phối sự tồn tại của toàn bộ thế giới vật chất…
Quan điểm của CNDV trước Mác: Xuất phát thừ thế giới hiện thực để lí
giải nguồn gốc của ý thức; coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do
vật chất sản sinh ra…
Quan điểm DVBC: ý thức xuất hiện là kết quả của q trình tiến hóa lâu
dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực
tiễn xã hội – lịch sử của con người…
Theo quan điểm duy vật biện chứng nguồn gốc có từ tự nhiên và nguồn gốc
xã hội:
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ não
của con người và hoạt động của nó cùng với mối quan hệ giữa con người và thế
giới khách quan trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc của con người
từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan
‒Về bộ óc con người ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc của con người, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ
óc càng hồn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh càng có hiệu quả và ý thức của
con người càng phong phú và sâu sắc
‒Về mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động sáng tạo: quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là
quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới
10



khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động
nên bộ óc người và hình thành nên ý thức. phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm
của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn
nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song phản
ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý hóa học sinh học tâm lý
và phản ánh năng động sáng tạo
Nguồn gốc xã hội của ý thức: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội
của ý thức nhưng trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là nhân tố lao động và
ngơn ngữ:
Lao động là q trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự
nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người, là
q trình trong đó bản thân con người đóng vai trị mơi giới điều tiết sự trao đổi
vật chất giữa mình và giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người tác
động vào thế giới khách quan làm thế giới bộc lộ những quy luật của nó và biểu
hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được.
Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ
óc của con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý
thức nói chung
Vai trò của lao động:
Cải tạo và hồn thiện bộ óc và các giác quan của con người
Nối dài và tăng cường những khả năng của bộ não và các giác quan,...
Bằng chính các cơng cụ lao động và các thiết bị nhận thức do lao động tạo ra.
Tác động vào các khách thể, bắt chúng bộc lộ những thuộc tính, kết cấu,
quy luật. Từ đó cung cấp những tài liệu ban đầu đủ lớn và có hệ thống cho nhận
thức. Nhờ đó mà con người nhận thức được thế giới.
Lao động địi hỏi phải xuất hiện ngơn ngữ.
Ngơn ngữ là tín hiệu vật chất chứa đựng những thơng tin mang nội dung ý
thức. Khơng có ngơn ngữ, ý thức không được tồn tại và thể hiện. Nhờ ngôn ngữ
mà con người không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết truyền đạt

11


kinh nghiệm, tư tưởng, từ thế hệ này sang thế hệ khác, thơng qua đó mà ý thức
cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngược lại
Vai trò của ngơn ngữ:
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai đóng vai trị là cái vỏ vật chất của tư
duy ý thức,... Là cái vật chất mang ý thức chứa ý thức,... cịn ý thức là ý nghĩa
đằng sau ngơn ngữ và các hoạt động thần kinh của vỏ não mà chỉ có con người
mới có được
Ngơn ngữ tạo cho tư duy khả năng phản ánh gián tiếp các sự vật hiện tượng
nhờ đó mà có khả năng so sánh, chiếu tượng hóa, khái quát hóa, đi sâu phản ánh
được bản chất của sự vật hiện tượng.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trong xã hội để trao đổi truyền bá và tích
lũy.
2.2: Bản chất của ý thức
Theo quan điểm của Triết học Mác-Leenin:
+ “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người…”
+ “Ý niệm (ý thức) chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi ở trong đó”
 khác với vật chất là cái “ tồn tại khách quan” thì ý thức là cái “tồn tại
chủ quan”.
- Thứ nhất: tính năng động sáng tạo của sự phản ánh được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm sinh lí của con người trong hoạt động tiếp nhận thông tin,
chọn lọc thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thơng tin đã có để tạo
ra những thơng tin mới và phát hiện ra những ý nghĩa của thơng tin đã tiếp nhận.
Ngồi ra tính năng động sáng tạo của sự phản ánh còn được con người thể hiện
qua khả năng tạo ra những thần thoại, giả thuyết, ý tưởng,... trong hoạt động tinh
thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng mô hình

tư tưởng, tri thức trong hoạt động của mình.

12


- Tính năng động sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong phú. Trên cơ
sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra những tri thức mới về sự vật, có thể
tưởng tượng ra cái khơng có trong thực tế, ý thức có thể tiên đốn, dự báo trong
tương lai, song cũng có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, giả thuyết, lí
thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái qt cao. Song sự sáng tạo
của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở của phản ánh, từ đó phản
ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan.
- Thứ hai: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan bị thế giới
khách quan chi phối về cả nội dung và hình thức biểu hiện nhưng nó khơng cịn
ngun vẹn mà mà cải biến thơng qua lăng kính chủ quan của con người. theo
các mác: “ý thức chẳng qua là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người
và được cải biến đi trong đó”.
- Thứ ba: ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản
chất có tính chất xã hội: ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên
thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. ý thức bắt nguồn từ thực tiến lịch sử
- xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
- Sự ra đời và tồn tại của ý thứcluôn gắn liền với các hoạt động thực tiễn
của con người. không những bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên mà còn bị chi
phối bởi các quy luật xã hội được quy định bở nhu cầu giao tiếp xã hội và các
điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
2.3: Kết cấu của ý thức:
Kết cấu theo chiều ngang của ý thức:
*Tri thức là toàn bộ hiểu biết của con người , là kết quả của quá trình nhận
thức về thế giới hiện thực , làm tái hiện trong tư tường những thuộc tính , những

quy luật của thế giới ... ( Tức là hiểu được bản chất của SV , HTg ... ) và diễn đạt
chúng dưới hình thức của các ngơn ngữ . Tri thức là yếu tố quan trọng nhất của
YT , quyết định mọi yếu tố khác của nó và chỉ đạo mọi HĐg của con người . Chỉ
con người mới có tri thức , và do đó chỉ con người có YT. Bởi vì , chỉ nhờ tác
13


động của tri thức mới làm cho các yếu tố khác , như nhu cầu , cảm xúc , vô
thức ... trở thành các yếu tố của con người ...
Ngày nay , vai trò động lực của tri thức khoa học đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội đã trở nên rõ ràng , nổi bật và cần thiết hơn bao giờ hết . Đầu tư vào
tri thức khoa học trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng dài hạn và bền
vững của nền kinh tế tri thức...
*Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý - YT của con người , là đòi hỏi , mong
muốn , nguyện vọng ... của con người về vật chất và tinh thần ... để tồn tại và
phát triển . Có nhu cầu cá nhân và nhu cầu XH ( Nhu cầu chung của các nhóm ,
các cộng đồng XH )
Tùy theo trình độ nhận thức , trình độ phát triển XH , môi trường sống và
những đặc điểm tâm sinh lý , mỗi người , mỗi nhóm XH khác nhau mà có những
nhu cầu khác nhau ... Có thể phân loại : Nhu cầu vật chất ( ăn , mặc , ở , đi lại ,
tính dục ... ) ; Nhu cầu tinh thần Kinh ng yêu , tán thành , kính trọng thừa
nhận ... ) ; và nhu cầu XH ( giáo dục , tôn giáo , giải trí , nhu cầu cộng đồng … )
Nhu cầu có các biểu hiện : Hứng thú , ước mơ , ý tưởng và các cấp độ:
mong muốn , ham muốn tham lam ) và đam mê ...
*Xúc cảm , tình cảm là một hình thái đặc biệt của ý thức phản ánh thực tại ;
Nó phản ánh quan hệ của con người đối với nhau , cũng như đối với thế
giớixung quanh và với chính bản thân mình ...
Xúc cảm , tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và giữ một
vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người , theo hướng tích
cục hay tiêu cục . Tri thức phải được kết hợp với xúc cảm , tình cảm hình thành

nên niềm tin , nâng cao ý chi tích cực , biến thành hành động thực tế , mới phát
huy được sức mạnh của con người ...
*Ý chí là khả năng huy động tập trung ) sức mạnh bản thân ( là sự có gắng ,
nỗ lục ... ) để vượt qua những khó khăn , trở ngại ... trong q trình thực hiện
mục đích của con người . Ý chí được coi là một năng động của ý thức , một biểu
hiện của ý thức trong Thục tên mà ở đó con người tự giác được mục đích của
14


hoạt động nên tự đấu tranh với bản thân mình để thực hiện đến cùng mục đích
đã lựa chọn . Có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với chính bản thân
mình , là biểu hiện cao nhất của ý thức nó điều khiển , điều chỉnh hành vi để con
người hướng dén muc địch một cách tự giác , nó cho phép con người tự kiềm
chế , tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và
niềm tin của mình . Giá trị chân chính của ý chí khơng chỉ thể hiện ở cường độ
của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung , ý nghĩa xã hội của mục
đích mà ý chí hướng đến . Lênin cho rằng : Ý chí là một trong những yếu tố tạo
nên sự nghiệp CMg của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt
nhằm giải phóng mình , giải phóng nhân loại ..
Ý chí khơng có sẵn , mà phải qua học tập , rèn luyện và phấn đấu mới có .
Những phẩm chất cơ bản của ý chí là : Tính mục đích , tính kiên trì , tính độc lập
, tính tự chủ và tính quyết đốn .
Kết cấu theo chiều ngang của ý thức:
*Tự ý thức: là ý thức của con người về bản thân mình trong mơi quan hệ
với thức về thế giới bên ngồi . Nhờ có tự ý thúc mà con người tự nhận thức về
bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác , có tư duy , có các hành
vi đạo đức và có vị trí trong XH ( Tức là có khả năng tự đánh giá về bàn thân
mình , là một nhân tố cơ bản tạo nên nhân cách con người . Con người chỉ tự
thức về bản thân mình trong quan hệ với những người khác, trong quá trình hoạt
động cải tạo thế giới . Từ đó , tệ điều chỉnh bản thân theo các quy tắc , các tiêu

chuẩn và yêu cầu mà xã hội đề ra ...
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tụý thức của các
nhóm XH , thậm chí của cả xã hội , của cả một dân tộc , giai cấp hay của cả một
tầng lớp xã hội ...
*Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể ta có được từ trước , nhưng đã trở
thành thói quen , kỹ năng , hay " bản năng ” XH , nằm trong tầng sâu của ý thức
chủ thể , là ý thức dưới dạng tiềm tàng .

15


Tiềm thức có vai trị quan trọng cả trong hoạt động tâm lý lặp đi lặp lại của
con người , nhu sinh hoạt hàng ngày và cả trong tư duy khoa học – đó là cơ sở
của những thói quen , kỹ năng hoạt động thành thục ... Nó chiếm một phần rất
lỏn trong y học và cịn có tác dụng giảm tải cho các hoạt động thần kinh của con
người .
*Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu ... điều chỉnh sự suy nghĩ ,
hành vi , thái độ , ứng xử của con người mà chua có sự tranh luận nội tâm , chưa
có sự truyền thơng tin bên trong , chưa có sự kiểm tra , tính tốn của lý trí...
Vơ thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau , như bàn năng ham
muốn , giấc mơ , bị thôi miên , mặc cảm , sự lỡ lời , nói nhu , trực giác…
Vơ thức có vai trị nhất định trong đời sống và hoạt động của con người
như giảm tình trạng căng thẳng không cần thiết khi làm việc quá tải hay thực
hiện chuẩn mực XH một cách tự nhiên ... Cho nên , khơng thể phủ nhận vai trị
cái vơ thức trong cuộc sống , vì như vậy sẽ khơng thể hiểu đầy đủ và đúng đắn .
về con người .
Tuy nhiên khơng nên cường điệu, tuyệt đối hóa hay thần bí hóa vơ thức. Vơ
thức chỉ là một thành tố của ý thức , nằm trong con người có ý thức. Giữ vai trò
chủ đạo trong con người là ý thức chứ khơng phải vơ thức. Nhờ có ý thức mới
điều khiễn được các hiện tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ và do đó mà

vơ thức có ý nghĩa đối với cuộc sống con người ...

3: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Trong lịch sử, Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất có sau,
ý thức quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và sinh ra ý thức. Tuy nhiên
quan điểm của họ chưa thấy được vai trị, tính năng động sáng tạo của ý thức.
Mối quan hệ vật chất và ý thức chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: a) Vai
trò của vật chất đối với ý thức

16


Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì: Ý thức là sản phẩm của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có
ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là
kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới
vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của
khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan
điểm: vật chất có trước, ý thức có sau. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên,
nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ
óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngơn ngữ), hoặc là chính bản thân
thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất
(bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất
là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật
chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát
triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy
luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này

thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất khơng chỉ quyết định nội dung mà cịn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b)Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thơng qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trị của ý thức là nói đến
vai trị của con người. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì
trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt
động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên
vai trị của ý thức khơng phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà
nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con
người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn
17


phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của
mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích
cực hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy
luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong q
trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích
cực cúa ý thức.
Cịn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan,
bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người
đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực
đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế

quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng
hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay khơng hiệu quả. Tìm hiểu về vật
chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có
thể thấy:
Vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng
tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức;
Ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không
phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con
người.
Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản
ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình
độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong
đó con người hành động theo định hướng của ý thức. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực tiễn để xem xét mối
18


quan hệ này. Từ đó khẳng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con
người
* Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất
quyết định nguồn gốc, bản chất, nội dung sự biến đổi của ý thức.

4: Nội dung của bài học tôn trọng khách quan và đổi
mới tư duy:
Trên cơ sở quan điểm về bản chất của thế giới, bản chất năng động sáng tạo
của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức chủ nghĩa duy vật
biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất
đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là:
Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế

khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động khách
quan.
Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành cơng và có hiệu quả khi thực hiện
đồng thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan, tơn trọng thực tế khách
quan với phát huy tính năng động chủ quan, phát huy tính năng động chủ quan
là dựa trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý
chí trong nhận thức và thực tiễn. Xuất phát từ thực tế khách quan tức là phải
xuất phát từ bản thân sự vật với tất cả các đặc tính, các thuộc tính của sự vật và
các quan hệ của nó để tìm ra bản chất, xu hướng vận động phát triển theo quy
luật. Từ đó rút ra kết luận về sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó mà đề ra phương
hướng và cách giải pháp tác động cải biến sự vật, thế giới tự nhiên phục vụ lợi
ích con người, khơng được áp đặt ý muốn chủ quan của chủ thể nhận thức vào
sự vật.
Phát huy tính năng động chủ quan là vai trị phát huy tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hoá

19


tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này địi hỏi con người phải tơn trọng
tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và
truyền bá vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng,
hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để
hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để
có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng
hành động.
Vai trò của ý thức về thực chất là nói tới vai trị của con người, ý thức là ý
thức của con người nhưng bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì
trong hiện thực, cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực

tiễn, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động; ý thức tư tưởng có thể
quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại
trên cơ sở những điều kiện cụ thể, điều kiện khách quan nhất định.
Ý thức của con người không tách rời điều kiện vật chất, con người phải biết
dựa vào điều kiện vật chất đã có và phản ánh đúng quy luật khách quan một
cách chủ động, sáng tạo với ý chí và nhận định cao, một mặt phải chống chủ
quan duy ý chí, mặt khác phải chống bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ thụ động, trơng
chờ, ý lại.

20


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG BÀI HỌC VÀO LĨNH VỰC
ĐỜI SỐNG HỌC TẬP
1. Nguyễn Thị Hoài Giang.
MSV: 20D111132
Em tự hào là sinh viên năm nhất trường Đại học Thương Mại, là ngôi
trường mà em luôn mơ ước bước vào nhưng thật khó khi bản thân em hồi cấp ba
khơng có định hướng và cố gắng nhất định nên em chênh vênh trên con đường
học hành suốt thời gian đó. Em tự hỏi em đã có mục tiêu vậy mà sao em khơng
cố gắng? Và đến giờ có lẽ em đã có câu trả lời cho riêng mình từ khi em được
học bộ mơn Triết học nói chung và Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin nói riêng. Bởi đây là một bộ môn khoa học trang bị cho chúng em những
kiến thức cơ bản trong nhận thức và hành động như chính là đề tài mà chúng em
được nhận ngày hôm nay: Tôn trọng khách quan và đổi mới tư duy. Em hiểu bản
thân mình cần phải có những cái nhìn khách quan nhất, đúng đắn nhất và thành
thật nhất vì chỉ có vậy em mới có thể biết mình đang ở đâu và mình như thế nào,
phải thực sự hiểu bản thân thích gì muốn gì thì mới có thể nỗ lực hết sức mình.
Chính Triết học đã vạch ra cho con người hệ thống những kiến thức, những
nguyên tắc để định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn

của con người. Qua quá trình em được nghiên cứu và học tập, hiểu được vai trị
của mơn học đối với việc nhận thức thế giới và hành động của bản thân mình,
em đã rút ra bài học để biết vận dụng vào quá trình học đại học phía trước của
mình. Đầu tiên, tơn trọng khách quan là tơn trọng tính khách quan của vật chất,
của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn làm căn cứ cho mọi hoạt động. V.I Lênin đã từng nói:
"Khơng được lấy chủ quan của mình, khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ
quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
phải bệnh chủ quan duy ý chí". Ngay từ trong nhận thức phải phản ánh được
21


trung thực nội dung bản chất của sự vật, hiện tượng. Em thấy mình cần phải
nghiêm khắc với chính mình như việc thực hiện nghiêm túc các nội quy, quy
định của nhà trường cùng với tác phong làm việc nhanh nhẹn, hiệu quả ví dụ
như: trung thực trong thi cử, tuân thủ đúng thời khoá biểu, vào lớp đúng giờ,...
Tiếp theo đó, là phải biết đưa ra kế hoạch học tập cho thời gian tới, như sinh
viên chúng em phải xét đến các điều kiện thực tế như: thời gian, sức khỏe, tài
chính... Để đưa ra một kế hoạch cụ thể, có khả năng thực hiện được. Chẳng hạn
như việc em cần nâng cao trình độ ngoại ngữ của bản thân thì cần xem xét thời
gian, trung tâm có mức học phí phù hợp với điều kiện tài chính của bản thân,
phương tiện đi học phù hợp với địa điểm học hay khơng hay là việc để có thể ra
trường đúng hạn ngoài sự nỗ lực trong học tập là chưa đủ, em cịn cần phải đóng
học phí đầy đủ và đúng hạn. Ngồi ra sinh viên chúng em cịn cần có sự cơng
bằng trong học tập khi đánh giá điểm rèn luyện của mình hay các bạn trong lớp,
việc này cần thực hiện một cách công tâm, tránh đánh giá theo cảm tính cá nhân
như vậy sẽ tạo ra mâu thuẫn nội bộ, khơng kích thích được sự thi đua, phấn đấu
của mọi người. Và việc quan trọng không kém chính là em cần phải biết đánh
giá người khác qua cái nhìn khách quan và nhiều độ khác nhau. Đơn giản như

việc mạng xã hội dần dần trở thành một phần không thể thiếu của chúng ta đặc
biệt là lớp trẻ, là nơi mà một xã hội thu nhỏ trong xã hội lớn. Ta thấy được nhiều
điều tích cực mà mạng xã hội đem lại nhưng lại không kém những mặt tối cịn
hiển hiện. Mạng xã hội chính là nơi chúng ta có thể chia sẻ bất cứ hình ảnh,
video nào dù cho có là sự riêng tư của người khác, là nơi mọi người thoả sức
buông những lời lẽ cay đắng, miệt thị với nhau mặc cho có đúng hay khơng. Ta
đâu có ở trong hồn cảnh của họ, ta đâu là họ nên khơng thể biết chính xác điều
gì nên ngừng bng lời lẽ cay đắng, vì vậy hãy làm chủ chính mình và khơng
gian mạng của mình! Qua bài thảo luận này dưới sự giảng dạy của thầy, em hiểu
được sự khách quan và đổi mới tư duy quan trọng như thế nào, khiến em thay
đổi được suy nghĩ nhiều khi cịn nơng cạn của mình và nó chính là hành trang
cho tương lai của em sắp tới!

22


2. Đỗ Thị Thu Hằng:
MSV: 20D111135
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ
nghĩa DVBC xây dựng nên một nguyên tắc đó là: Trong mọi hoat động nhận
thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách
quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Là một sinh viên nói chung và sinh viên trường đại học Thương Mại nói
riêng, sau khi học xong học phần Triết học Mác-Lênin do thầy giảng dạy, em
không chỉ hiểu được nguyên tắc mà cịn biết vận dụng chính ngun tắc ấy vào
đời sống.
Trước tiên, tôn trọng khách quan tức là tôn trọng vai trị quyết định của vật
chất, tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Ví dụ là
việc chấp hành nghiêm chỉnh các nội quy của nhà trường, thực hiện nghiêm túc

các yêu cầu của thầy cơ:chẳng hạn việc đóng học phí, trong giờ, học hành
nghiêm túc, giờ nào việc nấy, tuân theo các quy tắc của thầy cô như việc luôn
nộp bài vào đầu giờ tiết học,.... Và khi nhìn nhận sự việc thì em khơng áp đặt ý
kiến chủ quan của mình lên sự việc đó, mà nhìn nhận nó một cách khách quan,
với nhiều góc độ khác nhau.
Và do YT có tính năng động, nên chúng ta phải phát huy nó bằng cách chủ
động tìm kiếm cách thức, phương tiện VC để đạt được mục đích nhanh và hiệu
quả nhất. Đó chính là phải “đổi mới tư duy” đồng thời chống thái độ ỷ lại, trông
chờ.
Là sinh viên, để đảm bảo cho việc học tập thì tài chính là một trong những
yếu tố quan trọng cần phải đáp ứng được. Vì điều kiện kinh tế gia đình bình
thường và em chưa thể tự chu cấp cho bản thân nên vừa để đảm bảo cho việc
học, vừa để bớt gánh nặng phần nào cho gia đình thì ngồi những hơm học trên
lớp, thì thi thoảng em có làm thêm ở khách sạn để có chút tiền, khơng chỉ thế,
em cịn được tiếp xúc sớm hơn với mơi trường mình có thể làm việc sau này,
23


vận dụng ngay những bài học trong thực tế để học tốt các mơn chun ngành
hay thay vì tốn khá nhiều tiền vào việc đi xe máy thì em chọn đi bằng xe buýt.
Hơn nữa để không phải mất tiền học lại thì em cố gắng học cẩn thận ngay từ
đầu, chú ý nghe giảng, ghi chép và tìm ra những phương pháp học tập phù hợp
với bản thân và cả với từng môn học.
Với học phần triết học Mác-Lenin, đây thực sự là một học phần khó nhằn
khơng chỉ với mình em mà là hầu hết sinh viên, nhưng thực sự là may mắn khi
em được học thầy, nhờ sự giảng dạy của thầy mà chúng em có thể tiếp cận đến
triết học một cách thoải mái hơn và bài học mà em tâm đắc nhất trong môn học
này cũng chính là đề tài thảo luận hơm nay: bài học tơn trọng khách quan và đổi
mới tư duy. Vì em áp dụng được bài học đó vào rất nhiều lĩnh vực trong đời
sống. Và nó là lời nhắc nhở em phải luôn phấn đấu, cố gắng, không chùn bước

trước khó khăn, và để đạt được mục đích thì phải tìm con đường ngắn mà hiệu
quả nhất.
Với phương pháp giảng dạy ngắn gọn, trực tiếp nhưng cũng đầy sự mới
mẻ, mỗi một khái niệm, một nguyên tắc hay bài học, thầy đều diễn đạt lại bằng
ngôn từ dễ hiểu, gần gũi. Đi kèm với đó là những ví dụ với nhiều mức độ từ khó
đến dễ khác nhau giúp cho mỗi sinh viên chúng em đều có thể hiểu và dễ dàng
ghi nhớ bài mà không phải học vẹt, học nhồi nhét. Khơng chỉ vậy, nhờ có thầy
mà chúng em có những giờ học đầy tiếng cười nhưng cũng khong kém phần
nghiêm túc, cả những câu chuyện thực tế mà chúng em có thể học và áp dụng
theo, cả những câu chuyện trong lịch sử, thời kháng chiến của thầy, tưởng chừng
đó là một thứ xa lạ, khơ khan được ghi trong sách vở nhưng qua lời thầy thì nó
lại trở nên rất sinh động và em nhớ nhất là câu chuyện 81 ngày đêm ở thành cổ
quảng trị. Được chính thầy là người tham gia chiến đấu kể lại làm những sự kiện
lịch sử ấy càng thêm chân thật. từ đó mà em càng thấy tự hào về lịch sử kháng
chiến của dân tộc.
Không chỉ về phương pháp giảng dạy mà còn là phương pháp thảo luận của
thầy rất mới mẻ, đặc biệt. thày không gây quá nhiều áp lực cho sinh viên chúng
24


×