Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MOT SO BAI VAN THI VAO LOP 10 PTTH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.67 KB, 23 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN 9</b>



<b>Đề ra: </b> <i>Trong truyện “Người con gái Nam Xương” nhân vật</i>
<i>Trương Linh vội tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ</i>
<i>Nương ruồng rẫy và đánh đuỗi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên</i>
<i>nhảy xuống sông tự vẫn.</i>


<i>Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết</i>
<i>nào trong truyện tác giả muốn hé mở khả năng có thể tránh</i>
<i>được thảm kịch đau thương cho Vũ Nương. Những nguyên nhân nào</i>
<i>làm cho thảm kịch đó vẫn diễn ra dẫn đến cái chết đau thương</i>
<i>cũa người phụ nữ đức hạnh?</i>


<i>Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó.</i>


<b>HƯỚNG DẪN</b>


1. Đọc kĩ tác phẩm, nắm vững chi tiết, độc lập suy nghĩ để
tìm ra những chi tiết mà đề yêu cầu. Tài thắt nút và mở nút là ở
chỗ ấy. Mỗi em tìm tịi theo cách của mình miễn là hợp lí.


2. Bình ln về ngun nhân cái chết của Vũ Nương. Có nguyên nhân
trực tiếp do tính nết cá nhân của Trương Linh và nguyên nhân sâu
xa của chế độ xã hội từ đó tìm ra ý nghĩa tố cáo và nhân đạo
của tác phẩm.


<b>BAÌI VIẾT THAM KHẢO</b>


“<i>Truyền kì mạn lục</i>” là một tác phẩm có giá trị của văn học
cổ nước ta thế kỉ XVI, một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng
chữ Hán ở Việt Nam. Truyện “<i>Người con gái Nam Xương</i>” là một


truyện hay trong tác phẩm.


Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở
Nam Xương, chồng là Trương Linh, người nhà giàu nhưng khơng có
học, tính laiû đa nghi. Triều đình bắt lính, Trương Linh phải tòng
quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới được mười ngày
thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân
kết thúc, Trương Linh trở về thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ
nhất định khơng nhận Trương Linh làm bố. Nó nói: “<i>Ơ hay</i>! <i>Thế ra</i>
<i>ông cũng là cha tôi ư </i>? <i>Ơng lại biết nói, chứ khơng như cha tơi</i>
<i>trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ông đêm nào cũng</i>
<i>đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng</i>
<i>bao giờ bế Đản cả</i>.”


Tính Trương Linh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ
hư, đã vu oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ
Nương bị oan ức đã nhảy xuống sơng tự vẫn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

cha gì mà lạ vậy: “<i>khơng biết nói, chỉ nín thin thít</i>” chẳng bao giờ
bế con mình, mà hệt như “<i>cái máy</i>” - “<i>mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản</i>
<i>ngồi cũng ngồi</i>”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu
đố, giảng giải được thì cái chết của Vũ Nương sẽ khơng xảy ra.
Nhưng Trương Linh cả ghen, ít học, thiếu suy nghĩ, đã vơ tình bỏ dở
khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái chết oan uổng
của người vợ mà chàng khơng phải khơng có tình u thương. Tất
nhiên sự đời có thế mới thành chuyện, vả lại trên đơì làm gì có
sự ghen tng sáng suốt.


Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ
cần Trương Linh kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ


Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở một mình nàng hay đùa với
con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này, một đêm
phịng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt
người con chỉ vào bóng mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương
Linh mới tỉnh ngơ,ü thấu hiểu nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã
xong. Vũ Nương khơng cịn nữa trên đời.


Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện
trong nhà, một vụ ghen tng. Khơng ít tác phẩm xưa nay đã viết
về cái chuyện thường tình đầy tai hoạ này. Vũ nương khơng may
lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng
đến cái chết bi thảm là “<i>máu ghen</i>” của người chồng nông nổi.
Nhưng sự thực vẫn là sự thực!cái chết oan uổng quá và
người chồng độc đoán quá!


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Đề ra: </b><i>Phân tích bài thơ “Đồng chí” của chính Hữu ( Ngữ văn </i>
<i>9 - Tập 1).</i>


<b>HƯỚNG DẪN CÁCH VIẾT:</b>


Bài thơ <i>“Đồng chí”</i> ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch
Việt Bắc của quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô
lớn của thực dân Pháp cuối năm 1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc.
Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại đội thuộc trung
đồn Thủ đơ, cùng đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến
dịch. Đầu năm 1948 Chính Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết quả
của những trãi nghiệm thực va ìnhững cảm xúc sâu xa của tác
giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ nói về tình
đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính
cách mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài


thơ cũng thể hện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của
anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp cịn rất khó khăn thiếu thốn.


Bài thơ<i>” Đồng Chí”</i> viết theo thể thơ tự do, với hai mươi dòng
thơ, chia làm ba đoạn. Cả bài thơ đều tập trung vào thể hiện chủ
đề về tình<i>”Đồng Chí”.</i>


Cái bắt gặp đầu tiên của những người lính là từ những
ngày đầu gặp mặt. Họ đều có sự tương đồng về cảnh ngộ
nghèo khó <i>”quê hương anh nước mặn đồng chua, lành tơi nghèo</i>
<i>đất cày lên sỏi đá”.</i> Những người lính là những người của làng
quê nghèo lam lũ, vất vả với cày cấy, ruộng đồng với những làng
quê khác nhau. Họ từ các phương trời không hề quen nhau <i>”từ</i>
<i>muôn phương về tụ hội trong hàng ngũ của những người lính</i>
<i>cách mạng”.</i> Đó chính là cơ sở của tình đồng chí sự đồng cảm
giai cấp của những người lính cùng chung nhiệm vụ chiến đấu
để giải phóng quê hương, đất nước. Diễn đạt ý nghĩa đó, tác giả
đã diễn tả bằng hình ảnh:


<i> “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. </i>


<i>“Súng - đầu”</i> sát bên nhau là tượng trung cho ý chí và tình
cảm, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu, sát cánh bên
nhau. Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và hình thành bền chặt
trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui. Đó là
mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả đã biểu
hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm:


<i>“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.</i> Sau câu thơ này, nhà thơ hạ


một câu, một dòng thơ, hai tiếng <i>“Đồng chí”</i> vang lên như một


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

trước hai tiếng <i>“Đồng chí”</i> ấy là cội nguồn và sự hình thành
của tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội.


Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai trong
đoạn thơ thứ hai là những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí
và sức mạnh của tình đồng chí. Sự biểu hiện của tình đồng
chí và sức mạnh của nó được tác giả gợi bằng hình ảnh ở
những câu thơ tiếp:


<i>“ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày</i>
<i>Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay</i>
<i>Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”</i>


<i>“Đồng chí”-</i> đó là sự cảm thơng sâu xa những tâm tư, nỗi
lịng của nhau. Ba câu thơ trên đưa người đọc trở lại với hồn cảnh
riêng của những người lính vốn là những người nơng dân đó. Họ
ra đi trở thành những người lính nhưng mỗi người có một tâm tư,
một nỗi lịng về hồn cảnh gia đình, người thân, cơng việc đồng
quê. Họ gửi lại tất cả cho hậu phương, gửi bạn thân cày cấy
ruộng nương của mình. Họ nhớ lại những gian nhf trống khơng


<i>“mặc kệ gió lung lay”.</i> Nhưng đành để lại, đành gửi lại, họ phải
ra đi vì nghĩa lớn <i>“cứu nước, cứu nhà.”</i>


Giờ ở tiền tuyến, họ nhớ về hậu phương với một tình cảm
lưu luyến khó quên. Hậu phương, tiền tuyến <i>(người ở lại nơi</i>
<i>giếng nứơc, gốc đa)</i>khơng ngi nhớ thương người thân của mình
là những người lính nơi tiền tuyến. Tuy dứt khốt, mạnh mẻ ra đi


nhưng những người lính khơng chút vơ tình. Trong chiến đấu gian
khổ, hay trên đường hành quân họ đều nhớ đến hậu
phương-những người thân yêu nhất của mình:


<i>“ Ơi! Những đêm dài hành qn nung nấu</i>
<i>Bỗng bồi hồi nhớ mắt người u”</i>


<i>(Nguyễn Đình Thi)</i>


<i>“Đồng chí”-</i>đó là cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của
cuộc đời người lính với những hình ảnh chân thực, xúc động, gợi
tả và gợi hình <i>(từng cơn ốm lạnh sốt run người, vầng trán ướt</i>
<i>mồ hôi,áo rách vai, quần vài mãnh vá, miệng cười buốt giá, chân</i>
<i>không giày)</i> những ngày tháng ở rừng.


Để diển tả được sự gắn bó, chia sẻ, sự giống nhau vế
cảnh ngộ người lính tác giả đã xây dựng những câu thơ sóng đơi,
đối ứng với nhau trong từng cặp, từng câu:


<i>“ Anh với tôi biết từng cơn ốm lạnh</i>
<i>Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”</i>
<i>...</i>


<i>Miệng cười buốt giá</i>
<i>Chân không giày”</i>


Sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua tất cả?


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

của những người lính. Tình cảm đó là nguồn sức mạnh và niềm
vui để họ vượt qua. Cái <i>“bắt tay</i>”(như bàn tay biết nói) chính là


tình cảm của người lính truyền cho nhau sức mạnh và niềm tin
để họ vượt qua tất cả những gian lao, thiếu thốn, thử thách
trong chiến đấu.


Tình đồng chí, đồng đội còn biểu hiện ở sự thử thách.
Đoạn thơ cuối thật cơ đọng bằng hình ảnh khi nhà thơ viết:


<i>“Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới</i>
<i>Đầu súng trăng treo”.</i>


Đây là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, đồng đội- một
bức tranh đặc sắc và có ý nghĩa.


Bức tranh trên là mội cảnh thực trong mội đêm phục kích


<i>“chờ giặc tới”</i> tại một cảnh <i>”rừng hoang sương muối”</i> hoang
vắng lạnh lẻo nổi bập lên ba hình ảnh gắn kết với nhau <i>”vầng</i>
<i>trăng khẩu súng và người lính”</i> vầng trăng như treo khẩu súng của
người lính. Người lính thì <i>“đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.</i>


Câu thơ <i>“đầu súng trăng treo”</i> <i>(chỉ có 4 chữ)</i> gây cho người đọc
một sự bất ngờ lí thú <i>“ súng và trăng”</i> sao lại hoà quỵên vào
nhau đẹp thế! Hình ảnh thơ nói lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ trong những
năm đầu khánh chiến chống Pháp.


Bài thơ có ba khổ, ba tứ thơ, chủ yếu tạo thành ý chung xun
suốt tồn bài thơ <i>“Đồng chí”.“Đồng chí-thương nhau nắm lấy bàn</i>
<i>tay-đầu súng trăng treo”</i>



Bài thư hàm xúc, mộc mạc, chân thực trong sử dụng ngơn
ngữ, hình ảnh, giợi tả, có sức khái quát cao, khắc hoạ được
một trong những phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đơi cụ Hồ. Đó
là mối tình đồng chí, đồng đội gắn bó, keo sơn, thắm đượm tình
cảm, gian khổ có nhau, sống chết có nhau. Bài thơ có thực, có mơ
toạ nên vẻ đẹp của bài thơ, gây cho người đọc những suy tư sâu
sắc những cảm xúc sâu lắng. Bài thơ <i>“Đồng chí”</i> có những nét
thành cơng trong việc khắc hoạ hình ảnh người lính cách mạng
trong thơ ca kháng chiến.


<b>Đề ra: </b> <i>Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng</i>
<i>kính”của Phạm Tiến Duật</i>


<b> BAÌI VIẾT THAM KHẢO</b>


Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên <i>“trong sắc áo của</i>
<i>anh bộ đội Trường Sơn”</i> giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc
chiến tranh nhân dân chống Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

trong tập thơ <i>“vầng trăng-quầng lửa”</i> của tác giả. Trong bài thơ tác
giả đã xây dựng một hìng tượng độc đáo những <i>“chiếc xe khơng</i>
<i>kính”</i> chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến trường
miền Nam ruột thịt.


Mở đầu bài thơ, tác giả đã giải thích vì sao tất cả xe trong
tiểu đội đều <i>“khơng có kính”</i> vì bom đạn giặc Mỹ làm <i>“kính vỡ đi</i>
<i>rồi”.</i> Chỉ một chi tiết nhỏ <i>“khơng có kính vì xe khơng có kính-bom</i>
<i>giật, bom rung kính vỡ mất rồi”</i> tác giả đã làm cho người đọc
hiểu được sự ác liệt, tàn bạo của cuộc chiến tranh do đế


quốc Mỹ gây ra. Những chiếc xe này đã làm nổi bật hình ảnh
những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những
năm chống Mỹ cứu nước.


Thế mà, những người lính trên những chiếc <i>“xe khơng kính”</i>


vẫn <i>“ung dung buồng lái ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!”</i>


Thái dộ ung dung và <i>“cái nhìn”</i> của anh lái xe như bất chấp,
coi thường tất cả nguy hiểm ở phía trước mác dù <i>“bụi phun tóc</i>
<i>trắng như người già”, </i>cho dù <i>“mưa tuôn mưa xối như ngoài</i>
<i>trời”</i>...các anh vẫn <i>“nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”</i> hoặc tếu táo


<i>“phì phèo châm điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”</i>


Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang,
dũng cảm, bất chấp mọi nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe, để
lái những chiếc xe khơng kính ra mặt trận với một niềm tin niềm
vui của tuổi trẻ.


Khung kính đã bị vỡ, khơng có gì để chắn gió trời ùa vào,
đập thẳng vào mắt. Thế mà, tác giả lại viết: <i>“ nhìn thấy gió</i>
<i>vào xoa mắt đắng”.</i>


<i>“ Xoa”</i> là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve âu yếm. Qua cách diễn
đạt của câu thơ thì ở đây, gió khơng làm đau, làm rát mắt của
người lái xe mà ngược lại gió cịn vỗ về nhè nhẹ vào đôi mắt


<i>“đắng”.</i> Và, con đường trước mặt- con đường ra trận trở nên gần
sát hơn đang chạy ngược lại <i>“Nhìn thấy con đường chạy thẳng</i>


<i>vào tim”.</i> Vì khơng có kính chắn, nên người lái xe có cảm giác và
ấn tượng <i>“Con đường chạy thẳng vào tim”.</i> Con đường thực
trước mặt đó củng chính là con đường được nhà thơ nâng lên
thành con đường lý tưởng con đường cách mạng..., con đường ở
trong trái tim của người chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp
cho cac chiến sĩ lái xe thêm sức mạnh, niềm tin, bất chấp bom
đạn của kẻ thù, tiến lên phía trước: <i>“ Thấy sao trời và đột ngột</i>
<i>cánh chim- như sa như ùa vào buồng lái”</i>. Người lái xe vẫn vui với


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cấu trúc đựoc lặp lại <i>“ Ừ thì...”, “Chưa cần rửa”, “Chưa cần</i>
<i>thay” ..., “Lái trăm cây số nữa...”.</i> Dường như gian khổ nguy hiểm,
ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của
họ, trái lại, những người lính lái xe xem như là một nhịp để rèn
thử thách sức mạnh và ý chí của mình <i>“ chí làm trai” -tuổi trẻ</i>
<i>người lính”. </i>


Những người lái xe cịn là những chàng trai trẻ, sơi nổi, vui
nhộn, lạc quan. Họ <i>“nhìn nhau”, “bát tay nhau”,</i> và trên đường ra
trận thì <i>“ bếp Hồng Cầm ta dựng giữa trời- chung bát đũa nghĩa</i>
<i>là gia đình đấy”</i>, và cứ thế <i>“ võng mắc chong chênh đường xe</i>
<i>chạy”,</i> trước mắt họ những chiếc xe lại tiến lê phía trước, là ta
cứ đi, lại đi <i>“trời xanh thêm”</i> không có gì ngăn cản đuợc đường ra
mặt trận.


Cái gì đẫ làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ
bất chấp gian nan như vậy? Đó chính là ý chí chiến đấu để giải
phóng miền nam là tình u nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ thời đánh
Mỹ cứu nước.


Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi,


trụi trần <i>”Khơng có kính rồi xe khơng đèn- khơng có mui xe, thùng</i>
<i>xe có xước”</i> Nhưng điều kì lạ là những chiếc xe trụi trần ấy
vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một làn nữa lí
giải bất ngờ và rất chí lí: <i>“chỉ cần trong xe có một trái tim”</i> Trái
tim người lính cách mạng- trái tim của lòng quả cảm.


Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng điệu thơ
gần gủi, vui tươi, dí dỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người lái xe
trên tuyến đường Trường Sơn: dũng cảm hiên ngang, với niềm vui
sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm để ra
trận vì Miền Nam ruột thịt thân yêu. Họ luôn đối diện với khó
khăn thử thách, mà vẫn cười đùa, tếu táo, hồn nhiên, tự tin. Đó
là nét đặc sắc của bài thơ cũng như ngôn ngữ, giọng điệu riêng
của thơ Phạm Tiến Duật. Hơm nay đất nước dã hồ bình sau hơn
30 năm giải phóng Miền Nam con đường Trường Sơn đã đi vào lịch
sử, đọc lại bài thơ này, chúng ta càng tự hào và khâm phục biết
bao các chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội
Trường Sơn đã góp phần vào chiến thắng huy hoàng của dân tộc.


<b>Đề ra: </b><i>Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong</i>
<i>“ Bài thơ tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật </i>


Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ
cứu nước. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư
phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội và xung phong vào tuyến lửa khu
Bốn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã
vượt lên hiện thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời
chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ.



Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những
chiếc xe, nói cho đúng là cả một tiểu đội xe khơng có kính chắn
gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà độc đáo thật, vì chỉ gặp ở
Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ. Có thể
nói “<i>chất</i>” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:


<i>“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính</i>
<i>Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”</i>


Nguyên nhân xe khơng kính là vậy. Đấy là mội hiện thực
trần trụi mà tác giả không thể hư cấu.


Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái
xe hiện lên rất đẹp. Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt,
trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế nhưng vẫn nổi lên
với tư thế:


<i>“Ung dung buồng lái ta ngồi</i>


<i>Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”</i>


Nghĩa là xe cứ đi. Khơng những ung dung mà người lính lái xe
cịn tỏ ra rất chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả.


Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tơ
đậm cái nhìn của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã
sử dụng 3 lần từ “<i>nhìn</i>” (điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện
máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn nghề
nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca - bin khơng kính, qua cái nhìn đã


tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối
với người lái xe:


<i>“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng</i>


<i>Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim</i>
<i>Thấy sao trời và đột ngột cánh chim </i>
<i>Như sa, như ùa vào buồng lái”</i>


Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng
trưng, đều thể hiện cái thế ung dung tinh thần vượt lên của
người lái xe.


Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tơ đậm. Cái tài của
Phạm Tiến Duật trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện
thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần
vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người lái xe
trong thời gian chiến tranh ác liệt.


Xe không kính nên “<i>bụi phun tóc trắng như người già</i>” là lẽ
đương nhiên, xe khơng có kính nên “<i>ướt áo, mưa tn, mưa xối như</i>
<i>ngồi trời”</i> là lẽ tất nhiên.


Những cụm từ “<i>ừ thì có bụi</i>”, “<i>ừ thì ướt áo</i>” chứng tỏ họ
khơng những đã ý thức được mà cịn rất quen với những gian
khổ đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc</i>
<i>Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”</i>



Vaì cao hån:


<i>”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa</i>
<i>Mưa ngừng, gió lùa mau khơ thơi.”</i>


Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh
thần và cuộc sống của người lính Các động tác “<i>phì phèo châm</i>
<i>điếu thuốc</i>” tuy có vụng về nhưng sao đáng yêu thế?. Cái cười
“<i>ha ha</i>” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người sao mà rạng
ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được
phần nào cuộc sống của người lính ngồi chiến trường những
năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác
liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn
thành nhiệm vụ cao.


Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau
những chuyến vận tải trên những chặng “<i>đường đi tới</i>”. Vẫn
những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm chất văn xuôi rất riêng
của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội
trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tơ đậm cái hình
tượng thơ “<i>xe khơng kính</i>”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:


<i>“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới</i>
<i>Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”</i>


Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với
chúng ta một điều như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe
không kính mà tương lai cịn là tiểu đội xe khơng đèn, không mui
xe, ... Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra cịn hết sức ác
liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã,


thử thách: “ <i>Khơng có kính rồi xe khơng đèn, khơng có mui, thùng xe</i>
<i>có xước</i>” nhưng nhất định họ sẽ hồn thành nhiệm vụ, sẽ chiến
thắng bởi vì phía trước họ là miến Nam thân u và vì họ sẵn có
một nhiệt tình cách mạng, một trái tim quả cảm - trái tim người
lính Bác Hồ.


<i>“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước</i>
<i>Chỉ cần trong xe có một trái tim”</i>


Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe
trong cuọoc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.


<b>Đề ra:</b><i> Phân tích cảnh ra khơi của” Đoàn thuyền đánh cá” </i>


<i>được miêu tả trong bốn câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh </i>
<i>cá” của Huy Cận</i>:


<i>”Mặt trời xuống biển như hòn lửa</i>
<i> Sóng đã cài then đêm sập cửa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Bài thơ <i>“Đoàn thuyền đánh cá”</i> là bài thơ được Huy Cận
sáng tác vào năm <i>1958,</i> nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ


<i>Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh</i>. Bài thơ đã dụng được một
không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh
cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển
cả. Bốn câu thơ đầu diển tả cảnh ra khơi của <i>“Đoàn thuyền đánh</i>
<i>cá</i>”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển.


Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của <i>“Đoàn thuyền</i>


<i>đánh cá”. </i>Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng
những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm: <i>”Mặt trời</i>
<i>xuống biển như hịn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”.</i> Ơí câu
thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của <i>“mặt</i>
<i>trời”</i> được so sánh với <i>“hòn lửa”.</i> Viết về cảnh biển đêm, ngày
tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng
này. Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng
lồ. Khi ngày đã tàn, <i>“Mặt trời xuống biển”,</i> màn đêm bng xuống


<i>“Đêm sập cửa”</i> thì sóng biển như <i>“then cài”</i> đóng lại cánh cửa
khổng lồ ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có
trí tưởng tượng phong phú.


Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn
thuyền đánh cá thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho cơng việc
đánh cá trên biển trong đêm.


<i>“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi</i>
<i>Câu hát căng buồm cùng gió khơi”</i>


Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi
trời yên biển lặng, đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen
thuộc.


Hình ảnh thơ <i>“Câu hát căng buồn cùng gió khơi”</i> là một hình
ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy
Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người lao
động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát
khoẻ khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi)
làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi,


niềm tin vào thành quả lao động.


Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của <i>“Đoàn thuyền đánh</i>
<i>cá”.</i> Cảnh ngày tàn mà vẩn ấm áp, vẩn tràn đầy niềm vui, niềm
lạc quan của người lao động. Khơng khí chung của bốn câu thơ mở
đầu này chi phối khơng khí chung của cả bài thơ.


<b>Đề ra:</b><i> Phân tích cảnh ra khơi của” Đoàn thuyền đánh cá”của </i>
<i>Huy Cận</i>:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

đoàn thyền trên biển, nhà thơ ca ngợi khơng khí lao động mới, tràn
đầy niềm lạc quan, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la.


Bài thơ đã dựng được khơng khí lao động khẩn trương, hăng
say, nhộn nhịp của miền Bắc những năm đầu bắt tay xây dựng
chủ nghĩa xã hội.


Bài thơ mở đầu bằng cảnh <i>“Mặt trời xuống biển như hòn</i>
<i>lửa” </i>và kết thúc bằng hình ảnh <i>“Mặt trời đội biển như màu</i>
<i>nước-mắt cá huy hồng mn dặm khơi”. </i>Như vậy là cảnh lao
động của đoàn thuyền đánh cá diển ra trong một đêm ròng. Thế
nhưng, bài thơ là một bức tranh với những đường nét khoẻ
khoắn, màu sắc tươi sáng lạ thường. Đánh cá trên biển mênh
mông thực chất là một công việc lao động nặng nhọc, đầy nguy
hiểm. Vậy mà cả bài thơ là một khúc ca sảng khoái, tràn đầy
niềm vui, phối hợp nhạc điệu với những động tác khoẻ mạnh,
dồn dập. Bài thơ lặp lại nhiều lần chữ <i>“hát”, </i>và tiếng hát đã
thực sự trở thành âm thanh chủ đạo của bài thơ.


Cùng với tiếng hát được nhắc đi nhắc lại như một điệp


khúc, trong bài thơ này, tác giả còn tập trung miêu tả hình ảnh
những con cá, những đàn cá gợi lên một bức tranh sinh động về
cảnh biển giàu, đẹp. Hình ảnh đàn cá liên tiếp suất hiện, lấp
lánh ánh sáng màu sắc như một bức sơn mài:


<i>“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng</i>
<i>Cá thu biển Đơng như đồn thoi</i>


<i>Đêm ngày đệt biển mn luồng sáng</i>
<i>Đến dệt lưới ta, đồn cá ơi!</i>


<i>Cạ nủc cạ chim cng cạ âẹ</i>


<i>Cá song lấp lánh đuốc đen hồng</i>
<i>Cái đuôi em vẩy trắng vàng choé</i>
<i>Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”</i>


Giữa khung cảnh biển đêm mênh mơng, hình ảnh con người
lao động xuất hiện với tư thế làm chủ biển khơi, làm chủ
cơng việc của mình. Hình ảnh họ xuất hiện thật gân guốc,
khoẻ khoắn: <i>“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng - Ta kéo xoăn tay chùm</i>
<i>cá nặng”. </i>Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã dựng lên
hình ảnh những người con lao động mới với tầm vóc ngang
tầm vũ tru ûvà hoà hợp với khung cảnh trời nước bao la:


<i> </i> <i> “Thuyền ta lái gió với buồm trăng</i>
<i>Lướt giữa mây cao với biển bằng</i>


<i>Ra đậu dặm xa dò bụng biển</i>
<i>Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

lao động làm giàu cho Tổ quốc. Huy Cận đã nhìn cảnh đánh cá
trên biển khơi bằng con mắt lạc quan phơi phới của mình.


Sau một đêm đánh cá trên biển, bình minh lên, đồn thuyền
đánh cá lại trở về bến bãi. Vẫn là câu hát nhưng đây là câu hát
tràn ngập niềm vui của con người sau một đêm lao động khẩn
trương và đạt sản lượng mong muốn. Thiên nhiên như chia sẻ
niềm vui đó: <i>”Câu hát căng buốm cùng gió khơi” </i>và cảnh trở nên vơ
cung sinh động. Trên mặt biển mênh mơng, đồn thuyền lao vùn
vụt: <i>”Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.</i> Đoàn thuyền như
chạy đua cùng với thời gian với niềm vui háo hức để trở về với
bến bờ đang nhộn nhịp đón chờ....


Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể
hiện niềm phấn khởi trước những thành quả lao động của mình.
Hình ảnh con người hiện lên trong bài thơ là hình ảnh conngười mới
làm chủ thiên nhiên, nhiệt tình lao động sản xuất để làm giàu cho
tổ quốc, gắn với biển cả quê hương.


<b>Đề ra: </b><i>Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ơi trong bài thơ</i>
<i>“Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ” (của Nguyễn Khoa Điềm)</i>


Bài thơ <i>“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”</i> của nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm đời giữa những năm tháng quyết liệt của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả hai miền Bắc-Nam.
Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta trên các chiến khu
(phần lớn là những vùng miền núi) rất gian nan, thiếu thốn. Cán
bộ, nhân dân ta phải bám rẫy, bám đất để tăng gia sản xuất, vừa
sẳn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. Bài thơ là lời hát ru những


em bé dân tộc Tà-ôi lớn trên lưng mẹ ở vùng chiến khu Trị-Thiên
trong thời kì chiến tranh chống Mỹ.


Hình ảnh người mẹ Tà-ơi trong bài thơ, qua từng đoạn thơ với
từng khúc hát ru được gắn với hoàn cảnh, cơng việc cụ thể.


Ơí khúc thứ nhất, người mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam
lũ, vất vả với cơng việc giả gạo ni bộ đội. Mẹ giả gaỏ, con
vẫn trên lưng mẹ. Câu thơ: <i>“Vai mẹ gầy nhấp nhơ làm gối”</i> thật
cảm động. Mẹ gầy vì cơng việc giúp ni bộ đội đánh giặc. Mẹ
gầy vì ni cho con nhanh lớn. Nhưng trái tim của mẹ vẫn hát về
ước mơ:


<i>“Mai sau con lớn vung chày lún sân”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi</i>
<i>Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”</i>


Hình ảnh <i>“Mặt trời”</i> trong câu thơ sau được chuyển nghĩa (ẩn
dụ): Cu Tai là mặt trời của mẹ. Em còn là tất cả của mẹ, là lí
tưởng, là hi vọng của mẹ. Mẹ mơ ước về con:


<i>“Mai sau lớn lên</i> <i>phát mười Ka-lưi”</i>


Đến khổ thứ ba, lời ru đồn đập, mạnh mẻ, gấp rút, bởi


<i>“giặc Mỹ đến đánh”,</i> đuổi ta phải rời suối rời nương <i>“Thằng Mỹ</i>
<i>đuổi ta phải rời con suối”.</i> Mẹ phải chuyển lán, đạp rừng , cùng
tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trường, em vẩn trên lưng:



<i>“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường </i>
<i>Từ trong đói khổ em vào Trương Sơn”</i>


Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ước<i>: “Mai sau con lớn</i>
<i>làm người tự do”.</i>


Ba khúc hát ru cũng là ba đoạn thơ điển tả cơng việc cùng
tấm lịng của mẹ ở trong chiến khu gian khổ, người mẹ Tà-ơi
trong bài thơ cịn thắm thiết u con và cũng nặng tình thương
bn làng, q hương, bộ đội và khao khát mong cho đất nước độc
lập, tự do.


Lời ru gắn với tình yêu con tha thiết của người mẹ dân tộc Tà-ôi.
Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong thực tại mà
người con chưa thể biết:


<i>“Mẻ gi gảo mẻ ni bäü âäüi</i>


<i>Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng</i>
<i>Mồ hơi mẹ rơi má em nóng hổi</i>


<i>Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối </i>
<i>Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”</i>


Lời ru theo nhịp giả gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai như
theo nhịp chày, nhịp thở. Hai mẹ con cùng chung một nhịp, mẹ
làm việc, con ngủ ngon <i>“Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”</i>.
Hai từ <i>“Nghiêng”</i> đứng trong một câu thơ thể hiện niềm say mê
của mẹ hoà cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong
hiện tại, nhưng lời ru của mẹ cao vút đến ngày mai<i>. “Mai sau con</i>


<i>lớn vung chày lún sân!!..</i>


Lời ru trên nương khi trỉa bắp ở trên núi Ka-lưi, vẫn theo nhịp


<i>“chọc lỗ”</i> trỉa bắp nhưng hình ảnh lúc này thiên về đối lập


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

nghèo vẫn thương con, thương cách mạng, <i>“mặt trời của mẹ em</i>
<i>nằm trên lưng”</i>- người mẹ vừa chịu đựng cái nóng vừa tha thiết
yêu thương.


Lời ru của mẹ không chỉ hướng vào thực tại mà còn hướng
về tương lai:


<i>“Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi</i>
<i>Mẹ thương A-kay, mẹ thương làng đói</i>
<i>Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều</i>


<i>Mai sau con lớn phát mười Ka-Lưi”</i>


Khi chuyển lán, trong lời ru thứ ba, nhịp thơ vẫn ngắt đơi, mỗi
dịng theo bước chân đi nhưng lời thơ xếp theo lối hùn điệp, đuổi
nhau giục giã, khẩn trương:


<i>“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng</i>
<i>Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối</i>
<i>...</i>


<i>Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”.</i>


Cũng như đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hướng vào đất nước,


hướng vào tương lai chiến thắng”


<i>“ Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi</i>
<i>Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước</i>
<i>Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ</i>
<i>Mai sau con lớn làm người tự do”.</i>


Tình yêu thương con của người mẹ gắn liền với tình cảm đối
với cán bộ, xóm làng, đất nước. Tình u của người mẹ Tà- ơi
gắn liền với tình cảm cao đẹp khác. Đó là lịng thương u bộ
đội, u thương dân làng, yêu thương đất nước. Những lời ru của
người mẹ còn thể hiện ước mơ và ý chí của nhân dân ta. Người
mẹ mong con lớn lên giúp mẹ giã gạo <i>“vung chày lún sân”</i>, giúp
mẹ trỉa ngô, làm rẫy <i>“phát mười Ka-lưi”.</i> Đó là niềm mong ước
mọi người được sống ấm no <i>“hạt gạo trắng ngần, hạt bắp</i>
<i>lên đều”.</i> Lời hát ru còn thể hiện ý chí chiến đấu, khát vọng tự
do và niềm tin vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ:


<i>“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ</i>
<i>Mai sau con lớn làm người tự do...”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

lai. Đây là một hình tượng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện
đại, sánh cùng với những hình tượng khác hình ảnh người mẹ
khác trong hai cuộc chiến của dân tộc ta đó là: mẹ Tơm, mẹ Suốt,
người mẹ-người cầm súng Út Tịch...đã góp nên một bài ca của
những người mẹ Việt Nam anh hùng<i>: “Anh hùng, bất khuất, trung</i>
<i>hậu, đảm đang”</i> với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng.


<b>TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU</b>



<b>Đề ra: </b><i>Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong</i>
<i>SGK ngữ văn 9, tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm</i>
<i>nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.</i>


Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là
giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh
hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo (nửa cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của
thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng
nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định,
đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của
con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, cơng
lý, khát vọng tình u hạnh phúc...


Tiếng nói nhân đạo ấy tốt lên từ hình tượng nhân vật Thuý
Kiều trong truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau
và bất hạnh. Nàng là một người con gái tài sắc, giàu tình cảm
nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày.


Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm
gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ những bi kịch của người
phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình yêu tan
vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.


Tình u Kim Trọng- Kiều là một tình u lí tưởng với <i>“Người</i>
<i>quốc sắc kẻ thiên tài”,</i> nhưng cuối cùng<i> “giữa đường đứt gánh</i>
<i>tương tư”, “nước chảy hoa trơi lỡ làng”.</i> Tình u tan vỡ và khơng bao
giờ hàn gắn được-tuy <i>“màn đồn viên”</i> có hậu về cơ bản cũng


chỉ là <i>“một cung gió thảm mưa sầu”</i>.Hạnh phúc nàng toan được
nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những
chuổi dài những bi kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu
ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống, bị đạp xuống sâu thêm
một tầng nữa.


Thuý Kiều là hiện thân của một vẽ đẹp nhan sắc, tài hoa.
Sắc và tài của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẽ đẹp,
tài năng của Kiều Ng.Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn
học cổ có phần lí tưởng hố để trân trọng một vẽ đẹp. <i>“ Một</i>
<i>hai nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ</i>
<i>hai”.</i>


Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở
tấm lòng vị tha, nhân hậu. Nàng hi sinh tình yêu để cứu gia đình,
cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ tới cha mẹ với những
tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp


<i>“Tựa cửa hôm mai”</i> của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt
khơng ngi vì một nổi là khơng được chăm sóc cha mẹ già<i>:</i>
<i>“Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”.</i> Thuý Kiều là người chí
tình chí nghĩa “<i>Ơn ai một chút chẳng qn”.</i> Khi có điều kiện, nàng
đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình, nhưng nàng vẫn
thấy cơng ơn đó khơng gì có thể đền đáp nổi <i>“Nghìn vàng gọi</i>
<i>chút lễ thường-mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”.</i>


Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do,
khát vọng hạnh phúc và khát vọng về quyền sống.



Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể
hiện qua mối quan hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim
lần đầu, hai bên chưa tiện nói với nhau một lời, mà mối tình
khơng lời ấy đã như một chén rượu nồng, khiến người ta chống
váng đê mê:


<i>“Tình trong như đã mặt ngồi còn e</i>
<i>Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...”</i>


Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót
chân nàng thoăn thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng


<i>“Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình”</i> Thật là nhiệt thành cho
một mối tình đầu trong trắng. Ng.Du đã dành tất cả tài năng và
tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một khong hai
trong lịch sử văn học Việt Nam.


Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng
tình yêu tự do , chủ động của hai người. Khác với nhiều người
phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ, Kiều chủ động
đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ
động nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung nhất trong tình
yêu.


Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở
thành đại diện cho con người bị áp bức vùng lên làm chủ số
phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa:


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i>Hải nhán nhán hải sỉû no tải ta”.</i>



Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp
bức khác vùng lên đòi quyền sống, địi lẽ cơng bằng, trừng trị kẻ
ác. <i>“Cái thế giằng co giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm</i>
<i>Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm khuyết danh khác cũng</i>
<i>như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ khác...</i>
<i>Một bên nhiều khi con người mượn yếu tố thần linh phụ trợ,</i>
<i>một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con người quyết</i>
<i>định theo cơng lí của mình”- (Cao Huy Đỉnh)</i>


Với nhân vật Th Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất
mực yêu thương rất mực đề cao con người, đề cao những khát
vọng chân chính của con người- đặc biệt là thân phận người phụ
nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, tàn bạo và lễ
giáo phong kiến.


<b>Đề ra: </b><i>Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ</i>
<i>“Với bút pháp tinh diệu, Nguyển Du không những xây dựng lên hai</i>
<i>chân dung “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” mà dường</i>
<i>như cịn nói được cả tính cách, thân phận...tốt ra từ diện mạo</i>
<i>của mỗi vẻ đẹp riêng”.</i>


Đoạn trích <i>“Hai chị em Thuý Kiều”</i> nằm ở phần đàu của câu
chuyện. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả hai chân
dung tuyệt mỹ của chị em Thuý Kiều. Đằng sau những nét bút
miêu tả tinh tế và độc đáo, người đọc có thể nhận thấy tấm
lịng ưu ái, trân trọng đặc biệt của Nguyễn Du đối với nhân vật
của mình. Qua ngịi bút của Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều
xinh đẹp, nhưng <i>“mỗi người</i> (tài tình) <i>mỗi vẻ”</i> với dự báo trước
số phận, tính cách, cuộc đời của mỗi nhân vật, đặc biệt là Thuý


Kiều, nhân vật của truyện.


Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về
hai chị em với bốn câu thơ:


<i>“Đầu lòng hai ả tố nga</i>


<i>Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân</i>
<i>Mai cốt cách, tuyết tinh thần</i>


<i>Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”</i>


Cả hai chị em đều có vẻ đẹp toàn mỹ, từ hình thức bên
ngoài <i>“Mai</i> <i>cốt cách”</i> đến vẻ đẹp bên trong tâm hồn <i>“Tuyết tinh</i>
<i>thần”.</i> Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:


<i>“Vân xen trang trọng khác vời</i>


<i>Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang</i>
<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang</i>


<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

tơ đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là cách
thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm
chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý
Vân, qua nét vẻ thân tình của Nguyễn du bổng rở nên sống động là
nhờ đã chứa đựng trong đó quan niệm về tài sá của chính nhà
thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan trang phúc hậu
của Thuý Vân-một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn



<i>“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”-</i>như dự báo trước
một cuộc đời, một số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên của
nàng.


Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước
lệ tượng trưng vẻ đẹp và giàu sức gợi tả, được lọc qua tâm
hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã khắc hoạ khá sống động vẻ
đẹp đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức sống của Thuý Vân,
biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời yên
ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm cười, vui vẻ rước đón nàng.


Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Th Vân, khơng phải là chủ
đích nghệ thuật của tác giả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền
đề, tao ra một điểm tựa nghệ thuật <i>“tả khách hình chủ”</i> để làm
nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác
phẩm.


Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp <i>“sắc sảo mặn</i>
<i>mà”</i> cả tài lẫn sắc đạt tới mức tuyệt vời.Cũng những từ ngữ,
hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua ngịi bút miêu tả tài hoa của Ng
Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên lộng lẫy, sắc nước hương trời
đến hoa phải <i>“ghen”,</i> liễu phải <i>“hờn”.</i>


Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin
xắn, tươi non như sắc núi mùa xuân <i>“làn thu thuỷ, nét xuân sơn”.</i>


Nếu như vẻ đẹp của Th Vân trời xanh cịn có thể nhường nhịn,
thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo hoá cũng trở nên
đố kị ghen ghét



<i> “ Kiều càng sắc sảo mặn mà,</i>
<i>So bề tài sắc lại là phần hơn</i>


<i>Laìn thu thu nẹt xn sån,</i>


<i>Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”</i>


Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh,
cái sắc đẹp <i>“sắc sảo mặn mà”</i> khiến thiên nhiên cũng phải đố
kị, ghen ghét ấy đã dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ
ập đến với nàng. Ng Du đã không tiếc lời ca ngợi sắc đẹp và tài
nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Th Kiều thông minh, đa
tài, đa cảm, một con người nhất mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài
đàn của Th Kiều đạt tới mức tuyệt diệu:


<i>“ Thông minh vốn sẳn tính trời</i>
<i>Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm</i>


<i>Cung thương lầu bậc ngũ âm</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Cả diện mạo bên ngoài và diên mạo tâm hồn cũng hé mở
dần tính cách số phận của nàng Kiều.


Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi
gắm quan niệm <i>“Tài hoa bạc mệnh”</i> vào đấy - dự báo trước
cuộc đời, số phận long đong, lận đận, đầy bất hạnh của nàng.


Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học
cổ điển, với ngịi bút tài hoa, chắt lọc, trau chuốt ngơn từ, Ng.Du


đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Th.Vân và Th.Kiều,
mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ tính cách, từng số
phận riêng, không lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong tâm hồn
người đọc. Đây là thành công trong bút pháp nghệ thuật miêu tả
người của Ng.Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với truyện Kiều và nghẹ
thuật tả người đặc sắc, tinh tế của Ng.Du, đẫ là bậc thầy làm
rung động và sự cảm phục, trân trọng của bao thế hệ đối với
đại thi hào dân tộc Ng.Du.


<b>Đề ra: </b><i>Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để</i>
<i>thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy</i>
<i>xúc động.</i>


Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ
phải rơi vào một tên cò mồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú
Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa
Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc
tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bị xơ đẩy đi giữa bao
mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hết được.
Đoạn thơ trích <i>“Kiều ở lầu Ngưng Bích”</i> đúng là một bức tranh
tâm tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều
vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.


Trong giờ phút mà bên ngồi tưởng như n tĩnh này thì chính
trong lịng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì
xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ cịn lại cảm giác
đau buồn, nhớ thương vơ hạn xốy sâu vào tâm can nàng.


Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp,
ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống


phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như


<i>“bụi hồng” </i>nhỏ bé.


Cả một không gian mênh mông, hoang vắng khơng một bóng
người, khơng một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn,
lẻ loi của nàng lúc này:


<i>“Trước lầu Ngưng Bích khố xn</i>
<i>Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung</i>


<i>Bốn bề bát ngát xa trông</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lịng
mình thế ấy: <i>“Trống trải, đơn cơi”: </i>


<i>“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya</i>


<i>Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lịng”</i>


Nàng tự đối thoại với lịng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề
nguyền dưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu
muộn, chờ mong của chng và tự hứa với lịng mình giữ trọn
mối tình chung thuỷ.


Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc
chia li khơng nói với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột
ngột:



<i>“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng</i>
<i>Tinh sương luống những rày trơng mai chờ</i>


<i>Bên trời góc bể bơ vơ</i>


<i>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”</i>


Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã <i>“liều đem tấc cỏ,</i>
<i>quyết đền ba xuân”,</i> cứu được cha, em thốt khỏi vịng tù tội,
nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là
phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình khơng được chăm
sóc, khơng được hầu hạ:


<i>“Xót người tựa của hơm mai</i>


<i>Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?</i>
<i>Sân Lai cách mấy nắng mưa</i>


<i>Có khi gốc tử đã vừa người ơm”</i>


Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết
bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha,
mẹ mà khơng được phụng dưỡng sớm hơm. Nổi buồn đó đang
thức dậy trong lịng Th Kiều <i>“Xuân xanh đang tuổi đến tuần</i>
<i>cập kê”</i>-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn tồn, vốn đa tình, đa cảm.
Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quang lấy nàng.


Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay
nhưng nơíi buồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được
những gì sẽ đến với mình, đối với người con gái họ Vương


tài-sắc này như một định mệnh khơng sao thốt được!


Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng
nàng Kiều lại quay về với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm
trạng và thân phận hiện tại của chính mình.


Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên
trong tâm trí của nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng
chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý
Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô
đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i>...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”</i>
<i>...”Buồn trông ngọn nước mới sa”</i>
<i>...”Buồn trơng nội cỏ rầu rầu”</i>


<i>...”Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh”</i>


Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi
buồn khó tả, cũng có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt,
dịng nước thì mãi miết cuốn trơi những càng hoa rơi. Cùng với
gió, sóng như là <i>“gió cuốn”, “sóng xơ”....</i>giữa cái mênh mơng của
biển trời, lại vào


lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con
thuyền, một cách buồng thấp thống phía xa “<i>Thuyền ai thấp</i>
<i>thống cánh buồm xa xa”.</i>


Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên
tưởng với tâm trạng buồn chán về cuộc đời, về số phận của


mình.


Nếu như <i>“Thuyền ai thấp thống”</i> làm nàng chạnh nghĩ đến
cuộc đời trơi nổi, bấp bênh thì cảnh <i>“nước chảy hoa trôi”</i> lại gợi
đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vơ định, khơng cịn phương
hướng <i>“biết là về đâu”.</i> Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn
hầu như đã dâng lên tột đỉnh:


<i>“Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Âưm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”</i>


Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn
cuốn đi cái thân phận bé nhỏ bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có
thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp đó.
Phải chăng như Nguyễn Du đã viết: <i>“Người buồn cảnh có vui</i>
<i>đâu bao giờ”</i> . Qua điệp khúc <i>“Buồn trông....”</i> của Kiều, ta cảm nhận
được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảng đời 15
năm lưu lạc, có lửa nồng, có <i>“Thanh y hai lượt, thanh lâu hai</i>
<i>lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.</i>


Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm
trong bút pháp Nguyễn Du: cảnh và tình bao giờ cũng hồ hợp, tả
cảnh là để tả tình, trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn
ba ngàn câu (3254 câu). Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một phần rất
nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người
biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà thơ, nhưng
trước hết là vì cái tình lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đối với
con người, đối với cuộc đời





</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị
Tú Bà giam lỏng ở đấy, dùng <i>“Mưu ma chước quỷ”</i> lừa gạt nàng,
để buộc nàng phải ra tiếp khách ở lầu xanh. Sau lưng nàng là
những tai biến, đau đớn, nhục nhã, ê chề: gia đình bị mắc oan,
phải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới về làm
lẽ và bị gã lừa gạt, làm nhục ngay ở dọc đường, bị Tú Bà xỉ
nhục và dở trò đánh đạp để ra uy. Từ tâm trạng của mình, nhìn
cảnh vật bên ngồi, do đó, những ghi nhận về cảnh là những ghi
nhận về tình. Vì mối quan hệ tình cảnh đó, người đọc càng hiểu
sâu sắc tâm trạng của Thuý Kiều trong đoạn trích này:


<i>“Buồn trơng cửa bể chiều hơm</i>


<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>
<i>Buồn trông ngon nước mới sa,</i>


<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>
<i>Buồn trông nội cỏ rầu rầu</i>


<i>Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh</i>
<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Âưm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.</i>


Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã <i>“thất</i>
<i>thân”</i> với Mã. Thật ra Mã mua Kiều về cho mụ Tú Bà. Tú Bà khi
biết hành vi của Mã đã nổi giận đùng đùng, đánh đập Kiều, bắt
Kiều tiếp khách. Phẫn uất khi bị lừa dối, bị hành hạ, Kiều
quyết định tự vẫn. Lo ngại vì vốn liếng có thể <i>“thất thốt”...</i>Tú
Bà dùng thủ đoạn khuyên nhủ, dỗ dành và hứa sẽ tìm một nơi


xứng đáng cho nàng về sau, Tú Bà đưa Kiều về lầu Ngưng Bích.


Sau những đau đớn ê chề, trong lẻ loi, Kiều ngóng đợi tin tức
người tình <i>“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng-tinh sương</i>
<i>...trông mai chờ”.</i> Nàng nghĩ về cha mẹ tuổi già bóng xế <i>“Xót</i>
<i>thương ...-quạt nồng ...đó giờ?”</i>


Chính trong tâm trạng ngổn ngang nhiều nỗi đó, Kiều nhìn ra
cái mênh mơng của biển cả. Từ trong cảnh soi vào lịng mình hiện
tại, Kiều gặp lại lịng mình:


<i>“Buồn trơng cửa bể chiều hơm</i>


<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?”</i>


Giữa cái mênh mơng của trời biển, trong màu xanh xam xám
của ban chiều, có những cánh buồm lúc ẩn lúc hiện: chiếc
thuyền ra khơi, chiếc thuyền hướng về đất liền. Từ nội tâm đang
đau khổ, Kiều như nhìn nhận “<i>từ trong ai đó”,”Trong những chiếc</i>
<i>thuyền từ biển khơi</i>”, trong tầm mắt xa khơi của cảnh và con
người. Đang trông vọng một nỗi hội tụ mà sao lại cách biệt, chia
li làm vậy?


Lời thơ bình dị, những gì gợi lên trong âm hưởng của câu thơ
-là nổi khắc khoải, xốy sâu vào lịng Kiều:


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Trơng ngọn nước đang cuồn cuộn chảy, nhiều cánh hoa trôi
dạt. Có thật là cánh hoa chăng? Khơng phải vậy! Người đọc cảm
nhận được trong dòng nước đang cuồn cuộn chảy kia <i>“nhiều</i>
<i>cánh hoa trơi dạt”.</i> Cũng có thể là cánh hoa, cũng có thể là dịng


nước cuồn cuộn thiếu gì những bọt bèo trôi nổi. Trong cái mênh
mông vô định, cái cảnh <i>“ nước chảy, hoa trôi lỡ làng</i>” ấy gắn hợp
với thân phận con người bị ném vào cảnh sống đầy biến động,
đầy bất công và bạc ác - thân phận Thuý Kiều, chúng ta mới hiểu
được tâm trạng của nàng Kiều trong lúc này.


Lời thơ rất giản dị và hình ảnh ẩn dụ sắc sảo về cuộc
đời-cuộc đời người đàn bà <i>(như người đời thường quan niệm “đời</i>
<i>hoa”)</i>


Nhiều lần Kiều cũng tự ví mình “Hoa trơi, bèo dạt đã đành.
Biết dun mình, biết phận mình thế thơi”


Buồn bã, Kiều lại nhìn vào đồng nội:


<i>Buồn trơng nội cỏ dầu dầu</i>


<i>Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.</i>


Màu mây, màu cỏ nhạt hoà vào với nhau thành một màu <i>“xanh</i>
<i>xanh</i>” khó phân biệt. Mà làm sao phân biệt được <i>“màu trời, sắc</i>
<i>mây”</i> trong cảnh chiều tà, giữa cái mênh mơng, bát ngát trong lúc
tâm hồn cịn nhiều ngổn ngang như thế. Và cuối cùng:


<i>“Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh</i>
<i>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”</i>


Trong câu thơ, đọc lên, ta nghe có <i>“tiếng gió”</i> và “tiếng sóng
biển” đang <i>“ầm ầm”</i> kêu quanh ... nàng Kiều như đang ở trong tâm
trạng lo lắng, hoảng sợ tưởng như không ngồi trên đất liền nữa


mà như đang ngồi giữa biển khơi, bốn phía <i>“ầm ầm tiếng sóng</i>”.
Tiếng sóng ở đây, trong câu thơ khơng phải là âm thanh của tiếng
sóng bình thường: sóng vỗ, sóng xơ, sóng dào dạt, ... mà <i>“tiếng</i>
<i>sóng kêu”</i> ầm ầm tứ phía, ngầm dự báo cơn sóng gió, bão táp
của cuộc đời thật dữ dội sẽ ập đến với Thuý Kiều, với đoạn
trường mười lăm năm lưu lạc đang chờ đợi nàng.


Đoạn thơ này hay khơng những vì đã khái quát được tâm
trạng của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích mà cịn mở ra những
điều dự báo về sau của cuộc đời Kiều.


Những dự báo mơ hồ của tâm linh không lâu đã đến với Kiều. Tám
câu thơ cuối của đoạn trích <i>“Kiều ở lầu Ngưng Bích”</i> càng khẳng
định ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du trong bút pháp tả cảnh, tả nội
tâm nhân vật tài tình, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu lắng trong
lòng người đọc xưa và nay, thấm đẫm tinh thần nhân đạo sâu
sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Đề ra: Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
(Ngữ văn 9 - tập I)


Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng
với Kim Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giáo hoạ. Khơng
đành lịng để cho gia đình tan nát, Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho
Thuý Vân, tự nguyện bán mình để lấy tiền cứu cha và em trai.
Lợi dụng tình cảnh đau đớn của kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một
đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cươid nàng về làm vợ thiếp.
Nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn
với mụ Tú Bà ở Lâm Tri.



Đề ra: Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25></div>

<!--links-->

×