Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.04 KB, 114 trang )

Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
MỞ ĐẦU
1. Mục đích
Quản lý và kiểm soát chất thải nói chung đang là vấn đề bức xúc hiện nay
không chỉ tại mỗi địa phương mà còn là vấn đề nổi cộm trên cả nước. Các vấn
đề liên quan tới quản lý, thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt là một trong những
vấn đề trọng điểm cần quan tâm hiện nay.
Cùng với cả nước, tỉnh Hà Giang đang từng bước phát triển xây dựng cơ
sở hạ tầng từ thị xã đến các huyện lỵ và nông thôn; phát triển các khu kinh tế
cửa khẩu và khu công nghiệp, các ngành khai thác khoáng sản. Đồng thời các
ngành y tế, thương mại, du lịch, giáo dục, thể dục thể thao…ngày càng được
củng cố và phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ các ngành lại là một
trong những tác nhân chủ yếu gây ô nhiễm và suy thoái môi trường do quá trình
phát triển kinh tế chưa chú ý hoặc tìm cách né tránh chi phí dành cho bảo vệ môi
trường.
Để kịp thời đưa ra những chính sách, biện pháp quản lý và sử dụng tài
nguyên và môi trường một cách hợp lý nhất, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Hà Giang phối hợp với Trung tâm Ứng dụng Công nghệ Tài nguyên và Môi
trường thực hiện báo cáo “Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh
hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang”. Báo cáo được xây dựng với mục tiêu trước
mắt là đưa ra cái nhìn tổng thể, khái quát về hiện trạng chất thải sinh hoạt; thực
trạng công tác thu gom, xử lý chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh và mức độ ảnh
hưởng tới môi trường xung quanh. Đồng thời, đưa ra các biện pháp hạn chế,
giảm thiểu lượng chất thải sinh hoạt phát sinh trên địa bàn tỉnh. Từ đó, đưa ra
giải pháp quy hoạch, xây dựng các bãi chôn lấp phù hợp nhằm tăng hiệu quả thu
gom và quản lý rác thải, đề xuất các dự án xử lý và tái chế rác thải. Đồng thời,
đưa ra một số định hướng chủ yếu trong việc quản lý và xử lý nước thải sinh
hoạt cho các địa phương trên địa bàn tỉnh.
1
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
2. Cơ sở pháp lý để thực hiện dự án


- Hợp đồng số 2903/HĐ-TNMT ngày 29/3/2008 giữa Sở Tài nguyên và môi
trường Hà Giang và Trung tâm Ứng dụng Công nghệ Tài nguyên và Môi
trường.
- Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 29/12/2005.
- Nghị định số 80/NĐCP được chính phủ ban hành ngày 09/08/2006 Về việc
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi
trường.
- Thông tư số 3370/TT-MT ngày 22/12/1995 của Bộ Khoa học Công nghệ và
Môi trường hứơng dẫn tạm thời về khắc phục sự cố môi trường.
- Chỉ thị số 199/TTg ngày 03/04/1997 của Thủ tướng Chính phủ về những
biện pháp cấp bách trong công tác quản lý chất thải rắn ở các đô thị và khu
Công nghiệp.
- Quyết định số 86/1998/QĐ-BNN-BVTV ngày 24/06/1998 của Bộ trưởng Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn về việc cấm sử dụng một số thuốc bảo
vệ thực vật trong nông nghiệp ở Việt Nam.
- Thông tư liên tịch số 1529/1998 ngày 17/10/1998 của Bộ Khoa học công
nghệ và Môi trường và Bộ Xây dựng về việc hướng dẫn đảm bảo môi trường
trong sử dụng amiăng vào sản xuất các sản phẩm, vật liệu và xây dựng.
- Chỉ thị số 29/1998/CT-TTg ngày 25/8/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường công tác quản lý việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và chất hữu
cơ gây ô nhiễm, khó phân huỷ.
- Quy chế quản lý chất thải nguy hại, ban hành kèm theo quyết định số
155/1999 QĐ-TTg ngày 16/7/1999 của Thủ tướng chính phủ.
3. Tổ chức thực hiện
Báo cáo “Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên
địa bàn tỉnh Hà Giang” do Sở Tài Nguyên và Môi trường Hà Giang chủ trì.
Cơ quan tư vấn: Trung tâm Ứng dụng Công Nghệ Tài nguyên và Môi
trường - Công ty Đo đạc ảnh Địa hình.
2
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Các cán bộ tham gia thực hiện:
TT Họ và tên, chức danh Trách nhiệm
1 PGS.TS Lưu Đức Hải
Chủ nhiệm Khoa môi trường - ĐH Khoa học Tự nhiên.
Chuyên gia
cố vấn.
2 PGS.TS Hoàng Xuân Cơ
Phó phòng khoa học - ĐHKHTN
Chuyên gia
cố vấn.
3 CN Tống Khánh Thượng Thành viên
4 CN Trần Nguyễn Trung Thành viên
5 CN Trần Thị Hạnh Trang Thành viên
6 CN Lê Văn Huấn Thành viên
7 CN Phạm Thị Hồng Thành viên
8 CN Trần Hoàng Thanh Thành viên
9 KS Phạm Hoa Cương Thành viên
10 KS Trần Văn Nghĩa Thành viên
11 KS Trịnh Tiến Thành Thành viên
12 KS Nguyễn Thị Tuyết Thành viên
13 KS Vũ Đình Trọng Thành viên
14 KS Hà Phương Tiến Ngữ Thành viên
15 KS Đặng Văn Phong Thành viên
3. Phương pháp thực hiện
*/ Phương pháp kế thừa
Khai thác và kế thừa các kết quả điều tra hiện trạng môi trường hàng năm
của tỉnh, các báo cáo khoa học về hiện trạng môi trường các nhà máy, xí nghiệp
của các viện, các trung tâm nghiên cứu. Thu thập, phân tích các thông tin về
hiện trạng môi trường các ngành. Thu thập số liệu các yếu tố và các nguồn lực
phát triển kinh tế xã hội tác động tới môi trường của tỉnh.

*/ Phương pháp phân tích tổng hợp hệ thống
Sử dụng phương pháp này nhằm đánh giá các thông tin một cách toàn
diện trên cùng một chuẩn mực. Sự đánh giá, so sánh có tính hệ thống và khoa
học nhằm đảm bảo tính hợp lý trong so sánh và đánh giá hiện trạng.
3
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
*/ Phương pháp thống kê, điều tra thực dịa
Các số liệu thống kê và điều tra thực địa sẽ là cơ sở để xây dựng các giải
pháp điều chỉnh lại các quy hoạch chưa phù hợp làm cơ sở dự báo chính xác xu
thế diễn biến môi trường trong tương lai.
*/ Phương pháp chuyên gia
Trên cơ sở các số liệu thu thập được, tập hợp chuyên gia các lĩnh vực
nhằm phân tích đánh giá số liệu, dữ liệu thu thập được góp phần xây dựng kế
hoạch bảo vệ môi trường.
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp
các chuyên viên trong các lĩnh vực có liên quan, đặc biệt là các nhà quản lý môi
trường. Đặc biệt là sự đóng góp của các cố vấn PGS.TS Lưu Đức Hải. Chủ
nhiệm Khoa môi trường - ĐH Khoa học Tự nhiên, PGS.TS Hoàng Xuân Cơ -
Phó phòng khoa học - ĐHKHTN.
4
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
CHƯƠNG I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Hà Giang là một tỉnh miền núi cao nằm ở địa đầu biên giới vùng cực bắc
của tổ quốc. Hà Giang có diện tích tự nhiên là 7.945,79 km², nằm ở toạ độ
22
o
10’ đến 23

o
23’ độ vĩ Bắc và 104
o
20’ đến 105
o
34’ độ kinh Đông. Phía Bắc và
Tây Bắc giáp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa với đường biên giới dài
274km. Phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía
Tây Nam giáp tỉnh Yên Bái và phía Tây giáp tỉnh Lào Cai.
Về tổ chức hành chính, hiện nay tỉnh Hà Giang có 1 thị xã tỉnh lỵ (thị xã
Hà Giang) và 10 huyện với 195 xã, phường, thị trấn. Trên địa bàn tỉnh có 8 cửa
khẩu, trong đó, cửa khẩu Quốc Gia Thanh Thuỷ đang được đầu tư xây dựng
thành Cửa khẩu Quốc tế.
Hà Giang với 90% diện tích là đồi núi và cao nguyên có độ cao tuyệt đối
từ 50m đến 2.418m. Đặc biệt có nhiều dãy núi cao trên 2000m như Ta Kha-
2.274m, Tây Côn Lĩnh - 2.418m. Hệ thống sông suối có độ dốc lớn, nhiều thác
ghềnh.
1.1.2. Địa hình, địa chất, thổ nhưỡng
Địa hình: Do cấu tạo địa hình phức tạp, thiên nhiên tạo ra và ưu đãi cho
Hà Giang một nguồn tiềm năng to lớn về khí hậu, đất đai, tài nguyên và khoáng
sản... Vì thế có thể chia Hà Giang thành ba vùng với những điều kiện tự nhiên,
kinh tế và xã hội khác biệt, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng đó là:
- Vùng I: Là vùng cao núi đá phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc,
Yên Minh và Quản Bạ. Độ cao trung bình từ 1.000 – 1.600 m, gồm nhiều khu
vực núi đá vôi nằm sát với chí tuyến bắc có độ dốc khá lớn, thung lũng và sông
suối bị chia cắt nhiều. Vùng này có vùng trũng Yên Minh, chủ yếu là đồi núi
thấp có độ cao trung bình 500 – 700 m. Diện tích toàn vùng là 2.352,7 km
2
, dân
số trên 20 vạn người chiếm xấp xỉ 34,3% dân số toàn tỉnh. Do điều kiện khí hậu

rét đậm về mùa đông, mát mẻ về mùa hè nên rất thích hợp với việc phát triển
5
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
các loại cây ôn đới như cây dược liệu thảo quả, đỗ trọng; Cây ăn quả như mận,
đào, lê, táo... Cây lương thực chính ở vùng này là cây ngô.
- Vùng II: Là vùng cao núi đất phía tây gồm các huyện Hoàng Su Phì và
Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.211,3 km
2
, dân số chiếm 15,9%. Độ cao trung
bình của vùng từ 900 - 1.000 m, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và sông suối
hẹp. Điều kiện tự nhiên vùng này thích hợp cho việc phát triển cây trẩu và cây
thông lấy nhựa.
- Vùng III: Là vùng núi thấp gồm các huyện: Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc
Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang là vùng trọng điểm kinh tế của Hà Giang.
Diện tích tự nhiên 4.320,3 km
2
, dân số chiếm 49,8%. Độ cao trung bình từ 50 –
100 m. Địa hình ở đây là đồi núi thấp, thung lũng sông Lô càng xuống phía nam
càng được mở rộng. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới,
thuận lợi cho việc phát triển nghề rừng, trồng các loại cây nguyên liệu giấy như
bồ đề, mỡ, thông và đây cũng là vùng tre, nứa, vầu, luồng lớn nhất trong tỉnh ...
Ngoài ra đây còn là vùng trồng các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt...
1.1.3. Khí hậu
Nhiệt độ: Tại Hà Giang đặt 04 trạm quan trắc khí tượng. Theo số liệu
quan trắc năm 2006, nhiệt độ không khí trung bình tại trạm Hà Giang là 23,3
o
C,
trạm Bắc Quang là 23,4
o
C, trạm Bắc Mê là 22,7

o
C, và trạm Hoàng Su Phì là
20,9
o
C. Nhiệt độ cao nhất trong năm đo được tại trạm Bắc Quang là 28,5
o
C vào
tháng 7 và thấp nhất là 15,0
o
C tháng 1 tại trạm Hoàng Su Phì. Chênh lệch nhiệt
độ giữa ngày và đêm khoảng 8
o
C. Giữa mùa đông và mùa hè khoảng 15-20
o
C.
Về mùa đông có lúc nhiệt độ xuống dưới 5
o
C, kèm theo sương muối và mây mù
vùng cao núi đá có băng giá và tuyết.
Độ ẩm: Độ ẩm không khí trung bình thường đạt khoảng 80%. Số liệu
quan trắc năm 2006 cho thấy độ ẩm trung bình tại trạm Hà Giang là 82%, trạm
Bắc Quang là 87%, trạm Hoàng Su Phì là 81%, trạm Bắc Mê là 81%.
Lượng mưa trung bình năm của Hà Giang tại các trạm quan trắc trung
bình trong khoảng từ 1.300 đến 5.000mm (số liệu tổng hợp trung bình nhiều
năm). Năm 2006, lượng mưa giảm hơn so với lượng mưa trung bình nhiều năm.
Tổng lượng mưa tại trạm Hà Giang là 1.475,8mm, lượng mưa tại trạm Bắc
Quang là 4.921,3mm, lượng mưa tại trạm Hoàng Su Phì là 1.326,3mm, tại trạm
Bắc Mê là 1.527,4mm.
6
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Gió: hướng gió chính của Hà Giang là hướng Đông Nam với vận tốc
trung bình là 1-5 m/s. Do vị trí nằm sâu trong lục địa nên Hà Giang chủ yếu
chịu ảnh hưởng gió lốc địa hình, ít bị ảnh hưởng của các đợt bão trong năm.
Điều kiện vi khí hậu của Hà Giang mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa và á nhiệt
đới. Trong những năm gần đây, tình hình thời tiết trên địa bàn tỉnh có diễn biến
bất thường, hạn hán xảy ra nhiều vùng thường xuyên hơn và mùa khô kéo dài
hơn gây nhiều ảnh hưởng xấu đến đời sống sản xuất của nhân dân. Các đợt mưa
tập trung và có cường độ lớn kèm theo gió lốc, mưa đá thường xuyên xảy ra
xuất hiện các đợt lũ ống, lũ quét ngày càng nhiều hơn gây nhiều thiệt hại lớn về
sản xuất, người và tài sản cho nhân dân.
1.1.4. Thuỷ văn
Các sông lớn ở Hà Giang thuộc hệ thống sông Hồng. Ở đây có mật độ
sông suối tương đối dày.Hầu hết các sông có độ nông sâu không đều, dốc, nhiều
ghềnh thác, ít thuận lợi cho giao thông thuỷ. Trên các dòng sông, suối của Hà
Giang có nhiều vị trí thuận lợi để phát triển thuỷ điện nhỏ. Đến nay, trên địa bàn
tỉnh đã xây dựng một số công trình thuỷ điện như: Thuỷ điện Thác Thuý, Nâm
Má, Việt Lâm, Nậm Mu, Thái An và một số công trình thuỷ điện đang chuẩn bị
đầu tư xây dựng.
Hà Giang có trữ lượng nước mặt rất lớn và có chất lượng tốt với những hệ
thống sông chính và nhiều sông, suối nhỏ là nguồn nước chủ yếu phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.
Sông Lô là một sông lớn ở Hà Giang, bắt nguồn từ Lu Lung (Vân Nam,
Trung Quốc), chảy qua biên giới Việt Trung (khu vực Thanh Thuỷ), qua thị xã
Hà Giang, Bắc Quang về Tuyên Quang. Đây là nguồn cung cấp nước chính cho
vùng trung tâm tỉnh.
Sông Chảy bắt nguồn từ sườn Tây Nam đỉnh Tây Côn Lĩnh và sườn Đông
Bắc đỉnh Kiều Kiên Ti, mật độ các dòng nhánh cao. Mặc dù chỉ đoạn đầu nguồn
thuộc địa phận tỉnh, nhưng là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho khu vực phía
tây của Hà Giang
Sông Gâm bắt nguồn từ Nghiêm Sơn, Tây Trù (Trung Quốc) chảy về gần

thị xã Tuyên Quang nhập vào Sông Lô. Đây là nguồn cung cấp nước chính cho
phần đông của tỉnh.
7
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Hà Giang còn có các sông ngắn và nhỏ hơn
như sông Nho Quế, sông Miện, sông Bạc, sông Chừng, nhiều khe suối lớn nhỏ
cung cấp nguồn nước phục vụ cho sản xuất và đời sống dân cư.
1.1.5. Tài nguyên thiên nhiên
 Tài nguyên đất
Theo số liệu thống kê năm 2006, Hà Giang có tổng diện tích đất tự nhiên
là 794.579 ha trong đó: Đất nông nghiệp là 138.123,2 ha (chiếm 17,38%), đất
lâm nghiệp có rừng là 356.756,54 ha (chiếm 44,89%), đất chuyên dùng là
6.929,53 ha (chiếm 0,87%), đất ở là 4.523 ha (chiếm 0,57%), còn lại là đất chưa
sử dụng (chiếm 36,29%).
Quỹ đất có khả năng sử dụng để phát triển nông lâm nghiệp ở tỉnh còn khá
nhiều nhưng diện tích có thể trồng cây lương thực, đặc biệt để trồng lúa, ngô rất
hạn chế. Đất đai rất manh mún, không bằng phẳng và không liền mảnh, khó khăn
cho việc cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá để hình thành các vùng sản xuất tập trung.
Kết quả điều tra thổ nhưỡng năm 1999 của Viện Quy hoạch và thiết kế
Nông nghiệp cho thấy: Toàn tỉnh có 9 nhóm đất chính với 19 đơn vị đất chính
và 60 đơn vị đất phụ. Những tính chất chính của từng nhóm đất là:
Nhóm đất phù sa: Diện tích 12.621 ha, chiếm 1,6% diện tích đất tự nhiên
của tỉnh, gặp ở ven sông Lô và các sông suối khác. Nhóm đất này thích hợp
trồng cây ngắn ngày, đặc biệt là cây lương thực.
Nhóm đất Glây: có diện tích 6.804 ha chiếm 0,86% diện tích đất tự nhiên
của tỉnh. Nhóm đất Glây được hình thành ở nơi có địa hình thấp, luôn giữ ẩm.
Nhóm đất này chủ yếu sử dụng để gieo trồng lúa nước.
Nhóm đất đen: Có diện tích 1.141 ha, chiếm 0,14% diện tích đất tự nhiên
của tỉnh. Đất đen hình thành ở ven chân các dãy núi đá vôi hoặc trong thung lũng
đá vôi. Đất thuộc nhóm này thích hợp trồng cây ngắn ngày: ngô, đậu tương…

Nhóm đất than bùn: Có diện tích 36 ha, gặp ở xã Võ Điến (Bắc Quang),
đất có tính lầy, có thành phần cơ giới nhẹ và trung bình. Ít có ý nghĩa trong
nông nghiệp.
Nhóm đất tích vôi: Có diện tích 1.296 ha chiếm 0,16% diện tích đất tự
nhiên toàn tỉnh. Hình thành ở thung lũng đá vôi. Canxi tích luỹ nhiều trong đất,
thành phần cơ giới của đất nặng. Thích hợp trồng cây ngắn ngày.
8
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Nhóm đất xám: có diện tích 585.418 ha chiếm 74,25% diện tích đất tự
nhiên toàn tỉnh. Đất phù sa cổ, đất xám bạc màu, đất Feralit..đều nằm trong
nhóm này. Đất có phản ứng chua và rất chua. Mùn và đạm tổng số ở lớp mặt
trung bình và khá, nghèo lân và kali. Vùng đất có địa hình thấp thích hợp trồng
cây ngắn ngày, vùng đất có địa hình cao thích hợp trồng cây dài ngày.
Nhóm đất đỏ: Có diện tích 47.623 ha, chiếm 6,04% diện tích tự nhiên của
tỉnh. Đất đỏ được hình thành trên đá Macmabazo và đá vôi. Cần chú ý chống xói
mòn và bảo vệ đất.
Nhóm đất mùn Alít trên núi cao: Có diện tích 4.971ha chiếm 0,63% diện
tích đất tự nhiên của tỉnh, gặp ở độ cao trên 1800m. Loại đất này thích hợp trồng
cây dài ngày.
Nhóm đất tầng mỏng: Có diện tích 237ha, chiếm 0,03% diện tích đất tự
nhiên toàn tỉnh, là sản phẩm của quá trình xói mòn đất, tầng đất mỏng dưới 30cm.
Đây là nhóm đất xấu, phục hồi đất bằng trồng rừng tạo thảm thực vật che phủ đất.
Nhìn chung đất của Hà Giang bị xói mòn rửa trôi mạnh, đất thường xuyên
bị khô hạn, đất chua, rất nghèo dinh dưỡng dễ tiêu, đất bị quá trình Feralit mạnh,
tích luỹ sắt, nhôm lớn. Đất thích hợp với các loại cây rừng, cây công nghiệp chế
biến, cây thuốc, cây lấy dầu xuất khẩu và các loại cây ăn quả như: Cam, quít,
mận, hồng…
 Tài nguyên nước
*/ Nước mặt
Hà Giang có trữ lượng nước mặt lớn, nhưng phân bố không đồng đều cả

về thời gian và không gian. Mùa mưa nước ở thượng nguồn sông Lô, sông Gâm,
sông Chảy…đổ về có thể gây ngập lụt cho các khu vực vùng trũng của tỉnh. Vào
mùa khô tại các địa phương có địa hình cao núi đá như: Quản Bạ, Mèo Vạc,
Đồng Văn, Yên Minh lại thiếu nước trầm trọng cho sinh hoạt của con người và
cung cấp nước tưới cho nông nghiệp
*/ Nước ngầm
Nước ngầm ở Hà Giang có hai dạng tồn tại chủ yếu là nước lỗ hổng và
nước khe nứt.
Nước lỗ hổng: Trong phạm vi tỉnh Hà Giang, tầng chứa nước phân bố trên
diện hẹp theo các thung lũng sông, suối nằm rải rác ở các vùng phía Nam tỉnh,
9
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
có chiều dày trầm tích mỏng (3-5m), thành phần đất đá gồm: cuội, sỏi, cát, sét,
đá tảng…Nước có chất lượng tốt, tổng khoáng hoá M = (0,2 đến 0,4) g/l, độ pH
= 6 tuy vậy trữ lượng nhỏ, chỉ khai thác nhỏ lẻ, không có khả năng khai thác với
lưu lượng lớn.
Nước khe nứt: Tồn tại trong các khe nứt của đất đá cố kết trước Đệ tứ,
phân bố hầu hết trên toàn tỉnh Hà Giang.
Nhìn chung, các tầng giàu nước, gồm có: hệ tầng Bắc Sơn, nước tồn tại
dưới dạng Kaster chứa nước, các nguồn lộ rải rác lưu lượng từ = (0,1-1) l/s, có
nơi từ (6-10) l/s, tổng độ khoáng hoá (0,1 - 0,5) g/l, độ pH từ (6-7).
Hệ tầng Phia Phương: phân bố từ Nam Tùng Bá đến núi Pan, nguồn lộ rải
rác lưu lượng từ (0,1 - 1)l/s. Qua một số khảo sát, thăm dò đã xác định hệ tầng
này khá giàu nước nhưng không đồng nhất.
Hệ tầng Hà Giang: phân bố rộng rãi ở phía Tây nam Hà Giang, trong hệ
tầng này do ảnh hưởng của đứt gãy kiến tạo nên đá vôi nứt nẻ và Kaster phát
triển mạnh. Các nguồn lộ thường có lưu lượng (0,01-0,05)l/s đến trên 10 l/s. Tại
thị xã Hà Giang đã tiến hành thăm dò nước trong tầng này cho thấy kết quả : Q
= (2,03 – 10)l/s, q = (0,12 – 2,35)l/s. Nước có chất lượng tốt, tổng khoáng hoá
M = (0,1 – 0,3) g/l.

Ngoài ra còn có các tầng chứa nước trung bình và các tầng nghèo nước,
với rất nhiều tầng trầm tích tuổi từ Cambri đến Jura bao gồm các trầm tích lục
nguyên và các trầm tích Cacbonat như: Kbh, T
2
yb, T
1
hn, P
2
đđ…, có khả năng
trữ nước kém, không đồng nhất.
 Tài nguyên khoáng sản
Hà Giang có nguồn khoáng sản phong phú, với 28 chủng loại và 148 điểm
mỏ được đánh dấu. Tuy nhiên, do giao thông khó khăn nên thiếu cơ sở lập dự án
khai thác công nghiệp. Có một số loại khoáng sản có thể khai thác sớm để góp
phần vào sự phát triển kinh tế của tỉnh, bao gồm:
Antimon: Có hàm lượng khá và được đánh giá là loại có tiềm năng cao
của các tỉnh phía bắc. Mỏ Antimon tập trung chủ yếu ở Mậu Duệ, Bó Mới (Yên
Minh), có triển vọng cho khai thác, chế biến công nghiệp. Loại này cần được
khảo sát để đánh giá trữ lượng.
10
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Vàng sa khoáng: phân bố ở nhiều nơi, nhưng chủ yếu là huyện: Mèo Vạc,
Bắc Mê, Vị Xuyên, Bắc Quang.
Chì, kẽm: có ở nhiều nơi, nhưng tập trung chủ yếu ở Na Sơn, Tả Pan,
Bằng Lang, Cao Mã Pờ. Đây là tiềm năng quan trọng trong các loại khoáng sản
của tỉnh.
Quặng sắt: Có trữ lượng khá tập trung ở Tùng Bá, Bắc Mê. Loại quặng
này có trữ lượng vào khoảng 260 triệu tấn.
Ngoài ra, ở Hà Giang còn có Mangan, thiếc, Thuỷ Ngân, Pirit, Cao lanh,
đá làm xi măng, cát, sỏi, nước khoáng, đất làm gạc, than non, than bùn.

 Tài nguyên rừng
Do đặc điểm về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, tài nguyên rừng của Hà
Giang tương đối phong phú về chủng loại và được coi là một trong những khu
vực đặc trưng của kiểu vùng nhiệt đới với nhiều sản vật quý hiếm: động vật có
các loài gấu ngựa, sơn dương, voọc bạc má, gà lôi, đại bàng…; các loại gỗ: ngọc
am, pơ mu, lát hoa, lát chun, đinh, nghiến, trò chỉ, thông đá…; các cây dược liệu
như sa nhân, thảo quả, quế, huyền sâm, đỗ trọng…Rừng Hà Giang không những
giữ vai trò bảo vệ môi trường sinh thái đầu nguồn cho vùng đồng bằng Bắc Bộ
mà còn cung cấp những nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất công nghiệp, xây
dựng, y tế.
Hà Giang còn nhiều khu rừng nguyên sinh chưa được khai thác, môi
trường sinh thái trong lành, nhiều hang động và các thắng cảnh đẹp… đây chính
là tiềm lực cho Hà Giang mở rộng phát triển du lịch sinh thái.
Theo số liệu thống kê năm 2006, diện tích đất lâm nghiệp của Hà Giang là
7984,4 ha. Chiếm một diện tích lớn so với tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh.
Do nhiều nguyên nhân, một số khu vực rừng của Hà Giang bị tàn phá, trữ
lượng ngày càng cạn kiệt, việc trồng rừng và tái tạo rừng trong những năm qua
không đủ diện tích bù lại diện tích bị khai thác và chặt phá. Diện tích đất trống,
đồi núi trọc còn nhiều. Rừng có ý nghĩa lớn về kinh tế là cơ sở chuyển đổi cơ
cấu kinh tế vùng theo hướng phát triển ngành theo thế mạnh nghề rừng, tạo ra
hàng hoá chất lượng cao, bảo vệ môi trường sinh thái, khống chế phần nào lũ lụt
và đóng góp tích cực phục vụ an ninh quốc phòng.
11
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
1.2. Đặc điểm kinh tế tỉnh Hà Giang
1.2.1. Khái quát thực trạng phát triển kinh tế
Từng bước khắc phục khó khăn, các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đồng
bào các dân tộc trong tỉnh cùng các ngành đã và đang đẩy mạnh áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chú trọng tạo thêm ngành nghề mới, trong khâu
tiêu thụ sản phẩm, tập trung tạo ra môi trường lành mạnh để hàng hoá giao lưu

thuận lợi giữa các vùng trong tỉnh và giữa các tỉnh với nhau, hàng hoá xuất khẩu
ngày càng đa dạng về chủng loại, giá trị ngày càng nâng cao.
Cùng với xu hướng phát triển chung của vùng Đông Bắc và cả nước,
những năm gần đây nền kinh tế của Hà Giang cũng có bước phát triển khả quan.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2002 – 2006 đạt 10,59%. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng, trong đó: Nông, lâm nghiệp chiếm 41,4% tổng
giá trị nền kinh tế, giảm 8,11% so với năm 2000; Công nghiệp - xây dựng chiếm
23,5%, tăng 2,66%; Thương mại - dịch vụ chiếm 35,1%, tăng 5,45%. Tỷ suất
hàng hoá ngày càng lớn, một số sản phẩm (cả truyền thống và mới) đã nâng dần
sức cạnh tranh và có thị phần ổn định cả thị trường nội địa và xuất khẩu; hạ tầng
kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng khá; sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và các hoạt động dịch vụ; vận tải, thông tin, điện, nước, tín dụng,…có
bước phát triển. Thu ngân sách và huy động vốn đầu tư phát triển tăng, kể cả
đầu tư từ ngân sách nhà nước và của các thành phần kinh tế; đời sống nhân dân
được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người đạt 3,2 triệu đồng, tăng 1,9 lần so
với năm 2000.
Bảng 1.2.1. GDP theo khu vực kinh tế thời kỳ 2002 - 2006 (giá so sánh năm 1994)
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
Tổng GDP 1.042.028 1.152.294 1.268.676 1.404.460 1.560.636
Nông - lâm - nghiệp,
thuỷ sản
520.730 548.725 584.924 619.137 653.575
Công nghiệp - xây
dung
218.173 253.388 271.125 294.948 329.019
Dịch vụ 303.125 350.181 412.627 490.339 578.042
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang
12
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang

1.2.2. Thực trạng phát triển các khu vực kinh tế
 Khu vực kinh tế nông nghiệp
Năm 2006 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 1.129.285 tỷ
đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2002 - 2006 đạt 5,78%/năm, cao gấp
1,48 lần tốc độ tăng của ngành nông, lâm nghiệp cả nước (trung bình cả nước là
3,9%/năm).
 Ngành sản xuất nông nghiệp
Năm 2006 giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 889,45 tỷ đồng (giá so sánh năm
1994). Cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng có bước chuyển biến tích cực
theo hướng sản xuất hàng hóa, tỷ trọng trồng trọt giảm dần từ 46,71% năm 2002
xuống còn 40,86 % năm 2006.
- Trồng trọt: Diện tích trồng cây hàng năm tăng 21% so với năm 2000.
Giảm diện tích trồng ngô năng suất thấp, tăng diện tích thâm canh, mở rộng diện
tích và đưa vào gieo trồng một số cây có hiệu quả kinh tế cao như: gieo trồng
lúa chất lượng cao; trồng hoa, rau ở Đồng Văn, Quản Bạ; tăng diện tích trồng
đậu tương, lạc, tiếp tục trồng cỏ ở các huyện vùng cao…
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 2006 đạt 127.003,7 ha, tăng
2.956,6 ha so với năm 2005, trong đó: Cây lương thực có hạt 79.173 ha; cây
công nghiệp hàng năm 21.146,8 ha, tăng 777,7 ha so với năm 2005.
Diện tích lúa gieo cấy năm 2006 đạt 34.397,5 ha, tăng 433,7 ha so với
năm 2005, năng suất lúa đạt 45,4 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha. Diện tích ngô 43.269,8
ha; diện tích ngô thâm canh chiếm 70,6%, năng suất ngô đạt 20,9 tạ/ha. Tổng
sản lượng lương thực đạt 274.202 tấn, trong đó sản lượng thóc 158.205 tấn, tăng
3,4 ngàn tấn; ngô 90.689 tấn, khoai lang 5.955,8 tấn; sắn 19.351,9 tấn.
Các loại cây rau, màu và cây công nghiệp ngắn ngày được chú trọng đầu
tư mở rộng diện tích, trong đó: Đậu tương gieo trồng 15.893,6 ha, tăng 182 ha,
năng suất đạt 8,9 tạ/ha; cây lạc 4.286,7 ha, tăng 565,5 ha so với năm 2005, năng
suất đạt 11,6 tạ/ha.
Cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm tiếp tục phát triển mạnh. Diện
tích chè trồng mới đạt 165,6 ha, tổng diện tích chè hiện có 15.183,6 ha, trong đó

diện tích cho sản phẩm 12.589,1 ha, tăng 1.784 ha. Tổng diện tích cam quýt toàn
tỉnh đến 2006 là 4.078,4 ha, giảm 545,4 ha.
13
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Trồng cỏ thức ăn gia súc 1.917,8 ha, diện tích cỏ đã trồng từ năm 2003
đến nay đạt 3.223 ha; chương trình trồng cỏ chăn nuôi đã đạt được kết quả đáng
kể và đem lại hiệu quả thiết thực, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tham gia
tích cực, góp phần phát triển đàn gia súc, nâng cao đời sống của đồng bào ở các
huyện vùng cao.
Chăn nuôi: theo số liệu thống kê năm 2006 toàn tỉnh có đàn trâu 141.051
con, đàn bò 80.167 con; đàn dê 141.730 con, tăng 32.270 con so với năm 2005;
đàn lợn 336.943 con, tăng 7.811 con so với năm 2005; 8.249 con ngựa, giảm
4.616 con.
 Ngành lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới và khoanh nuôi trong 5 năm đạt 30.147 ha rừng.
Độ che phủ của rừng đạt 43%, tăng 6% so với năm 2000. Riêng diện tích rừng
trồng được 7.033 ha, trong đó: Rừng phòng hộ đặc dụng 3.610,8 ha, hỗ trợ nhân
dân giống trồng sa mộc được 3.422,4 ha. Công tác khoanh nuôi, bảo vệ, chăm
sóc rừng đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo thời vụ và kế hoạch giao; bảo vệ rừng
84.876 ha, khoanh nuôi phục hồi 33.059 ha, chăm sóc rừng trồng 17.176,9 ha.
Năm 2006 tổng giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp đạt 160,531 tỷ đồng
(giá so sánh năm 1994), tăng 6,64 tỷ đồng so với năm 2005.
 Ngành thuỷ sản
Năm 2006, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản trên toàn tỉnh đạt
1.275,26 ha, giá trị sản xuất ngành thủy sản đạt 19,04 tỷ đồng (giá hiện hành năm
2006).
 Khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng
- Công nghiệp: Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển cả về
số lượng, quy mô và trình độ công nghệ, hình thành được cơ sở vật chất kỹ thuật
quan trọng, xây dựng được các mô hình phát triển công nghiệp thuỷ điện, khai

thác và chế biến khoáng sản, chế biến lâm sản như: Nhà máy thuỷ điện Nậm
Mu; nhà máy khai thác, tuyển, luyện ăngtimon kim loại; nhà máy Caolin,
Penspát; phân xưởng nghiền Clinke; các cơ sở sản xuất giấy và bột giấy: Long
Giang, Vĩnh Tuy, Cầu Ham, Ngòi Sảo; nhà máy sản xuất và lắp ráp ô tô
TRAEMC, Trường Thanh; nhà máy gạch Tuynel ở huyện Vị Xuyên, huyện Yên
Minh và nhiều cơ sở khác ở Bắc Quang, Vị Xuyên, Quang Bình, Bắc Mê,... Sản
14
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
xuất hàng mây, tre đan v.v. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2006 đạt
318,87 tỷ đồng (giá so sánh 1994).
Trong đó, nhóm ngành sản xuất điện, nước và chế biến chè tăng khá so với
năm trước, sản lượng điện sản xuất tăng 26,5%, nước máy tăng 24,5%, chè chế
biến tăng 33,7%.
- Xây dựng: Công tác quy hoạch và xây dựng đô thị đã được chú trọng, nhất
là trung tâm các huyện, các thị tứ, thị trấn,...Kết cấu hạ tầng được đầu tư lớn, có
bước phát triển mới. Giá trị sản xuất xây dựng năm 2006 theo giá so sánh 1994
đạt 688,09 tỷ đồng.
 Khu vực kinh tế dịch vụ
Hoạt động dịch vụ ở Hà Giang thời gian qua phát triển khá phong phú và
đa dạng, thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Đặc biệt một số
ngành như dịch vụ - thương mại, du lịch, tài chính ngân hàng, bảo hiểm… có tốc
độ phát triển nhanh.
- Thương mại: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ thị trường xã hội
tăng bình quân hàng năm từ 25% trở lên, năm 2006 đạt 1.090,2 tỷ đồng; giá trị
sản xuất của ngành thương mại, dịch vụ và khách sạn nhà hàng trong năm 2006
của toàn tỉnh đạt 173,62 tỷ đồng (giá so sánh 1994); giá trị xuất khẩu hàng hoá
trên địa bàn đạt 4,348 triệu USD; giá trị nhập khẩu đạt 4,976 triệu USD. Hệ
thống chợ nông thôn, chợ đại gia súc, chợ biên giới được mở rộng.
- Du lịch: Trong năm qua đã thu hút trên 20.000 lượt khách nước ngoài và
trên 23.000 lượt khách nội địa vào Hà Giang, doanh thu du lịch đạt 85,5 tỷ đồng.

- Vận tải: Hoạt động vận tải đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh
và đi lại của nhân dân, Quốc lộ 2 đã nâng cấp cải tạo xong, nhu cầu vận chuyển
hàng hoá của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh qua cửa khẩu Thanh Thuỷ
tăng hơn so các năm trước. Khối lượng hàng hoá vận chuyển ước đạt 566 ngàn
tấn, tăng 10,5%; vận chuyển được 579,8 ngàn lượt hành khách, tăng 10,59% so
năm 2005.
- Bưu chính viễn thông: Tăng cường đầu tư củng cố nâng cao chất lượng
và năng lực mạng lưới, trong năm đã hoàn thành đưa vào sử dụng tuyến truyền
dẫn cáp quang Tân Quang - Hoàng Su Phì, tiếp tục thi công tuyến Hà Giang -
Mèo Vạc; nâng cấp mở rộng hệ thống chuyển mạch Bưu điện tỉnh; xây dựng 6
15
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
cột Anten Xín Mần, Mèo Vạc, Quản Bạ, Đồng Văn, Yên Minh, Bắc Quang; nhà
đặt tổng đài huyện Đồng Văn…đến nay trung tâm 11 huyện, thị đã được phủ
sóng điện thoại di động. Doanh thu năm 2006 của ngành bưu chính viễn thông
tỉnh đạt 92,15 tỷ đồng; toàn tỉnh hiện có 40.599 máy điện thoại, tăng 8450 máy
so với năm 2005; 195 xã phường được trang bị điện thoại.
1.3. Dân số, đời sống xã hội
Hà Giang có 10 huyện và 1 thị xã với 195 xã, phường, thị trấn. Năm 2008,
toàn tỉnh có 690.000 người. Mật độ dân số vào loại thưa, bình quân toàn tỉnh
hiện nay là 83,8 người/km
2
. Đặc điểm đáng chú ý là dân số của tỉnh phân bố
không đồng đều, vùng đông dân cư như Thị xã Hà Giang là 335người/km
2
nhưng vùng núi cao như Quản Bạ thì mật độ dân số là 78 người/km
2
, thậm chí
có huyện như Bắc Mê chỉ có 51 người/km
2

. Như vậy, vùng đông dân cư có mật
độ cao gấp 6-7 lần vùng ít dân cư. Đây là một trở ngại cho việc đồng đều hoá
mức sống giữa các khu vực.
Lao động: Toàn tỉnh có 312.855 lao động, lao động khối nông lâm nghiệp
là chủ yếu, chiếm 93,17% lao động toàn tỉnh, lao động dịch vụ chiếm 5,41%, lao
động công nghiệp chiếm 1,42%. Hiện nay, Hà Giang còn 4-5 vạn lao động chưa
có việc làm, dự kiến đến năm 2010 Hà Giang có khoảng 36-37 vạn lao động.
Như vậy, tỉnh phải tạo việc làm cho khoảng 15 vạn lao động trong những năm
tới, đây là sức ép lớn trong công cuộc xây dựng kinh tế của tỉnh.
Thu nhập và đời sống: của đồng bào các dân tộc trong Tỉnh còn gặp nhiều
khó khăn, tỉnh có 10 huyện thì có tới 4 huyện thuộc các huyện đặc biệt khó
khăn. Trong tổng điều tra trước đây thì thu nhập bình quân chung của các hộ ở
nông thôn chỉ bằng 43% thành thị. Tăng trưởng GDP đạt tốc độ tăng trưởng cao,
giai đoạn 2001-2005 đạt bình quân 10,3%/năm, thu nhập bình quân đầu người
năm 2006 khoảng 3,5 triệu đồng/năm, hệ thống điện- đường - trường - trạm
được tập trung đầu tư đáp ứng nhu cầu của người dân. Phấn đấu đến năm 2010
sẽ giảm tỷ lệ nghèo từ 26% xuống còn 15%.
1.3.1. Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn
Toàn tỉnh Hà Giang có 11 đơn vị hành chính bao gồm 1 thị xã và 10
huyện với tổng số 195 xã, phường thị trấn với 5 phường nội thị của thị xã Hà
Giang, 9 thị trấn (trong đó có 7 thị trấn huyện, lỵ) và 181 xã. Dân cư phân bố
16
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
không đồng đều giữa các đơn vị hành chính cấp huyện và tập trung với mật độ
cao ở thị xã Hà Giang.
1.3.1.1. Thực trạng phát triển đô thị
Mạng lưới đô thị của tỉnh Hà Giang hiện nay phân bố theo dạng chuỗi
trên hai trục không gian chính là trục Bắc – Nam và trục Đông – Tây. Trục
không gian đô thị Bắc – Nam nằm dọc theo quốc lộ 2 bao gồm các đô thị như thị
trấn Vĩnh Tuy, Việt Quang (Bắc Quang), Việt Lâm, Vị Xuyên và thị xã Hà

Giang. Thị trấn Mèo Vạc (Mèo Vạc), Phó Bảng (Đồng Văn), Tam Sơn (Quản
Bạ) và thị trấn Yên Minh (Yên Minh) là các thị trấn miền núi phân bố trên trục
không gian đô thị Đông – Tây dọc theo quốc lộ 4C thuộc vùng cao núi đá của
tỉnh. Các đô thị phát triển mạnh trong tỉnh tập trung theo chuỗi bám dọc theo
trục Quốc lộ 2 từ Bắc Quang lên cửa khẩu Thanh Thuỷ.
Dân số trung bình của tỉnh Hà Giang năm 2006 là 690.194 người, dân số
đô thị là 75.032 người, tỷ lệ đô thị hoá của Hà Giang hiện nay là 11,03% thấp
hơn so với bình quân toàn quốc (25%) do tốc độ đô thị hoá diễn biến chậm.
Hà Giang có 1 đô thị cấp tỉnh là thị xã Hà Giang có quy mô dân số khu
vực nội thị 28.960 người, tổng diện tích tự nhiên 17.123 ha, trong đó quy mô đất
xây dựng đô thị khoảng 450ha; là đô thị loại IV và là trung tâm tỉnh lỵ của Hà
Giang.
Các đô thị cấp huyện phân bố cơ bản dọc theo 3 trục chính: Trục trung
tâm từ phía Nam lên phía Bắc tỉnh dọc theo Quốc lộ 2 bao gồm các thị trấn Vĩnh
Tuy, Việt Quang, Việt Lâm, Vị Xuyên; trong đó thị trấn Việt Quang đang được
đầu tư xây dựng quy hoạch đạt tiêu chuẩn thị xã trong thời gian tới. Khu vực
phía Đông của tỉnh gồm thị trấn Tam Sơn, Yên Minh, Phó Bảng, Mèo Vạc bám
dọc theo Quốc lộ 4C. Khu vực phía Tây tỉnh gồm Yên Bình nằm trên quốc lộ
279 và thị trấn Vinh Quang trên tỉnh lộ 177.
1.3.1.2. Thực trạng phát triển dân cư nông thôn
Hà Giang là tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam dân cư chủ yếu là nông
thôn, toàn tỉnh có 181 xã, hàng nghìn bản làng với tổng dân số nông thôn là
575.520 người. Hệ thống dân cư nông thôn của Hà Giang phân bố không đồng
đều, mật độ dân số dao động từ 51 người/km
2
(huyện Bắc Mê) đến 335
người/km
2
(tại thị xã Hà Giang). Các điểm dân cư của tỉnh được sắp xếp thành
các hình thái có các đặc điểm cơ bản sau:

17
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Dân cư vùng biên: Toàn tỉnh Hà Giang có 34 xã vùng biên thuộc địa bàn
của 7 huyện có chiều dài đường biên là 274 km, có tổng diện tích tự nhiên
khoảng 1.185,14 km
2
và khoảng 85.109 người với 20 dân tộc anh em sinh sống,
ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp. Trong vùng có 8 cửa khẩu quan trọng giao
lưu với Trung Quốc. Vì vậy đây là vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.
Dân cư nông thôn ngoài vùng biên: Hệ thống dân cư nông thôn phân thành
các dạng chủ yếu sau:
Dân cư nông nghiệp ở các làng xã, hoạt động sản xuất lúa màu, phần lớn
tập trung ở các huyện vùng thấp như Bắc Quang, Quang Bình, Bắc Mê. Khu vực
này mật độ dân cư nông thôn tập trung cao nhất toàn tỉnh. Các trung tâm cụm
xã, trung tâm xã phân bố tập trung các trục lộ chính như Quốc lộ 2, Quốc lộ
279…
Dân cư nông, lâm nghiệp thuộc các nông trường khai thác các loại cây
công nghiệp, trồng và quản lý rừng mới được hình thành và phát triển.
Dân cư sống rải rác, không tập trung, chủ yếu canh tác lúa, ngô và trồng màu tại
các huyện vùng cao như Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ, Yên Minh, Hoàng Su
Phì và Xín Mần. Các điểm dân cư nông thôn miền núi nhìn chung đời sống còn
thấp, điều kiện hạ tầng xã hội và kỹ thuật chưa phát triển. Việc xây dựng phát
triển còn chậm và mang tính tự phát, chưa có sự quản lý.
1.3.2. Văn hoá dân tộc và lễ hội truyền thống
Hà Giang có 22 dân tộc anh em như: Mông, Dao, Nùng, Tày, Lô Lô,
Giáy, PU Péo, Cờ Lao, Kinh…với các nhóm ngôn ngữ khác nhau: Tày - Thái,
Mông - Dao, Việt - Mường, Hoa, Tạng - Miến… mỗi dân tộc đều có nét văn hoá
đặc trưng riêng.
Lễ mừng nhà mới dân tộc Lô Lô: Lễ mừng nhà mới kéo dài khoảng 2

ngày 2 đêm ở ngôi nhà mới của người dân tộc Lô Lô. Cả bản kéo tới ăn mừng
cho ngôi nhà mới. Thầy cúng đi hát, sau đó cùng ăn uống vui chơi, hòa tấu kèn
sáo và hát giao duyên nam nữ.
Lễ hội mùa xuân: Đây là lễ hội vui xuân của dân tộc H'mông và dân tộc
Dao, thường được tổ chức vào những ngày sau Tết Nguyên Đán và kéo dài từ 3
18
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
đến 7 ngày. Lễ hội mang tính chất tổng hợp mừng công, cầu mưa, cầu con trai.
Lễ hội có thi bắn nỏ, hát giao duyên, ném pa páo, uống rượu, mở tiệc đãi khách.
Hà Giang có 22 dân tộc. Mỗi dân tộc có một nếp sinh hoạt và tập tục lễ
hội riêng thường tập trung vào mùa xuân. Trong đó “Chợ tình Khâu Vai” tổ
chức ngày 27 tháng 3 âm lịch hàng năm là lễ hội độc đáo và đặc sắc nhất.
19
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN VỀ ĐẶC ĐIỂM TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TỈNH HÀ GIANG
2.1. Đánh giá chung về tài nguyên thiên nhiên
*/ Những lợi thế tài nguyên thiên nhiên
Đất đai của Hà Giang còn rộng, khí hậu và thổ nhưỡng cho phép tỉnh có
thể phát triển kinh tế trang trại, vườn đồi, chăn nuôi gia súc…
Nguồn tài nguyên khoáng sản tuy trữ lượng chưa lớn, chưa được hình
thành cụ thể song khá phong phú và đa dạng nên triển vọng phát triển công
nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng trong tương lai là rất lớn.
Điều kiện phát triển du lịch thuận lợi do có nhiều danh lam thắng cảnh,
các di tích lịch sử Cách mạng, hang động kỳ thú, các mỏ suối nước khoáng
nóng….có thể kết hợp với các tỉnh bạn để phát triển du lịch tổng hợp.
Đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang có truyền thống Cách mạng: một bộ
phận dân cư có trình độ, tập quán, kinh nghiệm sản xuất, sử dụng đất đai quý
báu, thích hợp với điều kiện vùng núi, nhạy bén và năng động trong tổ chức sản

xuất kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá một cách tích cực và bền vững.
*/ Khó khăn, hạn chế
Địa hình phức tạp, chia cắt mạnh, độ dốc lớn đã ảnh hưởng lớn đến khả
năng khai thác đất nông nghiệp ở quy mô tập trung, đến phát triển giao thông,
thuỷ lợi, xây dựng các công trình kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Để phát triển tỉnh
phải có đầu tư đáng kể cả công sức và tiền của.
Tài nguyên đất và nguồn nước của tỉnh không thuận lợi cho phát triển đặc
biệt là với vùng cao và vùng sản xuất cây lương thực.
Một số nguồn tài nguyên chưa được đánh giá, khảo sát đầy đủ đã hạn chế
phần nào khả năng khai thác và sử dụng trên địa bàn tỉnh.
20
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Trên địa bàn tỉnh có cửa khẩu Thanh Thuỷ khá lớn song so với các cửa
khẩu Móng Cái (Quảng Ninh), Hữu Nghị (Lạng Sơn), Lào Cai (Lào Cai)…thì vị
thế và khả năng khai thác vẫn còn hạn chế.
2.2. Đánh giá chung về hiện trạng môi trường Hà Giang
*/ Môi trường công nghiệp
Với đặc thù là nền công nghiệp chưa phát triển nhưng vốn những nhà máy
xí nghiệp đang hoạt động, tình trạng ô nhiễm môi trường đã diễn ra cục bộ.
Theo quy hoạch đến năm 2010 giá trị sản lượng công nghiệp - xây dựng trong
cơ cấu GDP là 37,5%, mức độ phát thải của các nhà máy xí nghiệp sẽ rất lớn.
Việc quy hoạch chi tiết các vùng phát triển và ngành công nghiệp thân thiện với
môi trường, đồng thời đề ra các giải pháp bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết.
Đến nay, các hoạt động khoáng sản trên địa bàn Hà Giang đã tuân thủ
nghiêm theo quy định của Luật Khoáng sản và các văn bản hướng dẫn. Công tác
quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản căn cứ vào các quy định để hướng
dẫn cho các tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động khoáng sản.
Với các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ hiện tại có công nghệ lạc hậu nằm xen kẽ
với khu dân cư là nguồn gây ô nhiễm và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của

nhân dân. Đây đang và sẽ là những thách thức trong công tác bảo vệ môi trường
trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
*/ Suy thoái môi trường đất
Với đặc thù là miền núi, địa hình chia cắt mạnh nên hiện tượng suy thoái
đất do xói mòn, bạc màu diễn ra trên địa bàn toàn tỉnh. Trong một thời gian dài
rừng bị tàn phá, địa hình chủ yếu là đồi núi, nhân dân canh tác nương rẫy trên
đất dốc, các biện pháp canh tác không hợp lý nên vào mùa mưa đất bị rửa trôi
làm trơ sỏi đá và gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện nay do chưa có điều kiện nên
việc đánh giá và lập bản đồ về hiện trạng suy thoái đất chưa được thực hiện để
đánh giá chính xác mức độ suy thoái đất trên địa bàn toàn tỉnh nhưng với số liệu
thống kê đến cuối năm 2002, toàn tỉnh có 1.367,1 ha đất bạc màu, 62.565 ha đất
bị hoang mạc hoá, 48.484 ha đất trồng trọt bị thoái hoá và xói mòn nặng.
*/ Môi trường khu vực nông thôn
21
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Trong khu vực nông thôn, nguồn nước sạch cho sinh hoạt và nước phục
vụ sản xuất rất khan hiếm, nhất là vào mùa khô ở các vùng cao. Rừng đã bị tàn
phá dẫn đến khả năng giữ nước và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân không
đảm bảo. Phân tích chất lượng nước mặt cho thấy nước bị ô nhiễm các chỉ tiêu
BOD
5
và thành phần vi sinh E-Coli. Điều kiện vệ sinh môi trường hàng ngày
của nhân dân còn nhiều bất cập, nhà vệ sinh nhiều nơi chưa có hoặc tạm bợ gây
ô nhiễm môi trường. Gia súc gia cầm nuôi thả rông làm ảnh hưởng đến nguồn
nước mặt dùng cho sinh hoạt, các công trình chuồng trại chưa được bố trí hợp
lý… Bên cạnh đó, một số tập tục vệ sinh lạc hậu vẫn còn tồn tại.
*/ Môi trường khu vực đô thị
Tại thị xã Hà Giang và các huyện còn lại, công tác vệ sinh môi trường đã
bước đầu được chú trọng nhưng vẫn chưa đi vào nền nếp. Một phần do trình độ
dân trí chưa cao, lại do đặc thù các tỉnh miền núi với nhiều dân tộc và nhiều nền

văn hoá sinh sống nên ý thức bảo vệ môi trường của người dân còn hạn chế. Rác
vẫn bị đổ ra sông, suối…nơi công cộng ở nhiều khu vực. Bên cạnh đó, lượng rác
thải phát sinh ngày càng lớn nhưng số lượng nhân công trực tiếp cũng như cán
bộ quản lý môi trường còn thiếu. Trang thiết bị hỗ trợ thu gom rác còn ít và lạc
hậu dẫn đến tình trạng rác thải và chất thải khác vẫn chưa được thu gom và xử lý
triệt để (kể cả ở trung tâm các huyện), gây mất mỹ quan và ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
2.3. Hiện trạng môi trường không khí tỉnh Hà Giang
*/ Các nguồn khí thải chính trên địa bàn tỉnh Hà Giang bao gồm:
- Khí thải của công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, bao gồm: sản xuất
xi măng, sản xuất gạch nung, khai thác đá xây dựng. Các loại hình sản xuất này
phát thải các loại khí thải như: SO
2
, NO
2
, CO, CO
2
, VOC và bụi.
- Khí thải công nghiệp sản xuất giấy, phát thải các loại khí thải như:
metacaptan, Cl
2
, SO
2
, NO
2
, CO, CO
2
, VOC và bụi.
- Khí thải công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, phát thải các loại
khí thải như: SO

2
, NO
2
, CO, CO
2
, VOC, O
3
và bụi.
22
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
- Khí thải các ngành xây dựng chủ yếu là các loại khí thải từ động cơ máy
móc xây dựng như: SO
2
, NO
2
, CO, CO
2
, VOC, O
3
và bụi.
- Khí thải các ngành giao thông vận tải, bao gồm SO
2
, NO
2
, CO, CO
2
,
VOC, O
3
và bụi.

Theo kết quả đo đạc, phân tích chất lượng môi trường không khí tỉnh Hà
Giang trong năm 2007 của Công ty cổ phần kỹ thuật và phân tích môi trường đã
đưa ra cái nhìn tổng thể về chất lượng môi trường không khí tại Hà Giang như
sau:
Tại các khu vực huyện, thị: hầu hết các vị trí quan trắc, các thông số quan
trắc đều nằm trong khoảng cho phép theo tiêu chuẩn TCVN 5937-2005 và
TCVN 5938 - 2005. Tại trung tâm thị xã Hà Giang, huyện Vị Xuyên, Bắc
Quang là những nơi tập trung đông dân cư và các cơ sở sản xuất, tuy nhiên,
nồng độ các khí độc hại không cao, nồng độ bụi ở nhiều nơi bị ảnh hưởng của
các phương tiện giao thông và công nghiệp lớn hơn tiêu chuẩn cho phép nhưng
không nhiều. Tại khu vực bến xe tạm thị xã Hà Giang, hàm lượng bụi cao hơn
tiêu chuẩn cho phép từ 1.1 đến 1.2 lần. Tại khu vực cửa khẩu Thanh Thuỷ và
cổng nhà máy gạch Tuynel Vị Xuyên, kết quả cho thấy hàm lượng bụi và nồng
độ khí NO
2
đều vượt tiêu chuẩn cho phép (theo TCVN 5937-2005), tuy nhiên,
cao hơn không đáng kể.
Tại các khu vực nông thôn: tất cả các vị trí đo đều có chất lượng môi
trường không khí đạt tiêu chuẩn cho phép theo TCVN 5937-2008 và TCVN
5938-2005.
Trên địa bàn tỉnh Hà Giang, ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tập trung ở
những khu vực đông dân cư, cạnh các nhà máy, xí nghiệp. Đối với ô nhiễm
không khí và tiếng ồn gây ra bởi các phương tiện giao thông là điều không thể
tránh khỏi trong quá trình đô thị hoá. Tại tỉnh Hà Giang, mức độ ảnh hưởng bởi
độ ồn là không lớn, hiện tại mới chỉ diễn ra trong những giờ cao điểm.
Đối với ô nhiễm do công nghiệp gây ra, điều kiện thời tiết có ảnh hưởng
lớn đến những tác động của ô nhiễm không khí đến đời sống nhân dân. Một
trong những ảnh hưởng có thể nhận thấy rõ nhất là ảnh hưởng của khí thải nhà
23
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang

máy Xi măng Hà Giang đối với dân cư quanh khu vực nhà máy tại thị xã Hà
Giang. Nhà máy được xây dựng giữa những dãy núi cao, ống khói nhà máy
không đủ cao, cộng thêm khí thải nhà máy không được xử lý triệt để và thải
thẳng ra. Để khắc phục tình trạng này, nhà máy hiện đang tiến hành chuyển
giao, đổi mới công nghệ sản xuất theo với phương án đầu tư dây chuyền sản
xuất xi măng lò quay công suất 500.000 tấn/năm nhưng dự kiến đến năm 2010
mới hoàn thành. Hiện tại, khói thải nhà máy vẫn gây ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống của dân cư xung quanh. Khi nhà máy Xi-măng Hà Giang hoạt động trong
điều kiện thời tiết bình thường, thì lượng bụi cùng khí CO
2
, CO, SO
2
,VOC sẽ
thải ra môi trường ở con số trên 90 mg/m
3
khí thải. Nếu hôm nào thời tiết xấu,
lại có gió, lượng khí thải và bụi sẽ tập trung vào từng khu vực sẽ làm cho nồng
độ tăng cao, có điểm trong quá trình đo đạt tới trên 120 mg/m
3
khí thải.
Những cơ sở sản xuất nhỏ nằm xen kẽ trong khu vực dân cư có công
nghệ sản xuất còn đơn giản, không có các biện pháp bảo vệ môi trường trong
quá trình sản xuất nên có ảnh hưởng cục bộ đến đời sống của những hộ dân
trong khu vực. Đối với những lò gạch, lò vôi thủ công nằm trong khu dân cư tự
phát xây dựng có ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ và sản xuất của người dân nhưng
khó có biện pháp giải quyết.
2.4. Hiện trạng môi trường nước tỉnh Hà Giang
2.4.1. Nước mặt:
Các mẫu nước mặt do Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường đã phân
tích cho thấy hầu hết các mẫu đều có hàm lượng các chất ô nhiễm nằm trong

tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên tại một số điểm cá biệt có hiện tượng ô nhiễm
bởi vài chỉ tiêu đặc trưng:
+ Nước Sông Lô gần cửa khẩu Thanh Thuỷ có hàm lượng TSS, COD cao
hơn tiêu chuẩn TCVN 5942-1995 cho phép.
+ Nước suối Đỏ và nước sông Chảy tại cầu Cốc Pài -Xín Mần có các chỉ
tiêu TSS, COD, BOD
5
, Zn, Pb cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
+ Nước suối (sau khi đã nhận nước thải của các nhà máy sản xuất giấy)
đều có hàm lượng TSS, pH, COD cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên nước
24
Điều tra, phân tích, đánh giá tình hình chất thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang
suối sau nhà máy giấy Thuỳ Linh có chất lượng tốt hơn do tại thời điểm lấy mẫu
nhà máy đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải.
+ Nước suối (nhận nước thải từ phòng cháy chữa cháy, bệnh viện, bãi rác)
có COD và BOD
5
cao hơn so với tiêu chuẩn TCVN 5942-1995.
2.4.2. Nước ngầm
Theo số liệu quan trắc của Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường trong
03 đợt, đợt I (tháng 9/2006), đợt II (tháng 12/2006) và đợt III (tháng 4/2007). Có
thể kết luận chất lượng nước ngầm trên địa bàn tỉnh Hà Giang như sau:
Đối với nước tại các giếng khoan: Hàm lượng các kim loại nặng, NO
2
-
,
NO
3
-
, xyanua, clorua, độ cứng và coliform đều đạt tiêu chuẩn theo TCVN

5944-1995. Tuy nhiên nước ngầm khu vực thị xã Hà Giang đã bị nhiễm NH
4
+
với hàm lượng tương đối cao từ 7 đến 10 mg/l, trong khi tiêu chuẩn của Bộ y tế
ban hành thì hàm lượng Amoni trong nước sử dụng cho ăn uống là 1,5 mg/l.
Như vậy, các nguồn nước này cần phải được xử lý trước khi dùng cho ăn uống
để đạt tiêu chuẩn nước dùng cho mục đích ăn uống do bộ Y tế quy định (theo
TC 1329/BYT-QĐ/2002).
Đối với nguồn nước tại các giếng đào: hầu hết các thông số đều đạt tiêu
chuẩn nước ngầm và tiêu chuẩn nước ăn uống, riêng thông số coliform ở các
mẫu nước giếng đào không đạt tiêu chuẩn cho phép.
25

×