Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Ve day hoc Su dia phuong Lich su Dak Lak

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.12 KB, 74 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NỘI DUNG TÀI LIỆU:</b>


<b>I.</b> <b>VIỆC DẠY HỌC SỬ ĐỊA PHƯƠNG (THCS, THPT).</b>
<b>II.</b> <b> VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 7 (chương trình mới).</b>
<b>III.</b> <b>THIẾT KẾ BÀI HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG.</b>


<b>IV.</b> <b>LỊCH SỬ ĐẮK LẮK. CÁC DANH NHÂN, ĐỊA DANH, DI TÍCH.</b>
Nguồn: Đồng nghiệp.


Thời gian: 2004.
Sưu tầm và biên tập:


<b>VĂN BẢN 1.</b>


<b>A. PHẦN MỞ ĐẦU</b>
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
<b>1. Cơ sở lý luận: </b>


<i>a.</i> <i><b>Chủ trương đổi mới của Đảng và nhà nước ta đối với sự nghiệp Giáo</b></i>
<i><b>dục và Đào tạo:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>b.</i> <i><b>Chủ trương của đảng và nhà nước trong việc gìn giữ và phát huy vốn</b></i>
<i><b>văn hoá truyền thống và bản sắc dân tộc.</b></i>


Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, trong nghị quyết của mình, Đảng ta
chỉ ra rằng cần thiết phải xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc theo định hướng XHCN. Tiếp đó, đại hội lần thứ VIII của Đảng cũng đã
nhận định: trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa giao lưu, mở rộng quan
hệ quốc tế có rất nhiều sự tác động tiêu cực từ bên ngoài làm ảnh hưởng xấu đến
tư tưởng, đạo đức, lối sống và cách nghĩ của nhiều người, nhất là giới trẻ. Vì
vậy, cần phải có những chính sách, giải pháp kịp thời và khả thi trong việc giáo


dục truyền thống tốt đẹp của cha ông, của đất nước đối với lớp trẻ. Mỗi công
dân trong tương lai phải ý thức được rằng tất cả những gì chúng ta có được ngày
nay đều được đánh đổi bằng xương máu của cha ông chúng ta, do đó chúng ta
khơng ai được phép qn đi nguồn cội của mình. Để làm được điều này, nghị
quyết của Đảng cũng chỉ ra rằng cần phải khôi phục, tơn tạo và giữ gìn những di
tích Lịch sử - Văn hố của dân tộc.


<i>c.</i> <i><b>Vị trí - vai trò của Lịch sử địa phương</b></i>


Lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có một mối quan hệ biện chứng
không thể tách rời, nằm trong cặp phàm trù “cái chung và cái riêng”. Tri thức
lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động và đa dạng của tri thức lịch sử
dân tộc. Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Nói cách
khác, lịch sử dân tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử
địa phương đã được khái quát và tổng hợp ở mức độ cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

việc riêng của các nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người. Từ thời
cổ đại, Xixirơn - một chính trị gia nổi tiếng của La Mã đã nói: “Lịch sử là cơ
giáo của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết về lịch sử dân tộc còn bao hàm
cả sự am tường cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về q hương, xứ sở,
nơi chơn nhau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và
lịch sử dân tộc. Chính Bác Hồ kính yêu, vừa là vị lãnh tụ thiên tài, vừa là nhà sử
học đã dạy rằng:


“Dân ta phải biết sử ta


Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
(Hồ Chí Minh – Lịch sử nước ta)


<i><b>d. Chủ trương kế hoạch đổi mới chương trình sách giáo khoa lớp 1 – 6.</b></i>


Năm 2002, nhằm từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới sự nghiệp giáo
dục, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã trình lên Quốc hội và được Quốc hội phê
chuẩn kế hoạch đổi mới chương trình sách giáo khoa lớp, bắt đầu từlớp 1 và lớp
6 cho đến hết. Việc thay sách được triển khai thực hiện theo hình thức cuốn
chiếu. Cho đến nay, chủ trương và kế hoạch này mặc dùđã được thực hiện qua
hai năm học nhưng vẫn còn hết sức mới mẻ,thậm chí cịn nhiều ý kiến tranh luận
sơi nổi, địi hỏi cần phải có thời gian thể nghiệm và kiểm chứng để có cơ sở thực
tiễn tốt hơn cho việc hoàn thiện thay sách giáo khoa.


<b>2. Cơ sở thực tiễn</b>


<i><b>a. Thực tiễn dạy và học lịch sử địa phương trong trường học nói chung và</b></i>
<i><b>ở cấp THPT nói riêng</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nhiều ngành, trong đó ngành cơng nghiệp du lịch là đáng kể nhất. Đặc biệt,
trong thời kỳ đổi mới và mở rộng giao lưu quốc tế, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu
lịch sử địa phương lại càng được chú trọng.


Ở nước ta, việc nghiên cứu lịch sử địa phương, với tư cách là một ngành
khoa học được bắt đầu từ sau ngày hồ bình lập lại ở miền Bắc. Từ sau ngày
miền Nam giải phóng, cơng tác này được tiến hành trên phạm vi cả nước. Hầu
hết các tỉnh đã biên soạn được lịch sử của tỉnh và kể cả của huyện, xã. Tuy
nhiên, việc dạy và học lịch sử địa phương chưa được tiến hành đều khắp trong
phạm vi cả nước mà mới chỉ dừng lại ở một số điển hình như các trường THPT
ở Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định…Đối với các tỉnh miền núi thì
cơng tác này hầu như chưa được coi trọng. Hiện trạng trên là do nhiều nguyên
nhân, cả khách quan lẫn chủ quan mà chúng ta đều đã biết như: địa hình phức
tạp, giao thơng cách trở, thiếu cán bộ nghiên cứu, thiếu kinh phí đầu tư thích
đáng; chế độ, chính sách đối với những người làm cơng tác nghiên cứu chưa hợp
lý… Trong điều kiện đó, tôi thiết nghĩ rằng việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử


địa phương là trách nhiệm của đội ngũ giáo viên dạy bộ môn lịch sử.


<i><b>b. Thực tiễn hết sức phong phú của nguồn tư liệu kiến thức lịch sử địa</b></i>
<i><b>phương:</b></i>


Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta, mỗi tấc đất đều thắm đượm
máu cha ông và ghi dấu những trang oanh liệt của cuộc đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Mỗi tên đất, tên người đều là một niềm tự hào của cả dân tộc. Có thể
khẳng định rằng: không một địa danh nào của dân tộc ta là khơng gắn liền với
một sự kiện lịch sử nào đó. Người ngoại quốc đã phải thốt lên rằng:


“…Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng,


Đến em thơ cũng hoá những anh hùng
Đến ong dại cũng hoá thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng trở thành vũ khí…”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Ở Dak Lak, mảnh đất chứa đựng trong lịng nó tính đặc sắc của nền văn
hoá các dân tộc thiểu số cũng là một kho tư liệu hết sức phong phú về lịch sử địa
phương (Xem phần phụ lục). Vì lẽ đó, khơng có lí do nào để chúng ta - những
người dạy sử lại bỏ trống mảng này. Cá nhân tôi cho rằng, với nguồn tư liệu sử
địa phương hết sức phong phú như vậy thì hai tiết trong phân phối chương trình
quả là q ít bởi vì chúng ta có q nhiều điều cần giảng dạy cho các em và các
em cũng có q nhiều điều chưa biết.


II. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU


<i>1.</i> <i>Thứ nhất, đề tài nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu cấp bách của giáo viên</i>
dạy Lịch sử THCS về mặt tài liệu phương pháp giảng dạy. Trong điều kiện tài
liệu hướng dẫn của Bộ cũng như của Sở GD & ĐT chưa có thì giáo sinh và kể


cả giáo viên đang dạy chỉ biết hy vọng vào người thầy của họ. Do vậy, tôi hy
vọng đề tài của tôi sẽ giúp các em phần nào khắc phục được khó khăn trong việc
giảng dạy chương trình SGK mới, phần Lịch sử địa phương. Ngay từ khi mới
tập huấn về vấn đề thay sách, rất nhiều giáo viên tìm gặp tôi để hỏi ý kiến và
mượn tài liệu về phần này. Đó chính là vấn đề chủ yếu thơi thúc tôi thực hiện đề
tài này càng sớm càng tốt.


<i>1.</i> <i>Thứ hai, Thông qua việc giảng dạy Lịch sử địa phương, đề tài góp phần</i>
nâng cao sự hiểu biết của các em học sinh về nguồn kiến thức lịch sử địa
phương hết sức phong phú và quý giá. Chính những kiến thức đó có ngay xung
quanh các em, các em bắt gặp, tiếp xúc thường xuyên nhưng các em chưa hiểu
được hoặc chưa có ai giảng giải cho các em hiểu được một cách tường tận về
nguồn gốc, nội dung cũng như ý nghĩa của từng sự kiện, hiện tượng lịch sử đó.
Để làm được điều này khơng phải là ngày một, ngày hai song chúng ta hoàn
toàn tin tưởng rằng, sự đóng góp của chúng ta sẽ là viên gạch dần dần hoàn thiện
bức tường. Tâm lý chung của con người, nhất là người Á đông chúng ta là
hướng về nguồn cội. Ai cũng có một quê hương, một nơi chôn nhau cắt rốn và ai
cũng tự hào về nơi ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

giáo dục các em học sinh ở độ tuổi mới lớn lịng tự hào, tình u q hương, u
xứ sở của mình. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi hai lẽ. Trước hết, các em
học sinh lớp 6 vừa ra khỏi cấp tiểu học bước vào một cấp học mới, lần đầu tiên
tiếp xúc với Lịch sử với tư cách là một môn học chính khố. Việc đặt những
viên gạch nền móng ban đầu cực kỳ có ý nghĩa đối với các em trên con đường
hình thành cách nhìn, thái độ đúng đắn đối với quê hương, xứ sở của mình. Mặt
khác, chúng ta khơng thể khơng nhắc tới một thực tế đau lịng là trong nhiều
năm gần đây, DakLak chúng ta cũng như nhiều tỉnh khác đang có hiện tượng mà
người ta quen gọi là “chảy máu chất xám” về các thành phố lớn. Các em học
sinh học giỏi, thành đạt trên con đường học vấn thì bằng cách này hay cách khác
ở lại công tác, lập nghiệp tại những thành phố, trung tâm lớn. Gạt sang một bên


những nguyên nhân thuộc về chế độ, chính sách thì thử hỏi chúng ta có trách
nhiệm gì khơng trước thái độ ngoảnh mặt, thờ ơ với quê hương của các em.


IV. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ


Về Lịch sử địa phương cũng như phương pháp sưu tầm, nghiên cứu và biên
soạn Lịch sử địa phương đã có rất nhiều nhà khoa học cũng như nhà sư phạm đề
cập đến. Riêng phần Lịch sử DakLak, đáng kể nhất là các cơng trình:


+ “Sơ thảo lịch sử đảng bộ tỉnh Daklak” – Ban NCLS đảng DakLak- xuất
bản năm 1981.


+ “Tây nguyên sử lược”- T/s Phan Văn Bé- xuất bản năm 1993


+ “Việc dạy học lịch sử địa phương ở các trườngTHPT tỉnh DakLak”- Luận
án SĐH của Phan Văn Bé.


+ Các bài viết của các học giả Phan Ngọc Liên, Nguyễn Phan Quang… về
Lịch sử Daklak đăng trên tạp chí nghiên cứu Đơng nam Á, tạp chí nghiên cứu
Lịch sử…


+ Các cơng trình nghiên cứu lịch sử huyện đảng bộ của các huyện Krông
Ana, Krông Pắc…


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cho tới hiện nay hầu hết là những cơng trình mang tính khảo cứu.
V. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN


1. Như đã xác định, đối tượng, phạm vi vận dụng của đề tài là chương trình
Lịch sử lớp 11, cụ thể là phần Lịch sử địa phương. Vì vậy, trước hết cần phải
nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa.



2. Tiến hành sưu tầm, tập hợp tất cả những sử liệu lịch sử địa phương (cả lý
thuyết và thực tế) theo yêu cầu của phần gợi ý liên liên quan đến phần giới hạn
nội dung. Đây là một vấn đề rất khó. Kiến thức lịch sử địa phương thì cả một
rừng, một biển. Vấn đề quan trọng và cần thiết là khai thác những cái nào, khai
thác như thế nào để vừa đạt được cái chung (lịch sử dân tộc) và làm nổi bật cái
riêng (lịch sử địa phương). Đó mới là cái đích của vấn đề.


3. Thiết lập tài liệu hướng dẫn giảng dạy (sơ thảo) cho một số giáo viên
THPT, trước hết là cho giáo viên trường mình tham khảo và ứng dụng, nếu có
thể, kết hợp dự giờ để kiểm nghiệm mức độ hiệu quả của sáng kiến, từ đó rút
kinh nghiệm để hồn thiện hơn.


<b>B. PHẦN NỘI DUNG</b>


I. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ DAKLAK TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THỜI
BẮC THUỘC:


1. <i><b>Khái quát về điều kiện tự nhiên-xã hội</b></i>


Tỉnh DakLak nằm về hướng phía tây dãy Trường sơn, trải dài từ 14 độđến
13 độ 45 phút vĩ tuyến Bắc, trải rộng từ 107 độ 12 phút đến 108ˆ độ 54 phút
kinh đơng. Phía bắc giáp tỉnh Gia Lai, nam giáp Lâm Đồng, Bình Phước, đơng
giáp Phú n, Khánh Hồ, tây giáp vương quốc Campuchia. Với tổng diện tích
tự nhiên là 19800 km vuông, DakLak là tỉnh lớn nhất Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

voi, bị tót, hổ, gấu, hươu, nai… Lượng mưa trung bình hàng năm là 2050mm.
Trong hơn 40 dân tộc thì người Ê đê, Mơ nơng là cư dân bản địa lâu đời nhất ở
Dak Lak.



Dak Lak được xếp là vùng Trung Cao nguyên với bạt ngàn rừng núi trên
nền đất đỏ bazan phì nhiêu, trù phú. Tuy đất đai trù phú, màu mỡ như vậy nhưng
phương pháp canh tác của đồng bào ở đây còn đơn giản, lạc hậu. Đồng bào sống
thành những đơn vị cơ sở là bn. Hợp thành bn là những gia đình theo chế
độ mẫu hệ với những quan hệ thân tộc khiến cho cộng đồng được duy trì khá
bền vững.


Con người Dak Lak thật thà, chất phác và giàu tình cảm, rất mến khách,
thậm chí khách của một người nào đó cũng được coi là khách của làng. Tơn
giáo, tín ngưỡng của các dân tộc ở đây bắt nguồn từ tín ngưỡng nguyên thủy,
thờ cúng Yàng và các thần linh. Yàng có một quyền lực rất lớn trong đời sống
tâm linh của cư dân các dân tộc ở đây. Tuy chữ viết xuất hiện muộn nhưng văn
học dân gian của đồng bào Dak Lak nói riêng và Tây nguyên nói chung khá phát
triển và đặc sắc. Những trường ca như Đam San, Xinh Nhã… không những là
niềm tự hào của các dân tộc ở đây mà còn là những viên ngọc quý trong kho
tàng văn học Việt Nam.


Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống, đồng bào Dak Lak cịn duy trì khá
nhiều phong tục, tập quán lạc hậu, nhất là trong ma chay, cưới hỏi. Từ khi đất
nước độc lập, thống nhất và đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, được sự quan
tâm đầu tư đúng mức của Đảng và nhà nước, DakLak đang từng ngày thay da
đổi thịt, trở thành một vùng đất đầy hứa hẹn, giàu tiềm năng.


<i>2.</i> <i><b>Vài nét về văn hoá Ốc Eo:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Vào những thế kỉ đầu công nguyên, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long
là vùng đất có cảnh quan thiên nhiên, mơi trường sinh thái phức tạp. Các dịng
sơng thay dịng đổi nhánh. Cư dân Ốc Eo đã trụ lại trên vùng đất này. Những di
tích liên quan đến chủ nhân của nền văn hoá Ốc Eo, hiện tại phân bố ở các vùng:
tứ giác Long Xuyên với khu di tích Ốc Eo-Ba Thê; vùng Đồng Tháp Mười với


di tích Gị Tháp; vùng U Minh-Năm Căn với khu di tích Cạnh Đền; vùng rừng
Sác Duyên Hải với khu di tích Cần Giờ; vùng ven biển Đơng với di tích Trà Cú,
Gị Thành; vùng Đông Nam Bộ với khu vực hạ lưu sông Đồng Nai, Bình Tả,
Thanh Điền. Sự phân bố các di tích ấy, chứng tỏ thời xưa, cư dân đã cư trú trên
một diện rộng ở châu thổ sông Cửu Long. Nối tiếp dòng chảy của cư dân Đồng
Nai, cư dân Ốc Eo đã mở rộng địa bàn cư trú, triển khai ngành nghề và tổ chức
cuộc sống ở vùng sinh thái đầy biến động phức tạp.


Trước hết, cư dân Ốc Eo vẫn là cư dân nông nghiệp sống với phương thức
trồng lúa. Dù cịn có tranh luận về các loại lúa, nhưng các nhà khoa học trong và
ngoài nước đều thống nhất, cư dân Ốc Eo có nhiều giống lúa khác nhau. Nghề
trồng lúa nước phát triển, một nền văn minh nơng nghiệp lúa nước bắt đầu hình
thành. Cùng với trồng lúa, cư dân Ốc Eo cịn trồng mía, cau, dừa. Hoạt động
chăn nuôi thuần dưỡng đã phát triển. Căn cứ vào các hiện vật tìm thấy ở các di
tích khi khai quật như hạt chuỗi hình ống, hình thoi, hình nút áo… Kích thước
và màu sắc khác nhau, được làm bằng các loại đá quý, đá màu, thuỷ tinh và đất
nung, như vòng tay, khuyên tai, nhẫn, lục lạc, xập xoã… các nhà khoa học đã
khẳng định kỹ thuật chế tác của cư dân Ốc Eo đã đạt đến trình độ cao, tinh xảo,
nhất là gia cơng đồ trang sức bằng vàng, bằng đá quý.


Mặt khác, đồ gốm cũng là loại vật dụng trong sinh hoạt khá phổ biến hàng
ngày của cư dân Ốc Eo. Gốm Ốc Eo đều đã được làm bằng bàn xoay. Nếu như ở
văn hoá Đồng Nai, đồ đá được sử dụng nhiều thì ở văn hoá Ốc Eo sự sử dụng đồ
đá đã giảm xuống. Nhưng đồ sắt lại có sự tiếp nối giữa hai thời kỳ văn hoá. Với
cư dân Ốc Eo, đồ sắt được dùng phổ biến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

triển ở cư dân Ốc Eo. Khảo sát các di tích, các nhà khoa học đã cho biết: “ Có
12 đồng tiền và mảnh cắt của tiền đã được phát hiện ở các di tích” (văn hố Ốc
Eo, những khám phá mới, Lê Xuân Diệm, Đào Linh Sơn, Võ Sĩ Khải, Nxb
KHXH, H.1995, Tr.337).



Về mặt cư trú, cư dân Ốc Eo có hai kiểu cư trú: thứ nhất lối cư trú nhà
sàn; thứ hai lối cư trú trên nền đất đắp, của cá thể và gia đình. Trong khi đó, đền
thờ, đền thánh, nói cách khác là những di tích của cộng đồng được xây cất bằng
những vật liệu nặng. Chẳng hạn đền tháp ở Bình Tả, Thanh Điền. Đồng thời, các
đơ thị cũng xuất hiện nhiều trên đồng bằng sông Cửu Long thời này.


<i><b>3. Khái lược về thời công xã nguyên thuỷ ở Dak Lak</b></i>


Cho tới hiện nay, nguồn gốc của các tộc người ở Tây nguyên đang là vấn đề
quan tâm nghiên cứu của các nhà Sử học, Dân tộc học và Khảo cổ học. Dựa vào
nhiều nguồn tài liệu đáng tin cậy khác nhau: những vết tích trong lịng đất qua
các cuộc khai quật khảo cổ học ở Lak, DakR’lấp, Dak Nông… trong các huyền
thoại, trong các địa danh, các nhà khoa học đưa ra ý kiến xác đáng về tổ tiên xa
xưa của cư dân Tây nguyên. Đó là những người thuộc đại chủng Ơxtralơit, một
giống người lùn, da đen, tóc quăn, hiện nay khơng cịn nữa. Họ chỉ cịn lưu lại
những vết tích nhân chủng trên người hiện đại do sự hồ huyết của hai chủng
Ơxtralơit và Môngôlôit với hai ngành Anhđônêdiêng và Nam Á.


DakLak cũng nằm trong tổng thể chung của toàn bộ vùng Tây nguyên. Để
minh chứng và giúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về thời cổ đại của Tây
nguyên, chúng ta hãy nhìn nhận kết quả của đợt khai quật khảo cổ mới nhất về
Tây nguyên. Đó là di chỉ Lung Leng (Sa Thầy, Kon Tum) đã làm xôn xao giới
nghiên cứu khảo cổ học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

cứu Thời đại đá (Viện khảo cổ học) làm trưởng đoàn cùng hầu hết chuyên gia
hàng đầu của ngành khảo cổ học Việt Nam đã có mặt tại Lung Leng. Chỉ riêng
Viện khảo cổ học Việt Nam đã cử tới đây hơn 40 người, với 2 phó giáo sư, 12
tiến sĩ, cịn lại đều là thạc sĩ chuyên ngành. Vào thời điểm này tại Lung Leng
cũng có hơn 600 lao động làm việc thường xuyên trên công trường cùng với


nhiều trang thiết bị hiện đại. Trên một diện tích khai quật hơn 10.000m2<sub>,các nhà</sub>
khảo cổ học đã mở được gần 100 hố, mỗi hố có diện tích 100m2<sub>.</sub>


Qua hai đợt khai quật, các nhà khoa học đã thu được gần 30 tấn hiện vật,
gồm 8000 tiêu bản đá, hàng triệu mảnh gốm, trên 100 mộ nồi vò, gần 40 khu
bếp, lò nung, cùng với các hiện vật như chuỗi đã, rìu, chận đèn, bát… Trong
tầng văn hố, các nhà khoa học cịn tìm thấy một số đồ gốm sứ có niên đại từ thế
kỷ XIV trở lại, trong đó có cả gốm sứ Việt Nam. Đó là kết quả các nhà khảo cổ
học thu được ở di chỉ khảo cổ Lung Leng (thuộc xã Sa Bình, huyện Sa Thầy,
tỉnh Kon Tum). Đây là vết tích văn hoá từ thời đại đá cũ, đến hậu kỳ đá mới và
sơ kỳ kim khí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Chính tồn bộ những tư liệu khai quật của đợt này sẽ góp phần nghiên cứu thời
kỳ quá khứ xa xưa của Tây Nguyên, để minh chứng Tây Nguyên trong quá khứ
là một vùng năng động và có sự giao lưu rộng mở. Ở đây đã chứa đựng vết tích
văn hố của những cư dân từ xa xưa cho đến giai đoạn bước vào văn minh. Khai
quật di chỉ lần này chính là giải phóng khỏi lịng hồ của thuỷ điện Yaly một di
tích quan trọng để các nhà làm điện ở Việt Nam có thể yên tâm trữ nước, chủ
động các vấn đề phát điện và cung cấp điện cho đồng bào các dân tộc bản địa
biết được di tích văn hố lịch sử của mình và càng thêm u q mảnh đất q
hương của chính mình.


<i><b>4. DakLak thời kỳ Bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập: </b></i>


Theo ý kiến của các nhà sử học Ke-nơ (Kern, người Đức), Ca-ba-tông
(Cabaton, người Pháp), Hô-lơ (D.G.E.Hall, giáo sư sử học đại học Luân Đôn),
vào thế kỉ II trước công nguyên, những người Hindu (Ấn Độ) từ khu vực phía
tây thiên di đến lập nghiệp tại vùng hạ lưu sông Mê Kông. Là một dân tộc có
nền văn minh lâu đời, họ khơng gặp khó khăn khi tập hợp một số bộ lạc sống rải
rác trong vùng lập thành vương quốc Phù Nam, vương đơ đóng ở ỐcEo mà ơng


vua đầu tiên là Kaudinya. Những người M’nông sống xa vương đô hơn, không
chịu khuất phục sự cai trị của người Hindu, đã tìm cách chuyển cư dần dần vào
vùng nội địa, tây Trường Sơn. Tuy nhiên, từ thế kỉ I đến thế Kỉ V, vương quốc
Phù Nam trở thành một quốc gia hùng cường đầu tiên ở vùng Đông Nam Á, mà
biên cương của nó chạy dài từ bở biển Đơng sang vịnh Ben-gan (Ấn Độ). Do
vậy khu vực nội địa Trường Sơn của người M’nông và các cư dân khác ở Dak
Lak không tránh khỏi sự thống trị của đế quốc Phù Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Đối với cư dân nói tiếng Mala-Pơlinêxia (tức người Êđê, Gia rai, Chăm,
Raglay. Churu), họ lại xuất phát từ ven biển Quảng Đông (Trung Quốc) tràn
xuống vùng Đông Nam Á và Đông Dương, từ thiên niên kỉ thứ II trước công
nguyên hay sớm hơn, bằng nhiều con đường khác nhau. Những người
Malayô-Pôlinêxia sau khi dừng lại ven bờ biển Đông trở thành tổ tiên người Chàm, một
số tiếp tục thiên di lên vùng núi Trường Sơn, chinh phục và hoà huyết với cư
dân bản địa tại Cao nguyên Dak Lak và Cao nguyên Plâycu.


Sau khi thiết lập vương quốc Phù Nam, người Hindu tiếp tục tiến về phía
đơng dọc theo các sườn đồi tràn xuống vùng đất người Chàm áp đặt nền văn
minh Ấn Độ lên vùng đất này. Đến cuối đời nhà Hán, một người Chàm gốc Ấn
tên là Khu Liên (Kiu Liên) ở Tượng Lâm nổi dậy tiêu diệt huyện lệnh nhà Hán,
thiết lập vương quốc Lâm Ấp (có sách viết là Lin-ye) vào năm 192. Biên cương
của Lâm Ấp lúc này kéo từ quận Nhật Nam vào giáp ranh giới Chân Lạp (Tức
từ Quảng Bình, Quảng Trị đến vịnh Cam Ranh). Khơng chịu được sự thống trị
của người Hindu, một số người Malayô-Pôlinêxia từ bỏ nước Lâm Ấp thiên di
lên vùng núi Trường Sơn chinh phục và hoà huyết với dân cư bản địa, hình
thành người Êđê, Gia rai hiện đại khai phá Cao nguyên Dak Lak-Plâycu.


Cho đến thế kỉ VII, sau những cuộc giao tranh với vương quốc Chân Lạp,
Chiêm Thành chiếm lĩnh thung lũng sông Mê kông, sông Sêsan, sông Ba và các
núi non phụ cận. Họ chiếm đóng từ tây Trường Sơn sang tận bờ tả ngạn sông


Mê Kông và từ Stung-Treng sang đến sông Mun. Bắt đầu từ đấy, cư dân Tây
Nguyên rơi vào sự đô hộ của Chiêm Thành, cho mãi đến thế kỉ XV.


Trong giai đoạn này, các vương triều Ăngko và Chiêm Thành đã tiến
hành nhiều cuộc chiến tranh và lôi kéo cư dân ở Tây Nguyên vào những cơn lốc
chinh chiến triền miên, buộc họ phải chịu những gánh nặng thuế má, phu phen,
cống nộp. Giai cấp thống trị đã cướp bóc của họ vơ số vàng bạc, ngà voi, sừng tê
giác, nhựa thông, hổ phách, gỗ, trầm hương, các cây thuốc quý, đồng thời bắt họ
lao động sản xuất, phục dịch nặng nề.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Nguyên đã vùng dậy đấu tranh anh dũng. Xuất phát từ bản năng tự vệ, từ tinh
thần quả cảm, từ mối dây ràng buộc huyết thống trong cộng đồng thị tộc, họ tổ
chức chống lại ách thống trị của ngoại bang. “Làng chiến đấu” và các “liên minh
quân sự” giữa các bộ lạc - những khái niệm mà các nhà dân tộc học thường hay
nói đến - chính là dấu tích truyền thống chống ngoại xâm từ xa xưa còn tồn tại
cho đến ngày nay.


Cuộc tiếp xúc với văn hố nước ngồi, do điều kiện chiến tranh và sinh
sống cũng ảnh hưởng không giống nhau giữa các tộc người ở Tây Nguyên xưa.
Người M’nông chuyển cư vào trú ẩn ở vùng rừng già tây Trường Sơn, xây dựng
các làng chiến đấu vững chắc. Do đó, sự tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ của họ
không sâu sắc. Những cuộc đổi chác, mua bán của người M’nông với người Hoa
(trực tiếp hay gián tiếp qua thương lái từ sông Mê kơng sang) khơng được
thường xun, nên văn hố Trung Quốc cũng khơng ảnh hưởng sâu đậm gì đến
họ. Vì vậy, cho đến khi Pháp xâm lược, cuộc sống người M’nông vẫn cịn mang
nhiều màu sắc ngun thuỷ.


Trong khi đó, người Ê đê, Gia rai trên cao nguyên Dak Lak, Plâycu lại bị
sự thống trị trực tiếp của các thế lực phong kiến Chiêm Thành và Chân Lạp. Họ
chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ tương đối sâu đậm hơn người M’nông.


85% ngôn ngữ Êđê, Gia rai đều mang dấu ấn sâu sắc nền văn minh Chàm. Do
đó, trình độ văn minh của hai dân tộc này cao hơn so với các dân tộc khác ở Tây
Nguyên.


Vào khoảng thế kỉ VII-XV, trong xã hội Tây Nguyên nói chung cũng dần
dần hình thành bộ máy nhà nước sơ khai, có người đứng đầu, như hiện tượng
các Patau Ia “Vua Nước”, Patau Pui “Vua Lửa”.


II. GỢI Ý GIẢNG DẠY
<i><b>1. Chuẩn bị:</b></i>


<i><b>1. Thiết kế giáo án giảng dạy:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

và cũng rất phức tạp. Trong cái mênh mơng đó, người giáo viên phải chọn lựa,
sàng lọc ra những sự kiện, những vấn đề cần thiết để khai thác và sử dụng. Đặc
biệt khung thời gian lịch sử trong chương trình lớp 6 là từ cội nguồn cho đến thế
kỷ X. Phần này, như chúng ta đã biết là giai đoạn rất phức tạp, còn nhiều vấn đề
chưa thống nhất. Đối với tỉnh DakLak chúng ta, do có chung biên giới với
Campuchia nên vấn đề này rất nhạy cảm. Khai thác như thế nào cho đúng mức
và hiểu như thế nào để khơng sai lệch, méo mó là cả một vấn đề. Hơn nữa, thời
lượng mà phân phối chương trình quy định chỉ có 2 tiết dạy, địi hỏi người giáo
viên phải biết vận dụng hợp lý. Theo chúng tôi, trong điều kiện thiếu thốn tài
liệu, lại mới tiếp xúc với nội dung này ở chương trình lớp 6 nên rất có thể diễn
ra hai khuynh hướng đối với giáo viên: một là khơng biết giảng gì cả; hai là
giảng sa vào kể chuyện ơm đồm. Để tránh được tình trạng này, theo chúng tơi,
trước hết giáo viên phải định hình ra được cái “ sườn” cho từng tiết dạy. Nói
cách khác là phải trả lời được câu hỏi: trong tiết này, ta sẽ dạy cho các em cái
gì? “ Sách Giáo viên” về phần này chỉ là vài dòng gợi ý rất chung. Theo chúng
tơi, từ gợi ý đó kết hợp với vốn kiến thức Lịch sử địa phương mà mình có (tỉnh,
huyện, xã), chúng tơi đề xuất cách thiết kế như sau:



<i>Tiết thứ nhất: Giảng khái quát về lịch sử tỉnh DakLak bao gồm những nội</i>
dung và bố cục chúng tơi đã trình bày ở trên. Việc cịn lại của giáo viên là tóm
lược những ý chính, thật gọn và khái quát. Có thể chia ra làm các mục:


1. Khái quát về điều kiện tự nhiên (Có sử dụng bản đồ)
1. Vài nét về Daklak thời đại nguyên thuỷ.


1. Tình hình Daklak thời kỳ Bắc thuộc và đấu tranh giành độclập.


<i>Tiết thứ hai:Giảng về lịch sử của Huyện (nơi trường mình dạy) Ở tỉnh ta,</i>
theo chúng tơi được biết thì khơng tính đến một số huyện mới thành lập như
Bn Đơn, DakSong, hầu hết các huyện đều đã có Lịch sử huyện do các huyện
đảng bộ biên soạn. Theo chúng tơi, bố cục tiết này có thể chia thành các mục:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

1. Tình hình sơ lược huyện...từ thời nguyên thủy đến thế kỷ X.


1. Giới thiệu một di tích Văn hố, hay di tích lịch sử của huyện, xã ở địa
phương (nếu có)


Chúng ta đều biết Daklak chúng ta có một kho tàng Văn hố tổng hợp hết
sức phong phú và đa dạng. Cho đến tháng 5 năm 1997, Bộ Văn hố và thơng tin
đã cơng nhận 6 di tích ở Daklak gơm 3 di tích Lịch sử cách mạng, 1 di tích kiến
trúc tơn giáo và 2 danh lam thắng cảnh. Trong đợt tổng kiểm kê di tích tồn tỉnh
(1996) đã khảo sát được 71 di tích thuộc các loại hình, trong đó có 23 di tích lịch
sử cách mạng, 13 di tích kiến trúc nghệ thuật và kiến trúc tơn giáo, 2 di tích lịch
sử văn hố, 8 di tích khảo cổ và 25 di tích danh thắng. Nhằm giúp cho các giáo
sinh cũng như giáo viên có nguồn tư liệu dồi dào, chúng tơi đã tập hợp và giới
thiệu cụ thể ở phần Phụ lục. Do tính chất của đề tài, phần Phụ lục chúng tơi
thực hiện khá cơng phu và coi đó là một nội dung rất quan trọng, không thể


thiếu của đề tài. Đó là những nội dung kiến thức khá phong phú để giáo viên
khai thác và sử dụng.


Để thực hiện phần soạn giảng, chuẩn bị được tốt hơn, giáo viên cần đề xuất
phương hướng của mình đối với 2 tiết này lên cán bộ phụ trách chuyên môn của
trường xin ý kiến. Cán bộ chuyên môn của trường lại xin ý kiến chỉ đạo của cán
bộ chun mơn Phịng, Sở. Có như vậy thì giáo viên sẽ tự tin hơn trong cơng
việc của mình.


<i><b>3.Đề xuất một giáo án (1tiết) cụ thể:</b></i>


Giáo án tiết thứ nhất: TỈNH DAKLAK (Từ cội nguồn đến thế kỷ X
<i><b>A. Mục đích yêu cầu:</b></i>


<b>vNhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết khái quát về tỉnh DakLak từ</b>
cội nguồn cho đến thế kỷ X.


<b>vThơng qua đó, giáo dục các em lịng u q hương mình, lịng tự hào về</b>
quá khứ dựng nước và giữ nước của cha ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i><b>B. Các bước lên lớp:</b></i>


<i>1. Ổn định lớp và kiểm tra bài cũ:(7 phút)</i>


<i>a.</i> Vì sao nói: trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938 là một chiến thắng vĩ
đại của dân tộc ta?


<i>a.</i> Trình bày bài tập chuẩn bị ở nhà: Lập bảng thống kê những sự kiện lớn
đáng ghi nhớ của Lịch sử nước ta từ khi dựng nước đến năm 938.



Mỗi câu gọi một học sinh trả lời. Câu b có thể gọi thêm các học sinh khác bổ
sung. Giáo viên nhận xét và củng cố phần trả lời của các em rồi cho điểm công
khai trước lớp.


<i>2.Giảng bài mới: (35 phút)</i>


<i><b>a.Khái quát về điều kiện tự nhiên-xã hội: (7 phút)</b></i>


<i><b>Tỉnh DakLak nằm về hướng phía tây dãy Trường sơn. Phía bắc giáp tỉnh</b></i>
<i><b>Gia Lai, nam giáp Lâm Đồng, Bình Phước, đơng giáp Phú n, Khánh Hồ,</b></i>
<i><b>tây giáp vương quốc Campuchia. Diện tích tự nhiên 19800 km vng.</b></i>


<i><b> Dak Lak có rất nhiều gỗ quý hiếm như thuỷ tùng, cẩm lai, cà te, hương,</b></i>
<i><b>sao, trẩu… cùng với nhiều loại thú rừng quý hiếm như voi, bị tót, hổ, gấu,</b></i>
<i><b>hươu, nai…. Trong hơn 40 dân tộc thì người Ê đê, Mơ nơng là cư dân bản</b></i>
<i><b>địa lâu đời nhất ở Dak Lak. (Giáo viên sử dụng bản đồ hành chính để giới</b></i>
<b>thiệu phần này)</b>


<i><b>b.Sơ lược về thời công xã nguyên thuỷ ở Dak Lak (10 phút)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i><b>Họ vừa phải kiếm ăn, xây dựng buôn làng vừa phải chiến đấu chống</b></i>
<i><b>lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ quê hương.</b></i>


<i><b>c. DakLak thời kỳ Bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập:(18 phút)</b></i>


<i><b>Theo ý kiến của các nhà khoa học, vào thế kỉ 2 trước cơng ngun,</b></i>
<i><b>những người Hindu (Ấn Độ) từ phía tây thiên di đến lập nghiệp tại vùng hạ</b></i>
<i><b>lưu sông Mê Kông,lập thành vương quốc Phù Nam. Từ thế kỉ 1 đến thế Kỉ 5,</b></i>
<i><b>vương quốc Phù Nam trở thành một quốc gia hùng cường đầu tiên ở vùng</b></i>
<i><b>Đông Nam Á. Do vậy, cư dân Tây nguyên nói chung và Daklak nói riêng đã</b></i>


<i><b>rơi vào sự thống trị của đế quốc Phù Nam.</b></i>


<i><b>Đến thế kỉ 6, Chân Lạp - một chư hầu của đế quốc Phù Nam đã tiêu</b></i>
<i><b>diệt đế quốc Phù Nam. Chân Lạp trở thành một đế quốc hùng mạnh, thơn</b></i>
<i><b>tính tồn bộ đất đai của đế quốc Phù Nam. Đến đây, người Mơ nông và các</b></i>
<i><b>dân cư ở Dak Lak lại chịu sự thống trị của Chân Lạp.</b></i>


<i><b>Sau khi thiết lập vương quốc Phù Nam, qua hàng nghìn năm hồ huyết</b></i>
<i><b>giữa các tộc người đã hình thành nên người Êđê, Gia rai, Mơ nông hiện đại</b></i>
<i><b>khai phá Cao nguyên Dak Lak - Plâycu.</b></i>


<i><b>Cho đến thế kỉ 7, sau những cuộc giao tranh với vương quốc Chân</b></i>
<i><b>Lạp, Chiêm Thành chiếm lĩnh toàn bộ khu vức này. Bắt đầu từ đấy, cư dân</b></i>
<i><b>Tây Nguyên rơi vào sự đô hộ của Chiêm Thành, cho mãi đến thế kỉ 15.</b></i>


<i><b>Trong giai đoạn này, các vương triều Ăngko và Chiêm Thành đã tiến</b></i>
<i><b>hành nhiều cuộc chiến tranh và lôi kéo cư dân ở Tây Nguyên vào những cơn</b></i>
<i><b>lốc chinh chiến triền miên, buộc họ phải chịu những gánh nặng thuế má,</b></i>
<i><b>phu phen, cống nộp. Giai cấp thống trị đã cướp bóc của họ vơ số vàng bạc,</b></i>
<i><b>ngà voi, sừng tê giác, nhựa thông, hổ phách, gỗ, trầm hương, các cây thuốc</b></i>
<i><b>quý, đồng thời bắt họ lao động sản xuất, phục dịch nặng nề.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i><b>họ tổ chức chống lại ách thống trị của ngoại bang. Làng chiến đấu” và các </b></i>
<i><b>-liên minh quân sự” giữa các bộ lạc - chính là dấu tích truyền thống chống</b></i>
<i><b>ngoại xâm từ xa xưa con tồn tại cho đến ngày nay.</b></i>


<i><b>Cuộc tiếp xúc với văn hoá nước ngoài, do điều kiện chiến tranh và sinh</b></i>
<i><b>sống cũng ảnh hưởng không giống nhau giữa các tộc người ở Tây Nguyên</b></i>
<i><b>xưa. Người Mơ nông chuyển cư vào trú ẩn ở vùng rừng già tây Trường Sơn,</b></i>
<i><b>xây dựng các làng chiến đấu vững chắc. </b></i>



<i><b> Vào khoảng thế kỉ 7, trong xã hội Tây Ngun nói chung cũng dần</b></i>
<i><b>dần hình thành bộ máy nhà nước sơ khai, có người đứng đầu, là Vua Nước,</b></i>
<i><b>Vua Lửa.</b></i>


<i><b>3.Củng cố, dặn dò: (3 phút)</b></i>


 Nhắc lại và nhấn mạnh lại kiến thức cần ghi nhớ
 Dặn dị các em ơn tập và chuẩn bị bài cũ.


 Nếu có thể, giới thiệu các em tìm đọc một số tài liệu Lịch sử đại phương
(tuỳ chọn)


Trên đây là một giáo án giới thiệu. Chúng tôi chủ yếu thiên về phần chuẩn
<i><b>kiến thức. Tùy điều kiện từng trường, có thể tổ chức cho các em tham quan, học</b></i>
tập một số di tích, địa danh quan trọng. (Ví dụ, các trường THCS trong T.P
Bn Ma Thuột có thể cho các em tham quan viện bảo tàng tỉnh DakLak). Cịn
về vấn đề phương pháp thì ngồi những phương pháp truyền thống là thuyết
trình, giáo viên phải đặc biệt chú ý sử dụng hợp lý tối đa đồ dùng trực quan mà
chúng tôi đã chuẩn bị ở phần Phụ lục và giáo viên chuẩn bị ở nhà. Phần chúng
tôi in nghiêng được xem như là phần ghi nhớ (ghi chép) đối với học sinh. Tất
nhiên khơng phải là máy móc tuyệt đối.


<b>III. PHẦN KẾT LUẬN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

cạnh việc xây dựng một hướng đi chung, chúng tôi cũng đã cố gắng thiết kế và
đề xuất phần hướng dẫn cụ thể. Chúng tơi thiết nghĩ đây là một vấn đề có ý
nghĩa rất thiết thực nhất là trong thời điểm hiện nay.


<b>v Dự định của chúng tơi thì rất lớn. Trong thời gian tới, cùng với các đồng</b>


nghiệp và sự chỉ đạo của các cơ quan chuyên môn và chức nătag trên cơ sở điều
kiện cho phép,chúng tôi sẽ xây dựng một đề tài “ Hướng dẫn giảng dạy phần
<i><b>lịch sử địa phương ở các trường THCS tỉnh DakLak” và tập giáo án giới thiệu.</b></i>
Tại thời điểm này, chúng tôi tạm bằng lịng và dừng lại trong khn khổ đề tài
trên. Để hồn thành được cơng trình này, một lần nữa chúng tôi xin chân thành
cảm ơn các đồng nghiệp: thạc sỹ Lê Xuân Diệu, cử nhân Lê Xuân Mợi cùng với
các đồng nghiệp, bạn bè khác đã gợi ý, góp ý và giúp đỡ chúng tôi. Chắc chắn
không tránh khỏi những hạn chế, kính mong các bạn bè, đồng nghiệp góp ý chân
thành để chúng tơi hồn thiện hơn.


Xin chân thành cảm ơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<b>PHỤ LỤC</b>


<b>F Năm 1899, thực hiện chính sách bình định Cao Ngun, Tổng thống</b>
<b>Pháp cử viên cai Bu-rơ-goa (Bourgeois) từ phía bắc theo sơng Mê-cơng rẽ</b>
<b>vào sông Sêrêpôk đến vùng đất Buôn Đôn, chọn nơi này làm đại lý, với mục</b>
<b>đích làm thí điểm trong cuộc bình định Cao Nguyên Trung phần. Tại đây,</b>
<b>Bu-rơ-goa chọn một số tù trưởng sơn cước làm cố vấn, đó là Phét Lasa và Y</b>
<b>Thu Knul (Khun Zu Nốp) người M’nông-Lào, coi họ là những cộng sự</b>
<b>trung thành của các viên khâm sứ ở Dak Lak. Tuy vậy, việc chọn Buôn Đôn</b>
<b>làm đại lý của người Pháp đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của đồng bào</b>
<b>nơi đây. Bu-rơ-goa không tài nào mở rộng được vùng đất cai trị của mình</b>
<b>mà cịn bị mất uy tín với nhân dân bản địa.</b>


<b> Ngày 22/12/1904, thực dân Pháp chuyển đại lý từ Buôn Đôn về Buôn</b>
<b>Ma Thuột và chọn nơi này làm thủ phủ của Cao nguyên Dak Dak (thuộc</b>
<b>tỉnh Kon Tum), đồng thời giao cho triều đình Việt Nam phối hợp với người</b>
<b>Pháp để cai quản.</b>



<b> Ngày 02/7/1923, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định tách phần</b>
<b>đất Dak Lak ra khỏi KonTum và thành lập tỉnh riêng. Lúc mới thành lập,</b>
<b>dak lak chưa có huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng dựa theo các bn có sẵn</b>
<b>của các dân tộc bản địa, như Ê đê có 151 làng, M’nơng có 117 làng, Gia rai</b>
<b>có 11 làng, Bih có 24 làng, M’dhur có 120 làng…</b>


<b> Năm 1931, Pháp làm cuộc cải cách hành chính tồn Đơng Dương, địa</b>
<b>bàn tỉnh Dak Lak được chia làm 5 quận là Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ, Dak</b>
<b>Song, Lak và M’drăk, gồm 440 làng. Tỉnh lỵ đóng tại Bn Ma Thuột. Từ</b>
<b>đó cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và suốt 9 năm kháng chiến</b>
<b>chống thực dân Pháp, về mặt hành chính trên địa bàn tỉnh Dak Lak khơng</b>
<b>có gì thay đổi lớn. Ngày 15/10/1950, Bảo Đại ban hành Dụ số 6, đặt các tỉnh</b>
<b>Cao nguyên, trong đó có Dak Lak làm Hồng triều Cương thổ, có quy chế</b>
<b>cai trị riêng.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>Hoàng triều Cương thổ và đặt tỉnh Dak Lak cũng như các tỉnh khác thuộc</b>
<b>Cao nguyên Trung phần của “Việt Nam Cộng hoà”. Nghị định số 158</b>
<b>BNV/NĐ ngày 08/8/1957 chuyển đổi thị trấn Buôn Ma Thuột thành xã Lạc</b>
<b>Giao thuộc quận Buôn Ma Thuột. Nghị định số 356 BNV/NĐ ngày 2/7/1958</b>
<b>ấn định các đơn vị hành chính của tỉnh Dak Lak gồm 5 quận, 21 tổng, 77</b>
<b>xã. Riêng Bn Ma Thuột có các tổng Ea Tam (10 xã), Cư Keh (4 xã), Cư</b>
<b>Ewi (6 xã), Drai Sáp (5 xã).</b>


<b>Ngày 20/12/1963, chính quyền Sài Gịn ban hành nghị định số 262</b>
<b>BNV/HC/NĐ thành lập thêm một quận mới của tỉnh Dak Lak, lấy tên là</b>
<b>quận Phước An. Lúc bấy giờ Dak Lak gồm có 4 quận: Bn Ma Thuột,</b>
<b>Buôn Hồ, Lạc Thiện, Phước An. Quận Buôn Ma Thuột khơng cịn tổng</b>
<b>nữa, có các xã: Cư Ebu Math, Cư Edru Math, Cư Kphong Math, Cư M’gar</b>
<b>Math, Cư Ming Math, Cuôr Dang Math, Chi Lăng, Đạt Lý, Ea Ana Math,</b>
<b>Ea Emaih Math, Ea Hbong Math, Ea Hding Maath, Ea Net Math, Ea</b>


<b>Kwang Math, Ea Madong Math, Ea Mdhar Math, Ea Kmat Math, Ea Knir</b>
<b>Maath, Ea Ktur Math, Ea Pac Math, Ea Bour Math, Kmrong Prông Math,</b>
<b>Lạc Giao, Quảng Nhiêu, Tân Điền, Thọ Thành.</b>


<b>Sau ngày giải phóng hồn tồn miền Nam (30/4/1975), chính quyền</b>
<b>Cách mạng đã sắp xếp lại địa bàn hành chính của Dak Lak gồm 5 huyện và</b>
<b>1 thị xã: Krông Buk, Krông Pawc, Dak Mil, Dak Nông, Lak, thị xã Buôn</b>
<b>Ma Thuột.</b>


<b>Ngày 21/1/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08-NĐ/CP, chuyển</b>
<b>thị xã Buôn Ma Thuột thành thành phố trực thuộc tỉnh Dak Lak, lập thêm</b>
<b>hai phường mới, chuyển 3 xã qua huyện Ea Súp, 3 xã khác qua huyện Cư</b>
<b>Jút, 1 xã về huyện Krông Păc, Nghị định số 71/CP ngày 18/11/1996 của</b>
<b>Chính phủ cho phép việc thành lập thêm 4 phường mới thuộc thành phố</b>
<b>Buôn Ma Thuột. Như thế, trên địa bàn thành phố Bn Ma Thuột tính từ</b>
<b>thời điểm này có 18 phường, xã.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>triệu người, 44 dân tộc anh em, được phân bố trên 18 huyện, 1 thành phố,</b>
<b>đó là: Bn Ma Thuột, Huyện M’drăc, Ea Kar, Krông Păc, Krông Bông,</b>
<b>Lak, Ea H’leo, Krông Năng, Krông Buk, Cư M’gar, Buôn Đôn, Ea Súp,</b>
<b>Krông Ana, Cư Jút, Krông Nô, Dak Mil, Dak Song, Dak Nông, Dak R’lấp.</b>


<b>FHuyền thoại về Hồ Lak:</b>


<b>Đã từ lâu lắm rồi, thanh niên và dân làng đi săn, săn được nhiều thú</b>
<b>rừng họ cùng nhau ăn uống, nghỉ ngơi và chia thuốc hút, nhưng khơng có ai</b>
<b>có lửa. Y Biên là một chàng trai nhanh nhẹn, khoẻ mạnh đã tìm cách làm ra</b>
<b>lửa để hút thuốc. Thấy vậy, mọi người thách nhau: Y Biên làm ra lửa, vậy</b>
<b>đố ai làm cháy được nước?</b>



<b>Mọi người ồ lên: Làm sao mà cháy được nước?…</b>


<b>Dân làng nói như vậy, nhưng hai thanh niên Y Lắc và Y Liêng đã làm</b>
<b>cho nước cháy được. Dân làng bắt đầu lo sợ vì khơng cịn nước để uống như</b>
<b>ngày xưa nữa. Từ đó họ phải uống nước sương, và bắt Y Lắc, Y Liêng phải</b>
<b>làm nơ lệ cho dân làng.</b>


<b>Vì không quen làm nô lệ cho dân làng nên hai người bàn việc trốn đi.</b>
<b>Đang lúc nằm ngủ trên tảng đá to, Lắc và Liêng đã được Giàng đến mách</b>
<b>bảo:</b>


<b>-Ơ các con “Nếu các con biết chặt cây m’ơ thì có nước trong đó để</b>
<b>uống các con ạ!”</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>tràn ra ngoài, Y Lắc và Y Liêng càng đào rộng và sâu mãi. Khi đã được</b>
<b>nhiều nước, hai chàng khơng nói cho ai hay, dân làng cũng khơng ai hay.</b>


<b>Một lần do mải chơi với con lươn nên có con chó đến ăn vụng cơm</b>
<b>của hai chàng. Nhờ vậy, dân làng mới biết rõ Lắc và Liêng đã có nhiều</b>
<b>nước, nấu được nhiều cơm, nên họ mừng lắm. Để có được nước, dân làng</b>
<b>đổi hết nồi đồng, nồi đất, đổi hết chiêng ché cho Lắc và Liêng nên hai chàng</b>
<b>bỗng trở nên giàu có. Họ được trả tự do, và hồ nước đã trở thành của</b>
<b>chung, khơng ai cịn phải đổi chác gì nữa.</b>


<b>Con lươn của Lắc và Liêng mỗi ngày một lớn nên chỗ ở của nó ngày</b>
<b>càng trở nên chật chội. Một hôm lươn bảo với hai chàng trai: “Hãy làm cho</b>
<b>tôi hai cái sừng sắt cắm vào đầu tôi”. Hai chàng trai cùng họp với dân làng</b>
<b>nhưng chẳng ai làm ra vật bằng sắt được, chỉ có Y Biên, kẻ làm ra lửa nên</b>
<b>nung được sắt. Con lươn nhờ có sừng nên làm cho chỗ ở ngày càng rộng</b>
<b>hơn.</b>



<b>Chỗ ấy ngày nay là hồ Lak xinh đẹp và giàu có, trong xanh như chiếc</b>
<b>gường soi xinh xắn cho mọi người đến du ngoạn và nghỉ ngơi.</b>


<b>FDray H’Linh: (Thác nước mang tên nàng H’linh)</b>


<b>Chuyện xưa kể lại rằng: tại một bn làng Ê đê có đơi trai gái yêu</b>
<b>nhau say đắm. Chàng trai tên là Dam Yông, tuy nghèo khó nhưng siêng</b>
<b>năng, dũng cảm. Nàng H’Linh xinh đẹp có bờ tóc dài chấm gót như dịng</b>
<b>suối chảy, tính tình nết na, hiền hậu. Nhưng tình u của họ đã khơng vượt</b>
<b>qua được phong tục có tự ngàn đời do cả hai đều nghèo, khơng đủ trâu bị</b>
<b>để mời làng, khơng có nhiều ché rượu để cúng làng xin làm đám cưới.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<b>Một, hai, ba mùa làm rẫy, họ vẫn biệt tin nhau. Bao nhiều lần bồ câu</b>
<b>núi bay đi bay về, mà tin chàng Dam ng vẫn mãi biệt tăm. H’Linh vẫn</b>
<b>ngóng trơng với nỗi nhớ khắc khoải và thất vọng.</b>


<b>Nàng cất bước ra đi để tìm chàng nơi xa. Hết núi cao, sơng sâu, buôn</b>
<b>xa, vượt qua hàng ngàn con suối nhưng vẫn không thấy bóng Dam ng.</b>
<b>Bóng ơng mặt trời, tiếng vọng của rừng in bóng, vọng lời gọi của H’Linh.</b>
<b>Khi đến một dịng sơng lớn, nàng cất tiếng gọi tên chàng trong thất vọng, và</b>
<b>đã gieo mình xuống dịng sơng ấy.</b>


<b>Chàng Dam Yông, sau bao lần đi khắp buôn này, làng nọ, bao lần</b>
<b>nương rẫy bị thất bại, bao mùa rẫy đi qua mà của cải cải cũng chẳng có là</b>
<b>bao. Chàng trở về bn cũ thì được tin nàng đã đi tìm chàng. Chàng chạy</b>
<b>đi khắp nơi rừng sâu, núi cao, nhưng vẫn không gặp được nàng. Cuối cùng,</b>
<b>chàng cũng đến được bờ sơng, nơi nàng đã gieo mình. Tiếng gọi của chàng</b>
<b>vọng trong lịng sơng, lời suối, nhưng dịng sơng vẫn ào ào tn trơi. Chạng</b>
<b>đã gieo mình xuống dịng sông ấy. Họ đã tron nghĩa thuỷ chung, kết nên</b>


<b>một tình u đẹp làm rung động lịng người. Chỗ ấy ngày nay gọi là thác</b>
<b>Dray H’Linh, trên dịng sơng Sêrêpơk. Một cơng trình thuỷ điện mang tên</b>
<b>mối tình chung thuỷ, một tình yêu bất tử đã được xây dựng tại đây, tạo nên</b>
<b>dịng điện thắp sáng cho mọi bn làng.</b>


<b>FDray-Sáp (Thác Khói):</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<b>qi vật xịe đơi cánh lớn lượn mấy vòng, rồi phun nước tạo thành những</b>
<b>đám mưa dữ dội và bay đi mất. Cô gái sau giây phút khiếp đảm, giờ đã tan</b>
<b>biến trong lớp mây mù. Chàng trai thì đã biến thành một gốc cây lớn, cắm</b>
<b>sâu vào ghềnh đá. Chỗ ấy ngày nay là một dịng thác lớn cách thành phố</b>
<b>Bn Ma Thuột 30 cây số, gọi là thác Khói, tiếng Ê đê là Dray Sáp.</b>


<b>FKrơng Buk-Dịng sơng mái tóc</b>


<b>Krơng nghĩa là sơng, Buk là tóc. Ngày nay, nó trở thành tên gọi của</b>
<b>một huyện lỵ ở Dak Lak. Chuyện kể rằng: ngày xưa có H’Rinh và H’Rao là</b>
<b>hai cô gái xinh đẹp nổi tiếng trong vùng. Thân thể của H'Rinh đúc bằng</b>
<b>vàng, thân thể của H'Rao đúc bằng bạc. Mọi người đứng trước hai cơ gái</b>
<b>như đứng trước bơng hoa pơ lang, ngắm nhìn mãi khơng chán. Nhìn đằng</b>
<b>trước thấy dễ nhớ, nhìn đằng sau thấy dễ thương. Các chàng trai dềi mơ</b>
<b>ước, được cùng ăn chung mâm, được ở cùng nhà, được cùng chung chăn</b>
<b>gối với họ.</b>


<b>Chiều chiều, hai nàng rủ nhau ra bến nước, ra bờ suối hái rau, bắt cá,</b>
<b>hát múa, vui đùa. Một hôm H'Rinh và H'Rao tưởng thấy mắt mình như mờ</b>
<b>đi, bởi ngay trên mặt nước một chàng trai như đúc từ ánh trăng đã hiện lên</b>
<b>ở đó, rồi lên bờ ngồi câu cá. Chung quanh chàng hoa nở thơm ngát, chim</b>
<b>hót vang lừng. Trong giây phút đó, cả đôi bên đều sững sờ. Chàng trai đã</b>
<b>cùng hai cơ gái ngồi nói chuyện với nhau. Họ đã làm quen nhau như vậy.</b>



<b>Trời tối lúc nào họ cũng không hay. Những câu chuyện thơm như hoa</b>
<b>trái, nhiều như suối nguồn cứ tuôn mãi như không bao giờ dứt được. Họ</b>
<b>thấy có tình u rạo rực trong người.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<b>Chàng trai Y Krông được hai cô gái cắt nửa mái tóc của mình để làm</b>
<b>kỉ niệm. Y Krơng nắm lấy lọn tóc nhảy xuống dịng nước xiết để về với quê</b>
<b>hương thần nước. Hai nàng H'Rinh, H'Rao về nhà, ăn hạt cơm không vô</b>
<b>bụng, nước mắt cứ như từ trong hang đá tuôn trào. Bảy đêm không ngủ,</b>
<b>bảy ngày khơng ăn, H'Rinh chết hố thành hoa sen trắng, H'Rao chết hoá</b>
<b>thành rau dezamea-tang mọc dọc bờ suối để mong có ngày gặp lại chàng</b>
<b>trai Y Krơng. Đến nay vùng đất đó mang tên Krơng Buk.</b>


<b>FBn Ma Thuột-Vùng đất được phát hiện từ công cụ</b>


<b>Người ta kể rằng: xưa kia vùng đất này cịn hoang sơ lắm, chỉ có dăm</b>
<b>ba ngôi làng của đồng bào Ê đê sinh sống. Nhưng họ cũng chẳng được yên</b>
<b>bởi những cuộc xâm lược chinh plục lẫn nhau giữa các nước láng giềng.</b>
<b>Ngày đó, ở một làng Ê đê Kpă có một gia đình ngày ngày lên nương. Những</b>
<b>lúc rảnh rỗi, chú bé tên là Thuột thường men theo bờ suối nhỏ dạo chơi.</b>
<b>Một lần, chú phát hiện được một con dao cạnh bờ suối. Chuyện tìm được</b>
<b>con dao q, làm được nơng cụ tốt, khiến cho mọi người tụ tập đến sinh</b>
<b>sống tại vùng đất này ngày càng nhiều. Năm 1904 Buôn Ma Thuột được</b>
<b>Pháp đặt làm Đại lý hành chính. Ama là cha, Thuột là tên con.</b>


<b>FKrơng Nơ (Krơng là sơng, Nơ-đực)</b>


<b>Đó là địa danh của một vùng đất mà nay cũng đã trở thành một</b>
<b>huyện của tỉnh Dak Lak. Đó cũng là tên một con sơng. Có lẽ xuất phát từ</b>
<b>câu chuyện cổ tích được lưu truyền lại ở vùng này: Chuyện 7 anh em nhà</b>


<b>Krơng Pha kể rằng: xưa kia có một cô gái Ê đê khoẻ mạnh và xinh đẹp. Cô</b>
<b>gái đi rừng khát nước, liền cầm dao chặt bảy ống nứa, trong đó mỗi ống chỉ</b>
<b>có một ngụm nước uống. Về nhà cơ gái có mang và sinh được 7 chàng trai</b>
<b>kì lạ. Mới lọt lịng họ đã to lớn như những chàng dũng sĩ. Bảy người nhảy</b>
<b>qua 7 ngọn núi, 7 con sông xong mới chịu về để mẹ cắt rốn.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<b>anh em Krông Pha đã lập được nhiều chiến công to lớn, trừ được hạn hán,</b>
<b>dẹp được lũ lụt, diệt trừ lũ mtao độc ác để cứu sống các cô gái xinh đẹp và</b>
<b>bảo vệ cuộc sống của cộng đồng.</b>


<b>Câu chuyện trên phản ánh mơ ước về việc đấu tranh chinh phục</b>
<b>thiên nhiên, cải tạo xã hội, chống lại các thế lực ác độc, xây dựng và phát</b>
<b>triển buôn làng cộng đồng. Tên gọi trên còn phản ánh sức sống mãnh liệt</b>
<b>của một vùng đất.</b>


<b>FThác nước la Ly (Thác nước nàng Ly)</b>


<b>Thuở xa xưa có nàng Ly cùng đem lòng yêu thương hai chàng trai</b>
<b>Rook và Seek (là hai anh em). Nàng Ly lại không thể bắt cung lúc hai người</b>
<b>làm chồng mình nên đêm đêm Ly nằm bên đống lửa thổi đinh yơng. Tiếng</b>
<b>đing yơng cùng làm cho hai chàng trai ngơ ngẩn. Rook và Seek hai anh em</b>
<b>rất thương nhau nên cái gì họ cũng nhường nhau, cũng lo cho nhau. Họ</b>
<b>thương nhau nhiều hơn đá núi, cùng nhau lên rừng bắt cọp, xuống thác bắt</b>
<b>con cá chình, cùng nhau bắn gãy cánh con chồn bay, bắt con rắn độc… Vậy</b>
<b>nhưng tình yêu với nàng Ly thì khơng ai nhường cho ai cả. Nàng Ly nói:</b>
<b>“Anh Rook, em ưng chặn dịng nước Sê San lại quá!”, lập tức chàng Rook</b>
<b>vươn sức vai trẻ lên tận núi nhà trời. Rầm một cái, đỉnh núi chuyển mình</b>
<b>nơi chàng ghé vai vào. Núi lở lấp dịng Sê San…</b>


<b>Nàng Ly lại nói: “Ơ anh Seek, em ưng khơi lại dòng Sê San cho nước</b>


<b>chảy về hướng tây quá!”, thế là chàng Seek oằn lưng, vươn sức vai trẻ lên</b>
<b>tận đất nhà trời. Một lằn chớp xé ngang chân núi, tiếng nứt đá lở ầm ầm,</b>
<b>rồi dòng Sê San bị lấp giờ uốn mình vươn lên hướng tây, chảy ào ào dưới</b>
<b>chân dãy núi lớn bao đời khô khát.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>hai đỉnh non cao ấy, thành ra con thác với tên gọi la Ly.</b>


<b>FDựng lại thời tiền sử từ lịng đất Tây Ngun</b>


<b>Với mục đích giải phóng lịng hồ phục vụ tích nước cho nhà máy thuỷ</b>
<b>điện Yaly, thu thập di tích và di vật khảo cổ, góp phần dựng lại bức tranh</b>
<b>tồn cảnh về q khứ xa xưa của các cộng đồng cư dân cổ đã cư trú ở khu</b>
<b>vưc xã Sa Bình, huyện Sa Thầy; được sự đồng ý của Bộ Văn hố-Thơng tin,</b>
<b>từ đầu tháng 6-2001, Phó Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử, Trưởng phòng</b>
<b>nghiên cứu Thời đại đá(Viện khảo cổ học) làm trưởng đoàn cùng hầu hết</b>
<b>chuyên gia hàng đầu của ngành khảo cổ học Việt Nam đã có mặt tại Lung</b>
<b>Leng. Chỉ riêng Viện khảo cổ học Việt Nam đã cử tới đây hơn 40 người, với</b>
<b>2 phó giáo sư, 12 tiến sĩ, còn lại đều là thạc sĩ chuyên ngành. Vào thời điểm</b>
<b>này tại Lung Leng cũng có hơn 600 lao động làm việc thường xuyên trên</b>
<b>công trường cùng với nhiều trang thiết bị hiện đại. Trên một diện tích khai</b>
<b>quật hơn 10.000m2<sub>,các nhà khảo cổ học đã mở được gần 100 hố, mỗi hố có</sub></b>


<b>diện tích 100m2<sub>.</sub></b>


<b>Qua hai đợt khai quật, các nhà khoa học đã thu được gần 30 tấn hiện</b>
<b>vật, gồm 8000 tiêu bản đá, hàng triệu mảnh gốm, trên 100 mộ nồi vò, gần 40</b>
<b>khu bếp, lò nung, cùng với các hiện vật như chuỗi đã, rìu, chận đèn, bát…</b>
<b>Trong tầng văn hoá, các nhà khoa học cịn tìm thấy một số đồ gốm sứ có</b>
<b>niên đại từ thế kỳ 14 trở lại, trong đó có cả gốm sứ Việt Nam. Đó là kết quả</b>
<b>các nhà khảo cổ học thu được ở di chỉ khảo cổ Lung Leng (thuộc xã Sa</b>


<b>Bình, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum). Đây là vết tích văn hố từ thời đại đá</b>
<b>cũ, đến hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<b>mài rất sắc nét, hồn thiện như rìu, bàn mài, chân đèn. Đặc biệt các nhà</b>
<b>khảo cổ đã tìm thấy những viên đá cuội trịn dẹt, được đục lỗ và chế tác đến</b>
<b>độ tinh xảo thời đó. Các chuyên gia cũng nhận định, qua nghiên cứu những</b>
<b>di vật thu lượm được thì cư dân tiền sử vùng Lung Leng này khơng chỉ đạt</b>
<b>trình độ cao về kỹ thuật mài đá, chế tác cơng cụ, mà họ cịn là những người</b>
<b>thợ chế tác gốm rất giỏi. Từ thời sơ khai đó, họ đã biết pha chế một tỉ lệ đất</b>
<b>sét thích hợp với cát, bã thực vật và hiểu rõ kỹ thuật đắp lò nung gốm để</b>
<b>chế tác từng loại vật dụng sinh hoạt như chén, bát, chân đèn, đồ trang sức</b>
<b>với nhiều nghệ thuật, kích thước khác nhau., Phó Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn</b>
<b>Khắc Sử cho biết đây là một trong những di tích khảo cổ học có tầng văn</b>
<b>hố dày, có quy mơ lớn và chứa đựng vết tích văn hố nhiều thời đại. Chính</b>
<b>tồn bộ những tư liệu khai quật của đợt này sẽ góp phần nghiên cứu thời kỳ</b>
<b>quá khứ xa xưa của Tây Nguyên, để minh chứng Tây Nguyên trong quá</b>
<b>khứ là một vùng năng động và có sự giao lưu rộng mở. Ơ đây đã chứa đựng</b>
<b>vết tích văn hố của những cư dân từ xa xưa cho đến giai đoạn bước vào</b>
<b>văn minh. Khai quật di chỉ lần này chính là giải phóng khỏi lịng hồ của</b>
<b>thuỷ điện Yaly một di tích quan trọng để các nhà làm điện ở Việt Nam có</b>
<b>thể yên tâm trữ nước, chủ động các vấn đề phát điện và cung cấp điện cho</b>
<b>đồng bào các dân tộc bản địa biết được di tích văn hố lịch sử của mình và</b>
<b>càng thêm yêu quý mảnh đất quê hương của chính mình.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

 <b>Di tích lịch sử cách mạng:</b>


<b>1. Ngã ba Tuy Đức, thuộc địa bàn 2 xã: Quảng Trực và Dak Bul So,</b>
<b>huyện Dak R'Lấp. Đây là chứng tích của cuộc khởi nghĩa của Nơ Trang</b>
<b>Lơng-thủ lĩnh của nghĩa quân M’nông-Stiêng hồi đầu thế kỉ XX.</b>



<b>1. Ngục Dak Mil, thị trấn Dak Mil. Nơi giam giữ, đày ải các chiến sĩ</b>
<b>cách mạng giai đoạn 1936-1943, có mối liên hệ với Nhà đày Bn Ma</b>
<b>Thuột.</b>


<b>1. Bn Cháy, thuộc xã EEEa Mró, huyện Cư M’gả. Buôn căn cứ cách</b>
<b>mạng của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ.</b>


<b>1. Nhà số 57, Lý Thường Kiệt, Buôn Ma Thuột-nơi tổ chức hội nghị</b>
<b>khẩn cấp của Ban lãnh đạo lâm thời tỉnh Dak Lak trong cách mạng tháng</b>
<b>Tám năm 1945.</b>


<b>1. Nhà số 04, Nguyễn Du, thành phố Buôn Ma Thuột. Trụ sở Hội đồng</b>
<b>cách mạng của tỉnh trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.</b>


<b>1. Đình Lạc Giao, số 45 Phan Bội Châu-Buôn Ma Thuột, nơi gặp gỡ đầu</b>
<b>tiên giữa người Kinh và người Thượng. Nơi ra mắt Uỷ ban quân quản đầu</b>
<b>tiên sau giải phóng 1975.</b>


<b>1. Nhà đày Buôn Ma Thuột, số 18 Tán Thuật, Buôn Ma Thuột-nơi đày</b>
<b>ải giam giữ các chiến sĩ cách mạng thời kì 1930-1045. Nơi gieo hạt mầm</b>
<b>cách mạng đầu tiên cho tỉnh Dak Lak.</b>


<b>1. Đèo Phượng Hoàng, km 114-upload.123doc.net, quốc lộ 26, xã Ea</b>
<b>Trang, M’drak-nơi diễn ra trận đánh lịch sử giữa ta và địch mở ra cục diện</b>
<b>mới cho cách mạng miền Nam.</b>


<b>1. Hang đá buôn Dak Tuôr, xã Cư Pui, huyện Krông Bông-căn cứ cách</b>
<b>mạng của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>1. Căn cứ H3 và H7, buôn Dliê Ya, xã Dliê Ya, huyện Krông Năng, căn</b>


<b>cứ cách mạng của ta qua hai cuộc kháng chiến.</b>


<b>1. CADA, xã Ea Yoong, huyện Krơng Păc, nơi hình thành và ra đời giai</b>
<b>cấp công nhân, chi bộ Đảng, lực lượng vũ trang đầu tiên ở Dak Lak.</b>


<b>1. Hang đá Khuê Ngọc Điền, thôn 2, xã Khuê Ngọc Điền, huyện Krông</b>
<b>Bông-cơ quan đầu não của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ.</b>


<b>1. Hang đá Bn Lung, thơn 2, xã Hồ Sơn, huyện Krông Bông-căn cứ</b>
<b>cách mạng của Thành uỷ thành phố Buôn Ma Thuột.</b>


<b>1. Buôn Trinh, xã Ea Bang, huyện Krông Buk-căn cứ cách mạng của</b>
<b>tỉnh qua hai cuộc kháng chiến.</b>


<b>1. Cây đa T50 (cây đa liên lạc), thôn 1, xã Hịa Phong, huyện Krơng</b>
<b>Bơng. Nơi làm hịm thư bí mật của lực lượng vũ trang và tổ chức Đảng của</b>
<b>tỉnh tong kháng chiến chống Mỹ.</b>


<b>1. Đồi Chư Cúc, xã Ea Kmút, Ea Kar. Nơi đây, năm 1975 diệt 2 đại đội</b>
<b>Bảo an, bắn rơi máy bay chở chuẩn tướng Lê Trung Lương, tư lệnh F23</b>
<b>nguỵ.</b>


<b>1. Tượng đài Mậu Thân, km5, ngã ba Hồ Bình, phường Tân Hồ,</b>
<b>Bn Ma Thuột-tưởng nhớ những bà mẹ anh hùng quyết tử cho Tổ quốc</b>
<b>quyết sinh.</b>


<b>1. Căn cứ kháng chiến Nam Nung, xã Nam Nung, huyện Krông Nô.</b>
<b>1. Đồi Mậu Thân (cao điểm 722) thơn Thọ Hồng, xã Dak Sắc, Dak Mil</b>
<b>có trên 300 chiến sĩ giải phóng hy sinh. Đặc biệt là nơi diễn ra trận đánh</b>
<b>không cân sức giữa ta và địch trong xuân Mậu Thân 1986, 85 chiến sĩ đã hy</b>


<b>sinh trong trận này.</b>


<b>1. Hộp thư giao liên (hành lang Dak Mil)-điểm liên lạc thông đường từ</b>
<b>Khu 5 đến miền Đông nam bộ.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>Lập, xuân 1975 tại thị trấn Dak Mil, huyện Dak Mil.</b>


<b>1. Hang Ba tầng, xã Krông Nô, huyện Lak, là căn cứ địa cách mạng của</b>
<b>tỉnh từ 1958-1963.</b>


 <b>Di tích lịch sử văn hố:</b>


<b>2. Bn 1 và 2 xã Ea Súp-làng văn hố.</b>


<b>3. Chùa Hồ Khai, thơn Quảng Hồ, xã Đạo Nghĩa, Dak R’lấp, nơi sinh</b>
<b>hoạt văn hoá cộng đồng của bà con khu vực dinh điền Đạo Nghĩa từ năm</b>
<b>1960 đến nay.</b>


 <b>Di tích kiến trúc nghệ thuật-kiến trúc tơn giáo:</b>
<b>4. Tượng đài thành quả, thị trấn Ea Knốp, Ea Kar.</b>
<b>5. Đài tưởng niệm Ea Phê, xã Ea Phê, Krông Pắc.</b>
<b>6. Tượng đài Bác Hồ, thị trân Buôn Hồ, Krông Buk</b>
<b>7. Tượng đài chiến thắng Buôn Ma Thuột, ngã 6</b>


<b>8. Chùa Khải Đoan, đường Phan Bội Châu, phường Thống Nhất.</b>
<b>9. Chùa An Lạc, thôn An Lạc, TT Buôn Hồ, Krông Buk</b>


<b>10. Chùa Pháp Hoa, xã Quảng Thành, Dak Nông</b>
<b>11. Tháp Yang Prong, xã Ea Rôk, huyện Ea Súp</b>



<b>12. Đền thờ Trần Hưng Đạo, thôn An Lạc, TT Buôn Hồ, Krông Buk</b>
<b>13. Mộ thầy giáo Y Jut, buôn Păn Lăm, phường Tân Lập, Buôn Ma</b>
<b>Thuột</b>


<b>14. Mộ Khun Ju Nốp, xã Krông Ana, Buôn Đôn.</b>


<b>15. Nhà dài Ê đê, buôn Păn Lăm, phường Tân Lập, Buôn Ma Thuột.</b>
<b>16. Nhà cổ kiến trúc Lào, Krơng Ana, Bn Đơn.</b>


 <b>Di tích khảo cổ:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>18. Khu mộ táng Ea Knuếch, xã Eea Ktuôr, Krông Ana</b>
<b>19. Mộ Chăm cổ, thơn 2, xã Hồ Sơn, Krơng Bơng.</b>
<b>20. Phế tích Chăm, thơn 3, xã Hồ Thành, Krơng Bơng</b>
<b>21. Đồi ơng Hồng, thơn Quảng Trụ, xã Bn Triết, Lak</b>


<b>22. Vườn nhà ông Nam thôn 13, xã Ea Riêng, M’drak-nơi phát hiện</b>
<b>trống đồng</b>


<b>23. Vườn nhà ơng hố thơn 13, xã Ea Bal, Ea Kar-nơi phát hiện trống</b>
<b>đồng</b>


<b>24. Bãi đá Kang Giang, suối Eea Kmốc, xã Ea H’leo, huyện Ea H’leo.</b>
 <b>Danh lam thắng cảnh:</b>


<b>25. Thác Diệu Thanh, xã Nhơn Cơ, Dak R’lấp</b>
<b>26. Thác Ba tầng, lâm trường Nghĩa Tín, Dak Nông</b>
<b>27. Thác Gia Long, xã Ea Na, Krông Ana</b>


<b>28. Thác Khói (Dray Sáp), xã Dak Sơ, Krơng Nơ</b>


<b>29. Thác Trinh Nữ, Thị Trấn Ea T’linh, Cư Jut</b>
<b>30. Thác Dray H’linh, xã Hoà Phú, Cư Jut</b>


<b>31. Thác Ba Tầng (Dray Dlon), xã Ea M’rốc, Cư M’gar</b>
<b>32. Đồi Cư H’lâm, Xã Ea Pôk, Cư M’gar</b>


<b>33. Thác Suối Mơ, Xã Ea Vi, Huyện Ea H’leo</b>


<b>34. Vườn quốc gia Yook Đôn, Xã Krông Ana, Buôn Đôn</b>
<b>35. Rừng thuỷ tùng, Xã Ea Ral, Huyện Ea H’leo</b>


<b>36. Thắng cảnh hồ Lak, thị trấn Liên Sơn, Lak</b>


<b>37. Thác Krông Kma, Xã Khuê Ngọc Điền, Krông Bông</b>
<b>38. Thác Thuỷ Tiên, xã Tam Giang, Krông Năng</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b>40. Hồ Ea Súp, xã Ea Súp, huyện Ea Súp</b>
<b>41. Hồ Trúc, Thị Trấn Ea T’linh, Cư Jut</b>
<b>42. Thác Drai Si, Xã Ea Ta, Cư Jut</b>


<b>43. Thác Sương Mù (Drai Dhul), Xã Ea Tul, Cư M’gar</b>
<b>44. Thác Ea M’năng, Xã Ea M’năng, Cư M’gar</b>


<b>45. Hồ Dỗn Văn, thơn 2 xã Dak Rtik, Dak R’lấp</b>
<b>46. Ea Đờn, Xã Quảng Điền, Krông Ana</b>


<b>47. Hồ Sa Nô, Xã Dak Rồ, Krông Nô</b>
<b>1. Thác Dak Tel, Xã Dak Mol, Dak Mil</b>
<b>1. Hồ Tây, Thị Trấn Dak Mil, Dak Mil</b>



<b>VĂN BẢN 2.</b>


<b> A. PHẦN MỞ ĐẦU</b>
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:


<i>a.</i> <i><b>Chủ trương đổi mới của Đảng và nhà nước ta đối với sự nghiệp Giáo</b></i>
<i><b>dục và Đào tạo, nhất là đổi mới phương pháp dạy - học:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

cố và hoàn thiện thêm đường lối đổi mới trong đó coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu và đề cao “chiến lược con người”. Đổi mới giáo dục trước hết là đổi
mới phương pháp dạy – học. Lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực
học tấp của học sinh là hướng chủ đạo về đổi mới phương pháp. Để thực hiện
được chiến lược của đảng và nhà nước, rõ ràng không thể xem nhẹ việc giáo dục
lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần dân tộc và đặc biệt là thái độ của lớp trẻ
đối với lịch sử, đối với cội nguồn, đó chính là những viên đá đặt nền móng cho
sự nghiệp hiện đại hố-cơng nghiệp hoá để đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, trở thành giàu mạnh và phồn vinh.


<i>b.</i> <i><b>Chủ trương của đảng và nhà nước trong việc gìn giữ và phát huy vốn</b></i>
<i><b>văn hoá truyền thống và bản sắc dân tộc.</b></i>


Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, trong nghị quyết của mình, Đảng ta
chỉ ra rằng cần thiết phải xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc theo định hướng XHCN. Tiếp đó, đại hội lần thứ VIII của Đảng cũng đã
nhận định: trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa giao lưu trong quan hệ
quốc tế có rất nhiều sự tác động tiêu cực từ bên ngoài làm ảnh hưởng xấu đến tư
tưởng, đạo đức, lối sống và cách nghĩ của nhiều người, nhất là giới trẻ. Vì vậy,
cần phải có những chính sách, giải pháp kịp thời và khả thi trong việc giáo dục
truyền thống tốt đẹp của cha ông, của đất nước đối với lớp trẻ. Mỗi công dân


trong tương lai phải ý thức được rằng tất cả những gì chúng ta có được ngày nay
đều được đánh đổi bằng xương máu của cha ông chúng ta, do đó chúng ta khơng
ai được phép qn đi nguồn cội của mình. Để làm được điều này, nghị quyết của
Đảng cũng chỉ ra rằng cần phải khôi phục, tơn tạo và giữ gìn những di tích lịch
sử-văn hố của dân tộc.


<i><b>c. Vị trí - vai trị của Lịch sử địa phương</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

khác, lịch sử dân tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử
địa phương đã được khái quát và tổng hợp ở mức độ cao.


Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra
đều mang tính chất địa phương, vì nó gắn với một vị trí khơng gian cụ thể của
một địa phương nhất định dù rằng các sự kiện đó có tích chất, quy mơ và mức
độ ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh
hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng cũng có những sự kiện, hiện tượng mà tác
động của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm
chí là ý nghĩa quốc tế. Mặt khác, tìm hiểu về lịch sử địa phương không chỉ riêng
là việc của các nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người. Từ thời cổ
đại, Xixirơn - một chính trị gia nổi tiếng của La Mã đã nói: “Lịch sử là cơ giáo
của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả
sự am tường cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về quê hương, xứ sở, nơi
chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch
sử dân tộc. Chính Bác Hồ kính yêu, vừa là vị lãnh tụ thiên tài, vừa là nhà sử học
đã dạy rằng:


“Dân ta phải biết sử ta


Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
<i>(Hồ Chí Minh – Lịch sử nước ta)</i>



<i><b>d. Chủ trương kế hoạch đổi mới chương trình sách giáo khoa lớp 7</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

cở sở pháp lý, pháp lệnh trong việc đổi mới dạy và học.
2. Cơ sở thực tiễn


<i><b>a. Thực tiễn dạy và học lịch sử địa phương trong trường học nói chung và</b></i>
<i><b>ở cấp THCS nói riêng</b></i>


Trên thế giới, nhất là ở các nước tiên tiến, công tác nghiên cứu và giảng dạy
lịch sử địa phương rất được chú trọng. Ngành “địa phương học” đã ra đời và
cóvị trí, vai trò đáng tin cậy trong việc hoạch định và thực thi những nhiệm vụ
kinh tế - xã hội của từng địa phương trong tổng thể chiến lược quốc gia. Nghiên
cứu, tìm hiểu Lịch sử địa phương khơng chỉ là công việc của giới nghiên cứu mà
đã được xã hội hoá, thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhiều tầng lớp và
nhiều ngành, trong đó ngành cơng nghiệp du lịch là đáng kể nhất. Đặc biệt,
trong thời kỳ đổi mới và mở rộng giao lưu quốc tế, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu
lịch sử địa phương lại càng được chú trọng.


Ơ nước ta, việc nghiên cứu lịch sử địa phương, với tư cách là một ngành
khoa học được bắt đầu từ sau ngày hồ bình lập lại ở miền Bắc. Từ sau ngày
miền Nam giải phóng, cơng tác này được tiến hành trên phạm vi cả nước. Hầu
hết các tỉnh đã biên soạn được lịch sử của tỉnh và kể cả của huyện, xã. Tuy
nhiên, việc dạy và học lịch sử địa phương chưa được tiến hành đều khắp trong
phạm vi cả nước mà mới chỉ dừng lại ở một số điển hình như: trường THCS Bắc
Lý, THCS Lê Hồng Phong (Nam Định); THCS Trưng Vương, THCS Thăng
Long (Hà Nội)… Đối với các tỉnh miền núi thì cơng tác này hầu như chưa được
coi trọng. Hiện trạng trên là do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan
mà chúng ta đều đã biết như: địa hình phức tạp, giao thông cách trở,thiếu cán bộ
nghiên cứu, thiếu kinh phí đầu tư thích đáng, chế độ, chính sách đối với những


người làm công tác nghiên cứu chưa hợp lý… Trong điều kiện đó, tơi thiết nghĩ
rằng việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương trước hết là trách nhiệm của
đội ngũ giáo viên dạy bộ môn Lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta, mỗi tấc đất đều thắm đượm
máu cha ông và ghi dấu những trang oanh liệt của cuộc đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Mỗi tên đất, tên người đều là một niềm tự hào của cả dân tộc. Có thể
khẳng định rằng: không một địa danh nào của dân tộc ta là không gắn liền với
một sự kiện lịch sử nào đó. Người ngoại quốc đã phải thốt lên rằng:


“…Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng !


Đến em thơ cũng hoá những anh hùng
Đến ong dại cũng hoá thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng trở thành vũ khí…”
<i>(Tố Hữu tuyển tập–NXB Văn học)</i>


Ở Dak Lak, mảnh đất chứa đựng trong lịng nó tính đặc sắc của nền văn
hố các dân tộc thiểu số cũng là một kho tư liệu hết sức phong phú về lịch sử địa
phương. (Xem phần phụ lục). Vì lẽ đó, khơng có lí do nào để chúng ta-những
người dạy sử lại bỏ trống mảng này. Cá nhân tôi cho rằng, với nguồn tư liệu sử
địa phương hết sức phong phú như vậy thì bốn tiết trong phân phối chương trình
quả là q ít bởi vì chúng ta có quá nhiều điều cần giảng dạy cho các em và các
em cũng có quá nhiều điều chưa biết.


<i><b>c. Kết cấu chương trình sách giáo khoa Lịch sử lớp 7 mới:</b></i>


So với chương trình SGK Lịch sử lớp 7 cũ, sự khác và mới của SGK mới
rất cơ bản và quan trọng. Chủ yếu sự thay đổi thể hiện tập trung ở các mặt sau:



- Thêm phần Lịch sử thế giới trung đại (9 tiết). Đây là phần kiến thức hồn
tồn mới mà SGK cũ khơng có.


 Lượng kiến thức được “giản hố” dưới những hình thức khác nhau nên
kết cấu một số bài cũng có thay đổi.


 Thêm 4 tiết lịch sử Địa phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

“vốn” thực tế chun mơn thì lại càng địi hỏi chúng ta phải sớm có giải pháp
giúp các em vượt qua được khó khăn đó.


Về mặt nội dung, SGK mới có tổng số tiết là 57. Chương trình SGK mới có
thêm phần Lịch sử thế giới trung đại: 9 tiết, kể cả 1 tiết ôn tập. Như vậy, dung
lượng kiến thức được tăng lên. Điều này hoàn toàn mới, chắc chắn sẽ gây nên sự
lúng túng đối với giáo viên nhưng theo chúng tôi lại rất cần thiết và tỷ lệ 9/57
cũng là hợp lý. Có thêm phần lịch sử thế giới cả thầy và trị sẽ hồn thiện hơn
trong việc nhận thức và tiếp thu trên cơ sở so sánh lịch sử Việt Nam với lịch sử
thế giới. Chúng ta đều biết rằng, so sánh là một thao tác <i>(phương pháp) nhận</i>
thức rất cần thiết đối với mơn Lịch sử.


Về hình thức, SGK mới khổ rộng hơn, in ấn rõ nét hơn, bố cục chương mục
hợp lý và ấn tượng hơn. Điều quan trọng hơn cả là hầu hết các mục, các ý đều
có tranh, ảnh, biểu đồ, lược đồ minh hoạ rất rõ nét. Kết thúc mỗi mục đều có câu
hỏi mang tính chất củng cố, kiểm tra. Thỉnh thoảng lại có những câu danh ngơn,
thơ, ca dao để nhằm khắc hoạ một cách khái quát tư tưởng, ý nghĩa của một bài
học nhất định nào đó.


<i><b>c. Tiếp tục hồn thiện, phát triển việc nghiên cứu đề tài của các năm</b></i>
<i><b>trước.</b></i>



Trong khi chỉ đạo tổ làm đề tài khoa học, nhận thức được mảng lịch sử địa
phương còn “trống” về tài liệu hướng dẫn giảng dạy, các đồng chí có trách
nhiệm đã gợi ý cho tơi nghiên cứu đề tài này. Đó là Thạc sỹ lịch sử Lê Xuân
Diệu, cử nhân lịch sử Lê Xuân Mợi. Với tinh thần trên, năm 2003, tơi đã hồn
thành đề tài “Khai thác và vận dụng kiến thức lịch sử như thế nào để giảng
<i><b>dạy các bài lịch sử địa phương ở chương trình lịch sử lớp 6 mới – bậc THCS”</b></i>
và được Hội đồng khoa học cấp trường xếp loại A. Năm nay, cũng theo sự chỉ
đạo này, tôi tiếp tục phát triển đề tài này ở chương trình và Sách giáo khoa lớp
Bảy. Một lần nữa, cho tôi được nói lới cảm ơn của cá nhân tơi về sự quan tâm
chỉ đạo của các anh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Thực ra, nội dung này chúng tôi đã nêu rõ ở phần “Lý do chọn đề tài”
nhưng do yêu cầu của Hội đồng khoa học nên chúng tơi tóm lược lại như sau:


<i>1.Thứ nhất, đề tài nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu cấp bách của giáo viên</i>
dạy Lịch sử THCS về mặt tài liệu phương pháp giảng dạy. Trong điều kiện tài
liệu hướng dẫn của Bộ cũng như của Sở GD & ĐT chưa có thì giáo sinh và kể
cả giáo viên đang dạy chỉ biết hy vọng vào người thầy của họ. Do vậy, tôi hy
vọng đề tài của tôi sẽ giúp các em phần nào khắc phục được khó khăn trong việc
giảng dạy chương trình SGK mới, phần Lịch sử địa phương. Ngay từ khi mới
tập huấn về vấn đề thay sách, rất nhiều giáo viên THCS là học sinh cũ trước đây
của tơi đã tìm gặp tôi để hỏi ý kiến và mượn tài liệu về phần này. Đó chính là
vấn đề chủ yếu thơi thúc tôi thực hiện đề tài này ở cả cấp THCS càng sớm càng
tốt.


<i>2.Thứ hai, Thông qua việc giảng dạy Lịch sử địa phương, đề tài góp phần</i>
nâng cao sự hiểu biết của các em học sinh về nguồn kiến thức lịch sử địa
phương hết sức phong phú và quý giá. Chính những kiến thức đó có ngay xung
quanh các em, các em bắt gặp, tiếp xúc thường xuyên nhưng các em chưa hiểu
được vì chưa có ai giảng giải cho các em hiểu được một cách tường tận về


nguồn gốc, nội dung cũng như ý nghĩa của từng sự kiên, hiện tượng lịch sử đó.
Để làm được điều này khơng phải là ngày một, ngày hai song chúng ta hoàn
toàn tin tưởng rằng, sự đóng góp của chúng ta sẽ là viên gạch dần dần xây nên
bức tường. Tâm lý chung của con người, nhất là người Á đông chúng ta là
hướng về nguồn cội. Ai cũng có một quê hương, một nơi chơn nhau cắt rốn, nơi
mà từ đó ta được nuôi dưỡng, trưởng thành và trở thành máu thịt trong mỗi
chúng ta và ai cũng có quyền tự hào về nơi ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

cảm, nhận thức cảm tính đang giữ vai trị, vị trí to lớn. Việc đặt những viên gạch
nền móng ban đầu cực kỳ có ý nghĩa đối với các em trên con đường hình thành
cách nhìn, thái độ đúng đắn đối với quê hương, xứ sở của mình. Mặt khác,
chúng ta khơng thể khơng nhắc tới một thực tế đau lòng là trong nhiều năm gần
đây, DakLak chúng ta cũng như nhiều tỉnh khác đang có hiện tượng mà người ta
quen gọi là “chảy máu chất xám” về các thành phố lớn. Các em học sinh học
giỏi, thành đạt trên con đường học vấn thì bằng cách này hay cách khác ở lại
cơng tác, lập nghiệp tại những thành phố, trung tâm lớn. Gạt sang một bên
những nguyên nhân thuộc về chế độ, chính sách thì thử hỏi chúng ta có trách
nhiệm gì khơng trước thái độ ngoảnh mặt, thờ ơ với quê hương của các em.
Thông qua việc giáo dục, giảng dạy về Lịch sử địa phương, tức là về những sự
kiện, hiện tượng xung quanh các em, liên quan đến các em để giúp các em hình
thành ý thức trách nhiệm của chính bản thân mình với q hương, xứ sở.


<b> III. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI</b>


Chủ trương thay sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và đào tạo đã được chuẩn
bị chu đáo từ lâu. Kèm theo SGK mới là tài liệu hướng dẫn giảng dạy gọi là “
Sách giáo viên”. Tuy vậy, phần Lịch sử địa phương dù đã có hướng dẫn nhưng
cũng mới chỉ là những gợi ý định hướng mang tính chất lý thuyết chung. Điều
này cũng hồn tồn dễ hiểu vì tính đặc trưng của Lịch sử địa phương là đa dạng,
phong phú nhưng cũng rất phức tạp. Do đó, đề tài của tơi giới hạn trong khn


khổ: “Hướng dẫn giảng dạy phần Lịch sử địa phương và thiết kế bài giảng
<i><b>cho 2 tiết Lịch sử địa phương ở chương trình SGK Lịch sử lớp 7 mới”. Cụ thể</b></i>
hơn là việc soạn giáo ánvà hướng dẫn giảng dạy cho hai tiết Lịch sử địa phương:
bài 31 và bài 33.


IV. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI


Về Lịch sử địa phương cũng như phương pháp sưu tầm, nghiên cứu và biên
soạn Lịch sử địa phương đã có rất nhiều nhà khoa học cũng như nhà sư phạm đề
cập đến. Riêng phần Lịch sử DakLak, đáng kể nhất là các cơng trình:


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

bản năm 1981.


+ “Tây nguyên sử lược”- T/s Phan Văn Bé- xuất bản năm 1993


+ “Dak Lak trước ngưỡng cửa năm 2000” - NXB Văn hóa- thơng tin tỉnh
Dak Lak


+ “Việc dạy học lịch sử địa phương ở các trườngTHPT tỉnh DakLak”- Luận
án SĐH của Phan Văn Bé.


+ Các bài viết của các học giả Phan Ngọc Liên, Nguyễn Phan Quang…về
Lịch sử Daklak đăng trên tạp chí nghiên cứu Đơng nam Á, tạp chí nghiên cứu
Lịch sử…


+ Các cơng trình nghiên cứu lịch sử của đảng bộ thành phố Ban Mê Thuột và
các huyện Krơng Ana, Krơng Pắc…


Nhìn chung, các cơng trình, bài viết về Lịch sử địa phương Daklak đã có
cho tới hiện nay hầu hết là những cơng trình mang tính khảo cứu.



V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


1. Như đã xác định, đối tượng, phạm vi vận dụng của đề tài là chương trình
Lịch sử lớp 7, cụ thể là phần Lịch sử địa phương. Vì vậy, trước hết cần phải
<i><b>nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa mới này. Trong khi thực hiện công</b></i>
đoạn này, cần phải liên hệ, so sánh nó với chương trình SGK cũ, rút ra những
điểm khác, mới để từ đó rút ra được mục tiêu của chương trình.


2. Chọn lựa những di tích, bảo tàng, làng nghề thích hợp cho các tiết, bài
mình sẽ dạy theo phân phối chương trình. Đây là một khâu rất quan trọng mà
chúng tơi sẽ trình bày kỹ trong phần nội dung. Kiến thức lịch sử địa phương thì
cả một rừng, một biển. Vấn đề quan trọng và cần thiết là khai thác những cái
nào, khai thác như thế nào để vừa đạt được cái chung (lịch sử dân tộc) và làm
nổi bật cái riêng (lịch sử địa phương). Đó mới là cái đích của vấn đề.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

4. <i><b>Thiết kế bài giảng – giáo án giảng dạy (sơ thảo) cho một số giáo viên</b></i>
THCS ở các trường thực hành của trường CĐSP kết hợp dự giờ để kiểm nghiệm
mức độ hiệu quả của đề tài, từ đó rút kinh nghiệm để hồn thiện hơn.


<b>B. PHẦN NỘI DUNG</b>


I. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ DAKLAK TỪ THẾ KỶ X ĐẾN GIỮA THẾ
KỶ XIX:


1. <i><b>Sơ lược về điều kiện tự nhiên-xã hội</b></i>


Tỉnh DakLak nằm về hướng phía tây dãy Trường sơn, trải dài từ 14 độ đến
13 độ 45 phút vĩ tuyến Bắc, trải rộng từ 107 độ 12 phút đến 108ˆ độ 54 phút
kinh đơng. Phía bắc giáp tỉnh Gia Lai, nam giáp Lâm Đồng, Bình Phước, đơng


giáp Phú n, Khánh Hồ, tây giáp vương quốc Campuchia. Với tổng diện tích
tự nhiên là 19800 km vng, DakLak là tỉnh lớn nhất Việt Nam (tính đến trước
khi tách tỉnh).


Dak Lak nằm ở độ cao trung bình 536m nên khí hậu mát mẻ, ơn hồ. Nhiệt
độ trung bình là 20o<sub>C. Tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất chỉ chênh nhau </sub>
2-3o<sub>C. Rừng chiếm 4/5 diện tích đất đai, có rất nhiều gỗ quý hiếm như thuỷ tùng,</sub>
cẩm lai, cà te, hương, sao, trẩu… cùng với nhiều loại thú rừng q hiếm như
voi, bị tót, hổ, gấu, hươu, nai… Lượng mưa trung bình hàng năm là 2050mm.
Trong hơn 40 dân tộc thì người Ê đê, Mơ nơng là cư dân bản địa lâu đời nhất ở
Dak Lak.


Dak Lak được xếp là vùng Trung Cao nguyên với bạt ngàn rừng núi trên
nền đất đỏ bazan phì nhiêu, trù phú. Tuy đất đai trù phú, màu mỡ như vậy nhưng
phương pháp canh tác của đồng bào ở đây còn đơn giản, lạc hậu. Đồng bào sống
thành những đơn vị cơ sở là bn. Hợp thành bn là những gia đình theo chế
độ mẫu hệ với những quan hệ thân tộc khiến cho cộng đồng được duy trì khá
bền vững.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

thậm chí khách của một người nào đó cũng được coi là khách của làng. Tơn
giáo, tín ngưỡng của các dân tộc ở đây bắt nguồn từ tín ngưỡng nguyên thủy thờ
cúng Yàng và các thần linh.Yàng có một quyền lực rất lớn trong đời sống tâm
linh của cư dân các dân tộc ở đây. Tuy chữ viết xuất hiện muộn nhưng văn học
dân gian của đồng bào Dak Lak nói riêng và Tây nguyên nói chung khá phát
triển và đặc sắc. Những trường ca như Đam San, Xinh Nhã… không những là
niềm tự hào của các dân tộc ở đây mà còn là những viên ngọc quý trong kho
tàng văn học Việt Nam.


Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống, đồng bào Dak Lak cịn duy trì khá
nhiều phong tục, tập quán lạc hậu, nhất là trong ma chay, cưới hỏi. Từ khi đất


nước độc lập, thống nhất và đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, được sự quan
tâm đầu tư đúng mức của Đảng và nhà nước, DakLak đang từng ngày thay da
đổi thịt, trở thành một vùng đất đầy hứa hẹn, giàu tiềm năng.


<i><b>2. DakLak - vài nét chấm phá về lịch sử:</b></i>


Trên thực tế, các dân tộc tuy khơng hình thành nên những lãnh thổ tộc người
riêng biệt nhưng mỗi dân tộc đều tập trung ở một số vùng nhất định. Người Êđê
cư ngụ ở vùng trung tâm, vùng bắc và đông bắc. Người M’nông sống chủ yếu ở
khu vực phía Tây nam tỉnh. Người Gia rai, Ba na… tập trung ở vùng giáp giới
tỉnh Gia Lai. Người Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ,
H’mông… ở thành từng cụm nhỏ rải rác trên nhiều địa bàn trong tỉnh. Người
Kinh có mặt vào đầu thế kỷ XX và cư trú hầu khắp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Những bản trường ca “Khan” như Đam San, Đam Bri… các luật tục cổ, kiến
trúc nhà sàn và tượng nhà mồ, các loại nhạc cụ dân tộc… từ lâu đời đã trở nên
nổi tiếng không chỉ là niềm tự hào của Dak Lak, của Tây Nguyên mà còn là
những viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, thu hút nhiều
nhà nghiên cứu về lịch sử văn hóa, dân tộc học, ngơn ngữ học.


<i> Cũng tại đây, năm 1949, Condominas (người Pháp) lần đầu tiên tìm thấy bộ</i>
<i>đàn đá ở một làng người M’nông thuộc huyện Lak. Tháng 6-1993, bộ chiêng đá</i>
<i>“Goong lú” đã được phát hiện tại huyện Dak Rlấp, chúng có hàng nghìn năm</i>
<i>tuổi.</i>


Cùng với điều kiện thiên nhiên và nhân văn đa dạng, phong phú, Dak Lak
cũng có một lịch sử phát triển sống động.


Đến thế kỉ VI, Chân Lạp-một chư hầu của đế quốc Phù Nam đã tiêu diệt
đế quốc Phù Nam. Chân Lạp trở thành một đế quốc hùng mạnh, thơn tính tồn


bộ đất đai của đế quốc Phù Nam. Đến đây, người M’nông và các dân cư ở Dak
Lak lại chịu sự thống trị của Chân Lạp.


Sau khi thiết lập vương quốc Phù Nam, qua hàng nghìn năm hồ huyết
giữa các tộc người đã hình thành nên người Ê đê, Gia rai, M’Nông hiện đại khai
phá Cao nguyên Dak Lak-Plâycu.


Cho đến thế kỉ 7, sau những cuộc giao tranh với vương quốc Chân Lạp,
Chiêm Thành chiếm lĩnh toàn bộ khu vức này. Bắt đầu từ đấy, cư dân Tây
Nguyên rơi vào sự đô hộ của Chiêm Thành, cho mãi đến thế kỉ XV.


Trong giai đoạn này, các vương triều Ăngko và Chiêm Thành đã tiến
hành nhiều cuộc chiến tranh và lôi kéo cư dân ở Tây Nguyên vào những cơn lốc
chinh chiến triền miên, buộc họ phải chịu những gánh nặng thuế má, phu phen,
cống nộp. Giai cấp thống trị đã cướp bóc của họ vơ số vàng bạc, ngà voi, sừng tê
giác, nhựa thông, hổ phách, gỗ, trầm hương, các cây thuốc quý, đồng thời bắt họ
lao động sản xuất, phục dịch nặng nề.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Nguyên đã vùng dậy đấu tranh anh dũng. Xuất phát từ bản năng tự vệ, từ tinh
thần quả cảm, từ mối dây ràng buộc huyết thống trong cộng đồng thị tộc, họ tổ
chức chống lại ách thống trị của ngoại bang. “Làng chiến đấu” và các “liên minh
quân sự” giữa các bộ lạc - những khái niệm mà các nhà dân tộc học thường hay
nói đến - chính là dấu tích truyền thống chống ngoại xâm từ xa xưa con tồn tại
cho đến ngày nay.


Cuộc tiếp xúc với văn hoá nước ngoài, do điều kiện chiến tranh và sinh
sống cũng ảnh hưởng không giống nhau giữa các tộc người ở Tây Nguyên xưa.
Người M’nông chuyển cư vào trú ẩn ở vùng rừng già tây Trường Sơn, xây dựng
các làng chiến đấu vững chắc.



Cùng với quá trình này, trong xã hội Tây Ngun nói chung cũng dần
dần hình thành bộ máy nhà nước sơ khai, có người đứng đầu, là “Vua Nước”,
“Vua Lửa”


Giữa thế kỉ VXIII dưới triều Nguyễn, Dak Lak là một vùng đất thuộc
“Hoàng triều cương thổ”. Thế kỉ XIX nơi này sớm trở thành miền đất mà người
Pháp chú ý đến. Năm 1938, trên tấm bản đồ đầu tiên của mình, cố đạo Taberd đã
ghi chép về các vùng dân tộc Tây nguyên. Các cha cố Bonilleveaux năm 1851,
Pontaine năm 1852, Azéme năm 1857… đã thâm nhập vào các khu vực dân tộc
M’nông ở Dak Lak. Theo chân các nhà truyền giáo là các đoàn “thám hiểm” dọn
đường cho q trình có mặt của người Pháp trên vùng đất này.


II. THIẾT KẾ BÀI GIẢNG HAI TIẾT LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
<i><b>1. Chuẩn bị:</b></i>


Trước hết, người Giáo viên phải quán triệt được vấn đề chung nhất và quan
trọng nhất là: Giảng dạy Lịch sử địa phương ở chương trình lớp 7 là dạy và học
lịch sử ở thực địa, trên hiện vật, di tích. Tất cả 4 tiết đều học ở thực địa. Theo
phân phối chương trình:


 Tiết thứ 54: Dạy và học lịch sử địa phương tại Bảo tàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

của địa phương.


 Tiết thứ 56: Tổ chức buổi tham quan di tích lịch sử địa phương.
 Tiết thứ 57: Hướng dẫn thăm một làng nghề ở địa phương.


Điều quan trọng là ở chỗ, di tích, hiện vật lịch sử là thực tế sống động, cụ thể
chứ không phải là một bài học đã viết sẵn trong một vài trang giấy. Thực tế lịch
sử sống động ấy lại thuộc về quá khứ, tức là thuộc về thời gian đã qua, thậm chí


là rất xa so với thế hệ các em. Để các em tiếp cận, hiểu được nó khơng phải là
vấn đề dễ dàng.


Như trên đã trình bày, kiến thức lịch sử địa phương rất phong phú, đa dạng
và cũng rất phức tạp. Trong cái mênh mông đó, người giáo viên phải chọn lựa,
sàng lọc ra những sự kiện, những vấn đề cần thiết và phù hợp để khai thác và sử
dụng. Đặc biệt khung thời gian lịch sử trong chương trình lớp 7 – phần lịch sử
Việt Nam là từ thế kỷ X cho đến giữa thế kỷ XIX. Di tích các lịch sử, di tích lịch
sử cách mạng, di tích văn hố… có khá nhiều. (Xem phần phụ lục). Làng nghề
cũng khơng ít. Theo chúng tôi, giáo viên nên tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng
địa phương mình để chọn lựa ra những di tích, làng nghề thích hợp. Chúng tơi
cũng sẽ có phần gợi ý cho từng địa phương cụ thể ở cuối mục này. Hơn nữa,
thời lượng mà phân phối chương trình quy định là 4 tiết dạy, đòi hỏi người giáo
viên phải biết vận dụng hợp lý. Trong khi tài liệu hướng dẫn thì rất thiếu thốn,
tài liệu thực tế thì lại quá mới, giáo viên tiếp xúc lần đầu tiên với phương pháp
dạy – học ở thực địa này ở chương trình lớp 7 nên rất có thể diễn ra hai khuynh
hướng: một là khơng biết chọn di tích, bảo tàng hay làng nghề nào cả; hai là làm
cho qua chuyện với bất cứ di tích nào mình biết, dù rất đại khái, sơ sài. Dù
khuynh hướng nào đi nữa thì cũng khơng ổn. Để tránh được tình trạng này, theo
chúng tôi, trước hết giáo viên phải:


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

khả thi, được lãnh đạo trường ủng hộ.


<i> Thứ hai, phải chọn lựa được di tích, làng nghề phù hợp. Di tích làng nghề</i>
hay bảo tàng tốt nhất là của địa phương (xã, huyện) mình, ở gần khu vực trường
mình đóng để thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện tiết dạy.


<i> Thứ ba, phải tìm hiểu, nghiên cứu thật kỹ, thật thấu đáo về di tích, làng nghề</i>
mình sẽ dạy. Đây sẽ là yếu tố cơ bản quyết định mức độ thành công của tiết dạy.
Muốn thực hiện được điều này, giáo viên cần liên hệ với chính quyền địa


phương hoặc cơ quan quản lý di tích, bảo tàng, làng nghề, đồng thời xin sự hỗ
trợ của họ, nhất là về mặt chuyên môn. Chúng ta đều biết một thực tế là ở
DakLak, giáo viên trẻ mới ra trường chiếm tỉ lệ khá cao, kinh nghiệm cịn q ít,
vốn liếng kiến thức cịn hạn chế. Do đó, việc khảo sát một cách kỹ lưỡng, hệ
thống và khoa học di tích, làng nghề, bảo tàng là những thao tác rất quan trọng
mang tính chất quyết định.


<i><b>2. Thiết kế giáo án giảng dạy:</b></i>


Như đã trình bày ở phần giới hạn đề tài, đối tượng phục vụ của đề tài là giáo
viên trung học cơ sở giảng dạy lịch sử ở Daklak. Chúng ta đều biết Daklak
chúng ta có một kho tàng Văn hố tổng hợp hết sức phong phú và đa dạng. Cho
đến tháng 5 năm 1997, Bộ Văn hố và thơng tin đã cơng nhận 6 di tích ở Daklak
gơm 3 di tích Lịch sử cách mạng, 1 di tích kiến trúc tơn giáo và 2 danh lam
thắng cảnh. Trong đợt tổng kiểm kê di tích tồn tỉnh (1996) đã khảo sát được 71
di tích thuộc các loại hình, trong đó có 23 di tích lịch sử cách mạng, 13 di tích
kiến trúc nghệ thuật và kiến trúc tơn giáo, 2 di tích lịch sử văn hố, 8 di tích
khảo cổ và 25 di tích danh thắng. Nhằm giúp cho các giáo sinh cũng như giáo
viên có nguồn tư liệu dồi dào, chúng tơi đã tập hợp và thiệu cụ thể ở phần Phụ
<i>lục. Do tính chất của đề tài, phần Phụ lục chúng tơi thực hiện khá cơng phu và</i>
coi đó là một nội dung rất quan trọng, không thể thiếu của đề tài. Đó là những
nội dung kiến thức khá phong phú để giáo viên khai thác và sử dụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

huyện lân cận cũng vận dụng được nếu giải quyết được các yếu tố như quỹ thời
gian, phương tiện đi lại và kinh phí.


Để thực hiện phần soạn giảng, chuẩn bị được tốt hơn, theo chúng tôi, giáo
viên cần đề xuất phương hướng kế hoạch của mình lên cán bộ phụ trách chuyên
môn của trường xin ý kiến. Cán bộ chuyên môn của trường lại xin ý kiến chỉ đạo
của cán bộ chun mơn Phịng, Sở. Có như vậy thì giáo viên sẽ tự tin hơn trong


cơng việc của mình.


<i><b>3.Đề xuất các thiết kế bài giảng cụ thể:</b></i>
& GIÁO ÁN THỨ NHẤT


DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ TỈNH DAKLAK TẠI BẢO TÀNG TỈNH
DAKLAK (Bài 31 – phân phối chương trình)


<i><b>A. Mục đích yêu cầu:</b></i>


<b>vNhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết khái quát nhất về tỉnh</b>
DakLak từ cội nguồn cho đến nay (tuỳ theo điều kiện thời gian). Giúp các em
thấy được những thành tựu đáng trân trọng của nhân dân Dak Lak, nhất là trong
giai đoạn đổi mới hiện nay cũng như những tiềm năng, thế mạnh của Daklak.


<b>vThơng qua đó, giáo dục các em lịng u q hương mình, lịng tự hào về</b>
q khứ dựng nước và giữ nước của cha ơng.


<b>vGóp phần rèn luyện kỹ năng nhận thức Lịch sử (quan sát, ghi chép, phân</b>
loại, nhận xét) qua bản đồ, tranh ảnh và các di tích, di vật lịch sử, đồng thời hình
dung được mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc.


<i><b>B. Thực hiện tiết dạy – học:</b></i>


<i>1. Tập trung học sinh, trình bày mục đích, u cầu của buổi học và phân</i>
<i>cơng nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ, nhóm học tập:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

buổi. Sau khi ổn đinh trật tự, giáo viên giới thiệu tổng quát về bảo tàng (Nếu
giáo viên không được tự tin, có thể hợp đồng với nhân viên bảo tàng):



<i><b>Bảo tàng tỉnh DakLak đựơc xây dựng từ sau ngày miền nam hồn tồn</b></i>
<i><b>giải phóng (1977), toạ lạc tại số 1 đường Lê Duẩn, thành phố Ban Mê Thuột.</b></i>
<i><b>Nếu khơng tính di tích nhà đày Bn ma Thuột thì đây là bảo tàng duy nhất</b></i>
<i><b>của tỉnh ta. Đây là nơi trưng bày tất cả những hiện vật thu thập được từ trước</b></i>
<i><b>đến nay liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân DakLak</b></i>
<i><b>cũng như quá trình hình thành và phát triển của lịch sử tỉnh DakLak. Trong</b></i>
<i><b>hàng ngàn hiện vật đang được trung bày ở đây, có những hiện vật đặc biệt</b></i>
<i><b>quý hiếm và có giá trị lịch sử cao như trống đồng Đơng Sơn tìm thấy ở xã Ea</b></i>
<i><b>Pan – huyện Eakar, bộ chiêng đá “Goong lú” tìm được ở Dak Rlấp năm 1993</b></i>
<i><b>có hàng nghìn năm tuổi. Các hiện vật ở đây được cán bộ, nhân viên bảo tàng</b></i>
<i><b>gìn giữ, bảo dưỡng rất chu đáo. Với số lượng hiện vật phong phú, đa dạng, có</b></i>
<i><b>giá trị cũng như tinh thần phục vụ tận tình, chu đáo của đội ngũ cán bộ,</b></i>
<i><b>nhân viên, bảo tàng DakLak chính là nơi học tập, nghiên cứu bổ ích, thiết</b></i>
<i><b>thực đối với nhân dân tỉnh nhà nói riêng cũng như du khách trong và ngồi</b></i>
<i><b>nước nói chung. Trung bình hàng năm, Bảo tàng đã đón khoảng ba mươi</b></i>
<i><b>nghìn lượt khách tham quan học tập. Bảo tàng cũng đã vinh dự được đón</b></i>
<i><b>tiếp các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước tới thăm và làm việc như các</b></i>
<i><b>đồng chí tổng bí thư BCH T W đảng Trường Chinh, đồng chí bộ trưởng bộ</b></i>
<i><b>quốc phịng Đồn Kh, đồng chí bộ trưởng bộ Cơng an Bùi Thiện Ngộ…</b></i>


<i>2.</i> <i>Tiếp đó, giáo viên trình bày mục đích u cầu của buổi học (đã nêu ở</i>
<i>trên) và tiến trình tham quan cũng như nhiệm vụ cụ thể của từng tổ nhóm học</i>
<i>tập. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<i>3.</i> <i>Tiến hành tham quan học tập. </i>


ð Sự sắp xếp, thiết kế của Bảo tàng vốn đã được tính đến yếu tố khoa học,
hợp lý. Từng ngăn, từng phòng, từng khu vực trưng bày đều có nội dung riêng,
song tất cả kết hợp với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Giáo viên hướng
dẫn học sinh tham quan theo thứ tự đã được hướng dẫn ở sơ đồ hoặc sự chỉ dẫn


của nhân viên bảo tàng theo trình tự từ ngồi vào trong, từ trước đến sau, từ dưới
lên trên.


 <i>Gian phòng 1: là gian phòng trưng bày bản đồ tỉnh Dak Lak, tranh ảnh</i>
<i>về những danh lam thắng cảnh, những sản vật quý hiếm, những di chỉ khảo cổ ở</i>
<i>DakLak – nơi đã khai quật được những di vật có giá trị. Đây cũng là nơi giơi</i>
<i>thiệu những hình ảnh, tư liệu,hiện vật lịch sử quý giá của quân và dân DakLak</i>
<i>thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.</i>


 <i> Gian phòng 2: Đây là nơi giới thiệu những hình ảnh, tư liệu, hiện vật</i>
<i>lịch sử quý giá của quân và dân DakLak thời kỳ đấu tranh chống Mỹ - Ngụy.</i>


 <i>Gian phòng 3: là phòng trưng bày sa bàn chiến thắng Buôn Ma Thuột</i>
<i>lịch sử.</i>


Tùy vào thực tế khả năng của giáo viên và sự chuẩn bị từ trước, thuyết minh,
giảng giải cho các em hiểu từng hình ảnh, từng hiện vật cụ thể và đặc biệt là ý
nghĩa, giá trị (kinh tế, văn hóa, lịch sử…) của từng hình ảnh, hiện vật.


ð Đây không phải là một buổi tham quan đơn thuần mà là một buổi dạy –
học. Do đó giáo viên hướng dẫn không quá nhanh để các em ghi nhớ và ghi
chép bài học lấy làm tư liệu cho công đoạn kiểm tra đánh giá kết quả tiếp theo.
Nếu giáo viên phải nhờ cán bộ nhân viên Bảo tàng thực hiện khâu này thì chính
mình cũng là một người học, ghi chép thật cẩn thận để chẩn bị cho khâu kế tiếp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<i>4. Kết thúc buổi tham quan học tập, trở về nhà.</i>
& GIÁO ÁN THỨ HAI


TỔ CHỨC BUỔI THAM QUAN DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG: MỘ
CỦA THẦY GIÁO Y JUT (Bài 33 – phân phối chương trình)



<i><b>A. Mục đích u cầu:</b></i>


<b>vNhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết khái quát nhất về thầy giáo –</b>
danh nhân Y JUT thông qua việc tham quan di tích khu mộ của ơng. Giúp các
em thấy được những cơng lao, đóng góp đáng trân trọng của ông đối với quê
hương.


<b>vThông qua đó, giáo dục các em lòng trân trọng, yêu quý những nhân vật</b>
lịch sử cũng như những cống hiến của họ đối với quê hương, đất nước, lòng tự
hào về quá khứ dựng nước và giữ nước của cha ơng.


<b>vGóp phần rèn luyện kỹ năng nhận thức Lịch sử (quan sát, ghi chép, phân</b>
loại, nhận xét) qua bản đồ, tranh ảnh và các di tích, di vật lịch sử, đồng thời hình
dung được mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc.


<i><b>B. Thực hiện tiết dạy – học:</b></i>
<i>1.</i> <i><b>Chuẩn bị: </b></i>


l Đây là mộ của một thầy giáo yêu nước, một danh nhân của tỉnh nhà, người
dân tộc Êđê – người đã có cơng lao rất lớn trong việc sáng tạo và hoàn thiện bộ
chữ viết Êđê. Mộ hiện toạ lạc ở khối 2, phường Tân Lập, thành phố Buôn ma
Thuột, thuộc quyền quản lý trực tiếp của buôn Păn Lăm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

quang, sửa sang, tu bổ ngôi mộ. Do đó giáo viên cần chuẩn bị một bình sơn
nước hoặc vôi, chổi quét, cuốc, vét… Nếu buổi tham quan được tổ chức vào
mùa mưa thì nên chuẩn bị một số cây cảnh, hoa để trồng lưu niệm.


<i><b> 2. Tiến hành buổi tham quan học tập: </b></i>



l Đối với tiết học này, phân phối chương trình và Sách giáo viên ghi là: Tổ
<i>chức buổi tham quan di tích lịch sử địa phương nhưng chúng ta phải nhận thức</i>
là tham quan phải đi đôi với học tập, học đi đôi với hành. Vả lại, di tích này gắn
liền với một nhà yêu nước, nhà hoạt động cách mạng - danh nhân văn hoá của
tỉnh. Huống nữa, chúng ta lại đang dạy – học trên quê hương ông. Tên của ông
đã lấy làm tên một con đường nổi tiếng ở thành phố Ban Mê Thuột. Nhiều
trường THPT và THCS được vinh dự mang tên ông. Trên thực tế, trong các
trường học ở DakLak nói riêng và Tây Nguyên nói chung, do chính sách quan
tâm của Đảng và nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là
những năm gần đây nên tỉ lệ học sinh là người dân tộc đi học ngày càng cao.
Tuy vậy, trong thời gian vừa qua, vấn đề dân tộc ở Tây nguyên trở thành một
vấn đề “nhạy cảm”. Do vậy, với tư cách là người thầy, người tổ chức hướng dẫn,
nếu hiểu được một cách thấu đáo và làm tốt khâu tổ chức thì buổi tham quan
càng thêm ý nghĩa: góp phần củng cố tình đồn kết giữa các dân tộc theo chủ
trương của Đảng và nhà nước ta. Ngược lại là sẽ phản tác dụng.


<b>l Tập hợp học sinh, ổn định tổ chức, tiến hành nghi lễ thắp hương dâng</b>
<b>hoa lên ngôi mộ.</b>


Công việc này, đã là người Việt Nam, lại là giáo viên Lịch sử nên chắc chắn
khơng khó khăn đối với giáo viên. Cần tạo nên khơng khí trang nghiêm, kính
cẩn. Trước hết là vì ý nghĩa của buổi học. Sau nữa là vì chắc chắn sẽ có nhân
dân, đa số là người dân tộc Êđê hiếu kỳ đến xem. Thao tác này chúng tơi khơng
trình bày nhiều.


<b>l Phổ biến kế hoạch và chương trình tham quan, phân cơng nhiệm vụ</b>
<b>cho tổ, nhóm.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

sinh. Cần nhấn mạnh yêu cầu sẽ có kiểm tra, đánh giá kết quả, lấy điểm để học
sinh tập trung tham quan học tập tốt. Giáo viên cần chỉ rõ yêu cầu học sinh cần


nghe gì, nhớ gì, ghi chép gì để học sinh chủ động.


<b>l Giáo viên giới thiệu về danh nhân Y JUT (nội dung này đã đước chuẩ</b>
<b>bị sẵn từ trước.)</b>


<i><b>Y Jút, họ là H wing, sinh năm 1885 tại buôn Kram, thuộc huyện Krông</b></i>
<i><b>Ana, Tỉnh Dak lak. Buôn Kram là một buôn làng người Êđê nằm bên trục</b></i>
<i><b>đường Quốc lộ 27 (ban Mê Thuột đi Lâm Đồng), cách Thành phố BMT 15km</b></i>
<i><b>về hướng Đông- Nam, nay thuộc xã EaTiêu, huyện Krơng Ana, tỉnh DakLak.</b></i>
<i><b>Dịng họ H wing là một trong những dòng họ lớn của người Êđê tại Tây</b></i>
<i><b>nguyên – một dịng họ có nhiều người nổi dậy đánh Pháp. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<i><b>Y Jút là một người có tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc rất cao. Trong</b></i>
<i><b>thời gian làm công tác giảng dạy, ông đã hết lịng u thương, chăm sóc học</b></i>
<i><b>sinh mình, cố gắng giáo dục cho các thế hệ học sinh ý thức dân tộc, tinh thần</b></i>
<i><b>yêu nước.</b></i>


<i><b>Anh sáng Cách mạng thông qua hoạt động của các chiến sỹ Cộng sản bị</b></i>
<i><b>giam ở nhà tù Buôn Ma Thuột đã ảnh hưởng đến Y Jút cũng như nhiều trí</b></i>
<i><b>thức, cơng chức người Ê đê khác. Trong thời gian này, viên Công sứ người</b></i>
<i><b>pháp là Sabachier đã áp dụng chính sách cai trị đối với đồng bào người</b></i>
<i><b>thượng rất tàn bạo, thâm độc. Nhân dân Daklak, đặc biệt là giáo viên, học</b></i>
<i><b>sinh, công chức yêu nước rất căm thù tên thực dân này và ln tìm mọi cách</b></i>
<i><b>để chống lại hắn. Đầu năm 1925, Y Jút cùng một số giáo viên, công chức đã</b></i>
<i><b>lên một kế hoạch rất chi tiết, cụ thể để ám sát tên Sabachier. Theo kế hoạch</b></i>
<i><b>này, một đội vũ trang bạo động gồm 21 người có sự yểm trợ của binh lính đột</b></i>
<i><b>nhập vào nhà riêng của tên Sabachier đốt nhà nhưng khơng giết được tên</b></i>
<i><b>Cơng sứ. Y Jút, do có sự chuẩn bị trước nên đã biến cuộc bạo động không</b></i>
<i><b>thành thành một cuộc đấu tranh chính trị. Lập tức, giáo viên, học sinh, viên</b></i>
<i><b>chức, binh lính ở Thị xã Bn Ma Thuột theo lời hô hào của Y Jút đã kéo</b></i>


<i><b>đến bao vây Tịa Cơng sứ, vạch tội ác của viên Công sứ Sabachier. Trong thời</b></i>
<i><b>gian tiếp theo, Y Jút tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh bằng cách vận động</b></i>
<i><b>nhân dân yêu nước Daklak viết đơn tố cáo tội ác dã man của tên Cơng sứ gởi</b></i>
<i><b>lên tồn quyền Đơng Dương, Khâm sứ Trung kỳ và Chưởng lý Tịa án Đơng</b></i>
<i><b>Dương tại Sài gịn. Cuộc đấu tranh cuối cùng đã dành được thắng lợi. Ngày</b></i>
<i><b>19 tháng 4 năm1926, tên Công sứ tàn ác Sabachier đã bị cách chức, triệu hồi</b></i>
<i><b>về Pháp.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<i><b>Tháng 4 năm 1934, sau một thời gian lâm bệnh, Y Jút đã qua đời, thọ 49</b></i>
<i><b>tuổi. Đám tang của ông được hàng ngàn người Êđê, Kinh, M’nông đưa tiễn.</b></i>
<i><b>Hiện nay, phần mộ của Y JUT đặt tại buôn Păn lăm, phường Tân lập, Thành</b></i>
<i><b>phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Daklak.</b></i>


<i><b>Như vậy, Y Jút là một Thầy giáo, một nhà yêu nước, một Danh nhân văn</b></i>
<i><b>hóa của Huyện nhà, tỉnh Dak Lak chúng ta</b></i>


Chắc chắn, sau khi giơi thiệu xong, học sinh sẽ hỏi nhiều. Ở lứa tuổi các
em, không thể tránh được những câu hỏi mang tính chất đùa giỡn. Căn cứ vào sự
chuẩn bị của mình và câu hỏi các em đưa ra, giáo viên sẽ trả lời. Tuy nhiên, để
tạo nên khơng khí thân mật,dễ tiếp thu, phần trả lời câu hỏi nên thực hiện ở bước
tiếp theo.


<b>l Tiến hành sửa sang, tôn tạo, bảo dưỡng ngôi mộ của thầy giáo Y JUT</b>
Theo sự phân cơng mà giáo viên đã có chủ định ngay từ khi ở nhà, các tổ,
nhóm được phân cơng trước tùy theo khả năng và sự chuẩn bị trước, cắt đặt cho
các em tiến hành sửa sang, nhổ, nhặt cỏ, trồng hoa, quét vôi, sơn cho ngôi mộ,
trồng cây lưu niệm. Đây là một công việc rất thú vị và có ý nghĩa. Giáo viên cần
nắm được năng lực, sở trường của từng nhóm, từng cá nhân để bố trí hợp lý và
kích thích tính chất thi đua. Nếu cần, có thể chấm điểm nội dung này. Tốt nhất,
cơng việc này nên tiến hành trước sự chứng kiến và tham gia của già làng,


trưởng bản hoặc người có trách nhiệm để có hiệu quả cao nhất. Trong q trình
thầy trị vừa làm việc, giáo viên có thể giải đáp thắc mắc của học sinh nếu có.


l Tập trung học sinh, nhận xét đánh giá buổi tham quan


F Giáo viên đánh giá cơng việc của từng tổ, nhóm, cá nhân. Cần biểu dương,
nêu gương đối với những em có thành tích và phê bình, rút kinh nghiệm với
những học sinh hoàn thành nhiệm vụ chưa tốt.


F Nếu giáo viên chấm điểm phần tơn tạo, phong quang khu mộ thì cần cơng
khai điểm trước tập thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Giáo viên có thể đưa hai dạng viết thu hoạch để học sinh lựa chọn:


ð Nêu câu hỏi đã chuẩn bị trước, học sinh căn cứ vào những kiến thức mà
mình đã lĩnh hội được thông qua buổi tham quan để trả lời.


ð Cho học sinh tự do trình bày hiểu biết, cảm tưởng của mình về thầy giáo Y
JUT hoặc trình bày những hiểu biết của riêng mình.


l Phát biểu cảm ơn đối với đại biểu bn làng có mặt và ra về.


Nếu có mang theo máy chụp hình, nên tổ chức chụp hình lưu niệm để sau
này trưng bày ở phịng truyền thống của trường. Tùy theo quỹ thời gian và các
điều kiện khác, nếu có thể sẽ tham quan thêm khu nhà dài Êđê – một di tích văn
hóa ở ngay gần đó.


Trên đây là thiết kế hai bài giảng giới thiệu. Chúng tôi chủ yếu thiên về phần
chuẩn kiến thức. Tất nhiên, hiệu quả các tiết dạy học lịch sử địa phương mang
tính chất đặc thù này phụ thuộc chủ yếu vào khâu chuẩn bị của giáo viên


(chúng tơi nhấn mạnh) Cịn một vấn đề nữa, trên thực tế các trường học THCS,
kể cả THPT, trước hết là lãnh đạo còn đang lúng túng, dẫn đến ngần ngại khi
nghe nói đến tham quan, ngoại khóa dã ngoại. Qua tìm hiểu, chúng tơi được
biết, có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng này. Ngồi vấn đề phương pháp
thì nổi cộm là chuyện kinh phí. Mặt khác, nếu khâu tổ chức khơng tốt thì rất có
thể xảy ra những rủi ro. Giải quyết được vấn đề mang tính chất thế giới quan
này không phải là ngày một ngày hai. Tuy vậy đã là quy định pháp lý thì khơng
thể khơng làm. Vấn đề quan trong là chúng ta phải hiểu được vai trò của lịch sử
<i><b>địa phương, phải cố gắng, phải xã hội hóa cơng tác giáo dục như chủ trương</b></i>
của Đảng và nhà nước ta.


<b>III. PHẦN KẾT LUẬN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

đề tài. Bên cạnh việc xây dựng một hướng đi chung, chúng tôi cũng đã cố gắng
thiết kế và đề xuất phần hướng dẫn cụ thể. Chúng tôi thiết nghĩ đây là một vấn
đề có ý nghĩa rất thiết thực nhất là trong thời điểm hiện nay.


<b>v Từ thực tế trên, điều quan trọng nhất để đảm bảo cho việc dạy – học lịch</b>
sử địa phương ở chương trình lớp 7 – THCS theo chúng tôi là khâu chuẩn bị của
thầy (mang tính chất chủ đạo) và của trị (rất quan trọng).


<b>v Dự định của chúng tơi thì rất lớn. Trong thời gian tới, cùng với các đồng</b>
nghiệp và sự chỉ đạo của các cơ quan chuyên môn và chức năng trên cơ sở điều
kiện cho phép, chúng tôi sẽ xây dựng một đề tài “ Hướng dẫn giảng dạy phần
<i>lịch sử địa phương ở các trường THCS tỉnh DakLak” và tập giáo án giới thiệu.</i>
Tại thời điểm này, chúng tơi tạm bằng lịng và dừng lại trong khn khổ đề tài
trên. Để hồn thành được cơng trình này, một lần nữa chúng tôi xin chân thành
cảm ơn các đồng nghiệp: thạc sỹ Lê Xuân Diệu, thạc sỹ Lê Hải Thanh, cử nhân
Lê Xuân Mợi cùng với các đồng nghiệp, bạn bè khác đã gợi ý, góp ý và giúp đỡ
chúng tôi. Chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, kính mong các bạn bè,


đồng nghiệp góp ý chân thành để chúng tơi hồn thiện hơn.


Xin chân thành cảm ơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

PHỤ LỤC


<b>Phần phụ lục này chúng tôi đã có dịp giới thiệu ở đề tài năm trước. Tuy</b>
<b>nhiên, theo chúng tôi, đây là những tư liệu bổ ích, vừa có giá trị sử dụng cao</b>
<b>vừa mang tính phổ thông mà chúng tôi đã thu thập từ nhiều nguồn, tập hợp</b>
<b>lại để làm tư liệu sử dụng. Vì ý nghĩa đó, năm nay chúng tơi vẫn tiếp tục</b>
<b>giới thiệu để bạn đọc, nhất là những thầy cô vùng xa có tài liệu sử dụng</b>


F Năm 1899, thực hiện chính sách bình định Cao Ngun, Tổng thống Pháp
cử viên cai Bu-rơ-goa (Bourgeois) từ phía bắc theo sơng Mê-cơng rẽ vào sông
Sêrêpôk đến vùng đất Buôn Đôn, chọn nơi này làm đại lý, với mục đích làm thí
điểm trong cuộc bình định Cao Nguyên Trung phần. (Tại đây, Bu-rơ-goa chọn
<i><b>một số tù trưởng sơn cước làm cố vấn, đó là Phét Lasa và Y Thu Knul (Khun</b></i>
<i><b>Zu Nốp) người M’nông-Lào, coi họ là những cộng sự trung thành của các</b></i>
<i><b>viên khâm sứ ở Dak Lak) Tuy vậy, việc làm này đã gặp phải sự kháng cự quyết</b></i>
liệt của đồng bào nơi đây. Bu-rơ-goa không tài nào mở rộng được vùng đất cai
trị của mình mà cịn bị mất uy tín với nhân dân bản địa.


Ngày 22/12/1904, thực dân Pháp chuyển đại lý từ Buôn Đôn về Buôn Ma
Thuột và chọn nơi này làm thủ phủ của Cao nguyên Dak Dak (thuộc tỉnh Kon
Tum), và giao cho triều đình Việt Nam phối hợp với người Pháp để cai quản.


Ngày 02/7/1923, tồn quyền Đơng Dương ban hành nghị định tách phần đất
Dak Lak ra khỏi KonTum và thành lập tỉnh riêng. Lúc mới thành lập, Dak Lak
chưa có huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng dựa theo các bn có sẵn của các dân
tộc bản địa, như Ê đê có 151 làng, M’nơng có 117 làng, Gia rai có 11 làng, Bih


có 24 làng, M’dhur có 120 làng…


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

hành đạo dụ số 6, đặt các tỉnh Cao ngun, trong đó có Dak Lak làm Hồng
triều Cương thổ, có quy chế cai trị riêng.


Sau Hiệp định Genève, chính quyền Ngơ Đình Diệm huỷ bỏ quy chế
Hồng triều Cương thổ và đặt tỉnh Dak Lak cũng như các tỉnh khác thuộc Cao
nguyên Trung phần của “Việt Nam Cộng hoà”. Nghị định số 158 BNV/NĐ ngày
08/8/1957 chuyển đổi thị trấn Buôn Ma Thuột thành xã Lạc Giao thuộc quận
Buôn Ma Thuột. Nghị định số 356 BNV/NĐ ngày 2/7/1958 ấn định các đơn vị
hành chính của tỉnh Dak Lak gồm 5 quận, 21 tổng, 77 xã. Riêng Bn Ma Thuột
có các tổng Ea Tam (10 xã), Cư Keh (4 xã), Cư Ewi (6 xã), Drai Sáp (5 xã).


Ngày 20/12/1963, chính quyền Sài Gòn ban hành nghị định số 262
BNV/HC/NĐ thành lập thêm một quận mới của tỉnh Dak Lak, lấy tên là quận
Phước An. Lúc bấy giờ Dak Lak gồm có 4 quận: Bn Ma Thuột, Bn Hồ, Lạc
Thiện, Phước An. Quận Bn Ma Thuột khơng cịn tổng nữa, có các xã: Cư Ebu
Math, Cư Edru Math, Cư Kphong Math, Cư M’gar Math, Cư Ming Math, Cuôr
Dang Math, Chi Lăng, Đạt Lý, Ea Ana Math, Ea Emaih Math, Ea Hbong Math,
Ea Hding Maath, Ea Net Math, Ea Kwang Math, Ea Madong Math, Ea Mdhar
Math, Ea Kmat Math, Ea Knir Maath, Ea Ktur Math, Ea Pac Math, Ea Bour
Math, Kmrong Prông Math, Lạc Giao, Quảng Nhiêu, Tân Điền, Thọ Thành.


Sau ngày giải phóng hồn tồn miền Nam (30/4/1975), chính quyền Cách
mạng đã sắp xếp lại địa bàn hành chính của Dak Lak gồm 5 huyện và 1 thị xã:
Krông Buk, Krông Păc, Dak Mil, Dak Nông, Lak, thị xã Buôn Ma Thuột.


Ngày 21/1/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08-NĐ/CP, chuyển thị
xã Buôn Ma Thuột thành thành phố trực thuộc tỉnh Dak Lak, lập thêm hai
phường mới, chuyển 3 xã qua huyện Ea Súp, 3 xã khác qua huyện Cư Jút, 1 xã


về huyện Krông Păc, Nghị định số 71/CP ngày 18/11/1996 của Chính phủ cho
phép việc thành lập thêm 4 phường mới thuộc thành phố Buôn Ma Thuột. Như
thế, trên địa bàn thành phố Bn Ma Thuột tính từ thời điểm này có 18 phường,
xã.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

người, 44 dân tộc anh em, được phân bố trên 18 huyện, 1 thành phố, đó là: Bn
Ma Thuột, Huyện M’drăc, Ea Kar, Krông Păc, Krông Bông, Lak, Ea H’leo,
Krông Năng, Krông Buk, Cư M’gar, Buôn Đôn, Ea Súp, Krông Ana, Cư Jút,
Krông Nô, Dak Mil, Dak Song, Dak Nông, Dak R’lấp.


FHuyền thoại về Hồ Lak:


Đã từ lâu lắm rồi, thanh niên và dân làng đi săn, săn được nhiều thú rừng
họ cùng nhau ăn uống, nghỉ ngơi và chia thuốc hút, nhưng khơng có ai có lửa. Y
Biên là một chàng trai nhanh nhẹn, khoẻ mạnh đã tìm cách làm ra lửa để hút
thuốc. Thấy vậy, mọi người thách nhau: Y Biên làm ra lửa, vậy đố ai làm cháy
được nước?


Mọi người ồ lên: Làm sao mà cháy được nước?…


Dân làng nói như vậy, nhưng hai thanh niên Y Lắc và Y Liêng đã làm cho
nước cháy được. Dân làng bắt đầu lo sợ vì khơng cịn nước để uống như ngày
xưa nữa. Từ đó họ phải uống nước sương, và bắt Y Lắc, Y Liêng phải làm nô lệ
cho dân làng.


Vì khơng quen làm nơ lệ cho dân làng nên hai người bàn việc trốn đi.
Đang lúc nằm ngủ trên tảng đá to, Lắc và Liêng đã được Giàng đến mách bảo:


-Ơ các con “Nếu các con biết chặt cây m’ơ thì có nước trong đó để uống
các con ạ!”



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

cho ai hay, dân làng cũng không ai hay.


Một lần do mải chơi với con lươn nên có con chó đến ăn vụng cơm của
hai chàng. Nhờ vậy, dân làng mới biết rõ Lắc và Liêng đã có nhiều nước, nấu
được nhiều cơm, nên họ mừng lắm. Để có được nước, dân làng đổi hết nồi đồng,
nồi đất, đổi hết chiêng ché cho Lắc và Liêng nên hai chàng bỗng trở nên giàu có.
Họ được trả tự do, và hồ nước đã trở thành của chung, không ai cịn phải đổi
chác gì nữa.


Con lươn của Lắc và Liêng mỗi ngày một lớn nên chỗ ở của nó ngày càng
trở nên chật chội. Một hôm lươn bảo với hai chàng trai: “Hãy làm cho tôi hai cái
sừng sắt cắm vào đầu tôi”. Hai chàng trai cùng họp với dân làng nhưng chẳng ai
làm ra vật bằng sắt được, chỉ có Y Biên, kẻ làm ra lửa nên nung được sắt. Con
lươn nhờ có sừng nên làm cho chỗ ở ngày càng rộng hơn.


Chỗ ấy ngày nay là hồ Lak xinh đẹp và giàu có, trong xanh như chiếc
gương soi xinh xắn cho mọi người đến du ngoạn và nghỉ ngơi.


FDray H’Linh: (Thác nước mang tên nàng H’linh)


Chuyện xưa kể lại rằng: tại một bn làng Ê đê có đôi trai gái yêu nhau
say đắm. Chàng trai tên là Dam ng, tuy nghèo khó nhưng siêng năng, dũng
cảm. Nàng H’Linh xinh đẹp có bờ tóc dài chấm gót như dịng suối chảy, tính
tình nết na, hiền hậu. Nhưng tình u của họ đã khơng vượt qua được phong tục
có tự ngàn đời do cả hai đều nghèo, không đủ trâu bị để mời làng, khơng có
nhiều ché rượu để cúng làng xin làm đám cưới.


Thế rồi, dưới bóng cây Kơnia đầu làng, Dam Yông đã chia tay H’Linh để
quyết chí ra đi tìm cách làm lụng ra nhiều của cải để trở vể cưới nàng H’Linh.


Nàng H’Linh đã chảy khơng biết bao nhiêu dịng nước mắt trong ngày tiễn biệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

Nàng cất bước ra đi để tìm chàng nơi xa. Hết núi cao, sông sâu, buôn xa,
vượt qua hàng ngàn con suối nhưng vẫn khơng thấy bóng Dam ng. Bóng ơng
mặt trời, tiếng vọng của rừng in bóng, vọng lời gọi của H’Linh. Khi đến một
dịng sơng lớn, nàng cất tiếng gọi tên chàng trong thất vọng, và đã gieo mình
xuống dịng sơng ấy.


Chàng Dam ng, sau bao lần đi khắp buôn này, làng nọ, bao lần nương
rẫy bị thất bại, bao mùa rẫy đi qua mà của cải cải cũng chẳng có là bao. Chàng
trở về bn cũ thì được tin nàng đã đi tìm chàng. Chàng chạy đi khắp nơi rừng
sâu, núi cao, nhưng vẫn không gặp được nàng. Cuối cùng, chàng cũng đến được
bờ sơng, nơi nàng đã gieo mình. Tiếng gọi của chàng vọng trong lịng sơng, lời
suối, nhưng dịng sơng vẫn ào ào tn trơi. Chạng đã gieo mình xuống dịng
sơng ấy. Họ đã tron nghĩa thuỷ chung, kết nên một tình yêu đẹp làm rung động
lòng người. Chỗ ấy ngày nay gọi là thác Dray H’Linh, trên dịng sơng Sêrêpơk.
Một cơng trình thuỷ điện mang tên mối tình chung thuỷ, một tình yêu bất tử đã
được xây dựng tại đây, tạo nên dịng điện thắp sáng cho mọi bn làng.


FDray-Sáp (Thác Khói):


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

là Dray Sáp.


FKrơng Buk-Dịng sơng mái tóc


Krơng nghĩa là sơng, Buk là tóc. Ngày nay, nó trở thành tên gọi của một
huyện lỵ ở Dak Lak. Chuyện kể rằng: ngày xưa có H’Rinh và H’Rao là hai cô
gái xinh đẹp nổi tiếng trong vùng. Thân thể của H'Rinh đúc bằng vàng, thân thể
của H'Rao đúc bằng bạc. Mọi người đứng trước hai cô gái như đứng trước bơng
hoa pơ lang, ngắm nhìn mãi khơng chán. Nhìn đằng trước thấy dễ nhớ, nhìn


đằng sau thấy dễ thương. Các chàng trai đều mơ ước, được cùng ăn chung mâm,
được ở cùng nhà, được cùng chung chăn gối với họ.


Chiều chiều, hai nàng rủ nhau ra bến nước, ra bờ suối hái rau, bắt cá, hát
múa, vui đùa. Một hôm H'Rinh và H'Rao tưởng thấy mắt mình như mờ đi, bởi
ngay trên mặt nước một chàng trai như đúc từ ánh trăng đã hiện lên ở đó, rồi lên
bờ ngồi câu cá. Chung quanh chàng hoa nở thơm ngát, chim hót vang lừng.
Trong giây phút đó, cả đơi bên đều sững sờ. Chàng trai đã cùng hai cơ gái ngồi
nói chuyện với nhau. Họ đã làm quen nhau như vậy.


Trời tối lúc nào họ cũng không hay. Những câu chuyện thơm như hoa trái,
nhiều như suối nguồn cứ tuôn mãi như khơng bao giờ dứt được. Họ thấy có tình
u rạo rực trong người.


Qua nhiều tháng, nhiều ngày, khi hai nàng H'Rinh, H'Rao mới biết tên
chàng trai là Y Krông, con của thần nước. Hai thế giới khác biệt như chim trời,
cá nước. Họ buồn lắm, Thần bến nước cũng khơng cho họ thấy nhau. Sau bảy
lần thương, chín lần nhớ, nước mắt chảy tràn, họ đành phải chia tay nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

mọc dọc bờ suối để mong có ngày gặp lại chàng trai Y Krông. Đến nay vùng đất
đó mang tên Krơng Buk.


FBn Ma Thuột-Vùng đất được phát hiện từ công cụ


Người ta kể rằng: xưa kia vùng đất này cịn hoang sơ lắm, chỉ có dăm ba
ngơi làng của đồng bào Ê đê sinh sống. Nhưng họ cũng chẳng được yên bởi
những cuộc xâm lược chinh plục lẫn nhau giữa các nước láng giềng. Ngày đó, ở
một làng Ê đê Kpă có một gia đình ngày ngày lên nương. Những lúc rảnh rỗi,
chú bé tên là Thuột thường men theo bờ suối nhỏ dạo chơi. Một lần, chú phát
hiện được một con dao cạnh bờ suối. Chuyện tìm được con dao q, làm được


nơng cụ tốt, khiến cho mọi người tụ tập đến sinh sống tại vùng đất này ngày
càng nhiều. Năm 1904 Buôn Ma Thuột được Pháp đặt làm Đại lý hành chính.
Ama là cha, Thuột là tên con.


FKrơng Nơ (Krơng là sơng, Nơ-đực)


Đó là địa danh của một vùng đất mà nay cũng đã trở thành một huyện của
tỉnh Dak Lak. Đó cũng là tên một con sơng. Có lẽ xuất phát từ câu chuyện cổ
tích được lưu truyền lại ở vùng này: Chuyện 7 anh em nhà Krơng Pha kể rằng:
xưa kia có một cô gái Ê đê khoẻ mạnh và xinh đẹp. Cô gái đi rừng khát nước,
liền cầm dao chặt bảy ống nứa, trong đó mỗi ống chỉ có một ngụm nước uống.
Về nhà cơ gái có mang và sinh được 7 chàng trai kì lạ. Mới lọt lịng họ đã to lớn
như những chàng dũng sĩ. Bảy người nhảy qua 7 ngọn núi, 7 con sông xong mới
chịu về để mẹ cắt rốn.


Sau đó các chàng trai dùng chân đạp xuống đất cho phun nước lên để
uống, dùng đôi bàn tay của mình để rung cho quả rụng xuống để ăn. Bảy anh em
Krông Pha đã lập được nhiều chiến công to lớn, trừ được hạn hán, dẹp được lũ
lụt, diệt trừ lũ mtao độc ác để cứu sống các cô gái xinh đẹp và bảo vệ cuộc sống
của cộng đồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

nhiên, cải tạo xã hội, chống lại các thế lực ác độc, xây dựng và phát triển buôn
làng cộng đồng. Tên gọi trên còn phản ánh sức sống mãnh liệt của một vùng đất.


FThác nước la Ly (Thác nước nàng Ly)


Thuở xa xưa có nàng Ly cùng đem lòng yêu thương hai chàng trai Rook
và Seek (là hai anh em). Nàng Ly lại không thể bắt cung lúc hai người làm
chồng mình nên đêm đêm Ly nằm bên đống lửa thổi đinh yơng. Tiếng đing
yơng cùng làm cho hai chàng trai ngơ ngẩn. Rook và Seek hai anh em rất


thương nhau nên cái gì họ cũng nhường nhau, cũng lo cho nhau. Họ thương
nhau nhiều hơn đá núi, cùng nhau lên rừng bắt cọp, xuống thác bắt con cá chình,
cùng nhau bắn gãy cánh con chồn bay, bắt con rắn độc… Vậy nhưng tình yêu
với nàng Ly thì khơng ai nhường cho ai cả. Nàng Ly nói: “Anh Rook, em ưng
chặn dòng nước Sê San lại quá!”, lập tức chàng Rook vươn sức vai trẻ lên tận
núi nhà trời. Rầm một cái, đỉnh núi chuyển mình nơi chàng ghé vai vào. Núi lở
lấp dòng Sê San…


Nàng Ly lại nói: “Ơ anh Seek, em ưng khơi lại dịng Sê San cho nước
chảy về hướng tây quá!”, thế là chàng Seek oằn lưng, vươn sức vai trẻ lên tận
đất nhà trời. Một lằn chớp xé ngang chân núi, tiếng nứt đá lở ầm ầm, rồi dòng Sê
San bị lấp giờ uốn mình vươn lên hướng tây, chảy ào ào dưới chân dãy núi lớn
bao đời khơ khát.


Nhưng tình u như tấu lên điệu nhạc của âm thanh đinh yơng và họ
chẳng thể tranh giành với nhau. Hai chàng trai Rook và Seek dường như cùng
một lúc hố thành hai hịn núi lớn đứng sừng sững bên dòng Sê San, bên này là
hòn núi Rook, bên kia là hòn núi Seek. Cịn nàng Ly thì ngã giữa hai đỉnh non
cao ấy, thành ra con thác với tên gọi la Ly.


FDựng lại thời tiền sử từ lòng đất Tây Nguyên


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

điện Yaly, thu thập di tích và di vật khảo cổ, góp phần dựng lại bức tranh tồn
cảnh về q khứ xa xưa của các cộng đồng cư dân cổ đã cư trú ở khu vưc xã Sa
Bình, huyện Sa Thầy; được sự đồng ý của Bộ Văn hố-Thơng tin, từ đầu tháng
6-2001, Phó Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử, Trưởng phòng nghiên cứu Thời
đại đá (Viện khảo cổ học) làm trưởng đoàn cùng hầu hết chuyên gia hàng đầu
của ngành khảo cổ học Việt Nam đã có mặt tại Lung Leng. Chỉ riêng Viện khảo
cổ học Việt Nam đã cử tới đây hơn 40 người, với 2 phó giáo sư, 12 tiến sĩ, còn
lại đều là thạc sĩ chuyên ngành. Vào thời điểm này tại Lung Leng cũng có hơn


600 lao động làm việc thường xuyên trên công trường cùng với nhiều trang thiết
bị hiện đại. Trên một diện tích khai quật hơn 10.000m2<sub>,các nhà khảo cổ học đã</sub>
mở được gần 100 hố, mỗi hố có diện tích 100m2<sub>.</sub>


Qua hai đợt khai quật, các nhà khoa học đã thu được gần 30 tấn hiện vật,
gồm 8000 tiêu bản đá, hàng triệu mảnh gốm, trên 100 mộ nồi vò, gần 40 khu
bếp, lò nung, cùng với các hiện vật như chuỗi đã, rìu, chận đèn, bát… Trong
tầng văn hố, các nhà khoa học cịn tìm thấy một số đồ gốm sứ có niên đại từ thế
kỳ 14 trở lại, trong đó có cả gốm sứ Việt Nam. Đó là kết quả các nhà khảo cổ
học thu được ở di chỉ khảo cổ Lung Leng (thuộc xã Sa Bình, huyện Sa Thầy,
tỉnh Kon Tum). Đây là vết tích văn hố từ thời đại đá cũ, đến hậu kỳ đá mới và
sơ kỳ kim khí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

đắp lị nung gốm để chế tác từng loại vật dụng sinh hoạt như chén, bát, chân
đèn, đồ trang sức với nhiều nghệ thuật, kích thước khác nhau., Phó Giáo sư-Tiến
sĩ Nguyễn Khắc Sử cho biết đây là một trong những di tích khảo cổ học có tầng
văn hố dày, có quy mơ lớn và chứa đựng vết tích văn hố nhiều thời đại. Chính
tồn bộ những tư liệu khai quật của đợt này sẽ góp phần nghiên cứu thời kỳ quá
khứ xa xưa của Tây Nguyên, để minh chứng Tây Nguyên trong quá khứ là một
vùng năng động và có sự giao lưu rộng mở. Ơ đây đã chứa đựng vết tích văn hố
của những cư dân từ xa xưa cho đến giai đoạn bước vào văn minh. Khai quật di
chỉ lần này chính là giải phóng khỏi lịng hồ của thuỷ điện Yaly một di tích quan
trọng để các nhà làm điện ở Việt Nam có thể yên tâm trữ nước, chủ động các
vấn đề phát điện và cung cấp điện cho đồng bào các dân tộc bản địa biết được di
tích văn hố lịch sử của mình và càng thêm u q mảnh đất q hương của
chính mình.


Cho đến cuối tháng 8, công việc khai quật di chỉ khảo cổ học Lung Leng
đã gần hồn tất. Ngày 16-8 vừa qua,, Phó Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử,
Trưởng đoàn khai quật cho biết, các chuyên gia Viện khảo cổ học và Bảo tàng


tổng hợp tỉnh Kon Tum còn phát hiện thêm 9 điểm có khả năng là di chỉ, trong
đó một điểm đã được kiểm tra và xác nhận là có tính chất khảo cổ giống Lung
Leng, với tên gọi mới là Lung Leng 2. Với kết quả này cho thấy di chỉ Lung
Leng là một trong những phát hiện bất ngờ nhất của ngành Khảo cổ học Việt
Nam trong những năm gần đây.


 Di tích lịch sử cách mạng:


1. Ngã ba Tuy Đức, thuộc địa bàn 2 xã: Quảng Trực và Dak Bul So, huyện
Dak R'Lấp. Đây là chứng tích của cuộc khởi nghĩa của Nơ Trang Lơng-thủ lĩnh
của nghĩa quân M’nông-Stiêng hồi đầu thế kỉ XX.


1. Ngục Dak Mil, thị trấn Dak Mil. Nơi giam giữ, đày ải các chiến sĩ cách
mạng giai đoạn 1936-1943, có mối liên hệ với Nhà đày Buôn Ma Thuột.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ.


1. Nhà số 57, Lý Thường Kiệt, Buôn Ma Thuột-nơi tổ chức hội nghị khẩn
cấp của Ban lãnh đạo lâm thời tỉnh Dak Lak trong cách mạng tháng Tám năm
1945.


1. Nhà số 04, Nguyễn Du, thành phố Buôn Ma Thuột. Trụ sở Hội đồng cách
mạng của tỉnh trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.


1. Đình Lạc Giao, số 45 Phan Bội Châu-Buôn Ma Thuột, nơi gặp gỡ đầu
tiên giữa người Kinh và người Thượng. Nơi ra mắt Uỷ ban quân quản đầu tiên
sau giải phóng 1975.


1. Nhà đày Buôn Ma Thuột, số 18 Tán Thuật, Buôn Ma Thuột-nơi đày ải
giam giữ các chiến sĩ cách mạng thời kì 1930-1045. Nơi gieo hạt mầm cách


mạng đầu tiên cho tỉnh Dak Lak.


1. Đèo Phượng Hoàng, km 114-upload.123doc.net, quốc lộ 26, xã Ea Trang,
M’drak-nơi diễn ra trận đánh lịch sử giữa ta và địch mở ra cục diện mới cho
cách mạng miền Nam.


1. Hang đá buôn Dak Tuôr, xã Cư Pui, huyện Krông Bông-căn cứ cách
mạng của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ.


1. Buôn Dliê Ya, xã Dliê Ya, huyện Krông Năng-căn cứ cách mạng của tỉnh
thời chống Pháp.


1. Căn cứ H3 và H7, buôn Dliê Ya, xã Dliê Ya, huyện Krông Năng, căn cứ
cách mạng của ta qua hai cuộc kháng chiến.


1. CADA, xã Ea Yoong, huyện Krông Păc, nơi hình thành và ra đời giai cấp
cơng nhân, chi bộ Đảng, lực lượng vũ trang đầu tiên ở Dak Lak.


1. Hang đá Khuê Ngọc Điền, thôn 2, xã Khuê Ngọc Điền, huyện Krông
Bông-cơ quan đầu não của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

1. Buôn Trinh, xã Ea Bang, huyện Krông Buk-căn cứ cách mạng của tỉnh
qua hai cuộc kháng chiến.


1. Cây đa T50 (cây đa liên lạc), thơn 1, xã Hịa Phong, huyện Krơng Bơng.
Nơi làm hịm thư bí mật của lực lượng vũ trang và tổ chức Đảng của tỉnh tong
kháng chiến chống Mỹ.


1. Đồi Chư Cúc, xã Ea Kmút, Ea Kar. Nơi đây, năm 1975 diệt 2 đại đội Bảo
an, bắn rơi máy bay chở chuẩn tướng Lê Trung Lương, tư lệnh F23 nguỵ.



1. Tượng đài Mậu Thân, km5, ngã ba Hồ Bình, phường Tân Hồ, Bn Ma
Thuột-tưởng nhớ những bà mẹ anh hùng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.


1. Căn cứ kháng chiến Nam Nung, xã Nam Nung, huyện Krông Nô.


1. Đồi Mậu Thân (cao điểm 722) thơn Thọ Hồng, xã Dak Sắc, Dak Mil có
trên 300 chiến sĩ giải phóng hy sinh. Đặc biệt là nơi diễn ra trận đánh không cân
sức giữa ta và địch trong xuân Mậu Thân 1986, 85 chiến sĩ đã hy sinh trong trận
này.


1. Hộp thư giao liên (hành lang Dak Mil)-điểm liên lạc thông đường từ Khu
5 đến miền Đơng nam bộ.


1. Đồi Trung Đồn, nơi diễn ra trận đánh mở đầu để giải phóng Đức Lập,
xuân 1975 tại thị trấn Dak Mil, huyện Dak Mil.


1. Hang Ba tầng, xã Krông Nô, huyện Lak, là căn cứ địa cách mạng của tỉnh
từ 1958-1963.


 Di tích lịch sử văn hố:


2. Bn 1 và 2 xã Ea Súp-làng văn hố.


3. Chùa Hồ Khai, thơn Quảng Hồ, xã Đạo Nghĩa, Dak R’lấp, nơi sinh hoạt
văn hoá cộng đồng của bà con khu vực dinh điền Đạo Nghĩa từ năm 1960 đến
nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

5. Đài tưởng niệm Ea Phê, xã Ea Phê, Krông Pắc.
6. Tượng đài Bác Hồ, thị trân Buôn Hồ, Krông Buk


7. Tượng đài chiến thắng Buôn Ma Thuột, ngã 6


8. Chùa Khải Đoan, đường Phan Bội Châu, phường Thống Nhất.
9. Chùa An Lạc, thôn An Lạc, TT Buôn Hồ, Krông Buk


10. Chùa Pháp Hoa, xã Quảng Thành, Dak Nông
11. Tháp Yang Prong, xã Ea Rôk, huyện Ea Súp


12. Đền thờ Trần Hưng Đạo, thôn An Lạc, TT Buôn Hồ, Krông Buk
13. Mộ thầy giáo Y Jut, buôn Păn Lăm, phường Tân Lập, Buôn Ma Thuột
14. Mộ Khun Ju Nốp, xã Krông Ana, Buôn Đôn.


15. Nhà dài Ê đê, buôn Păn Lăm, phường Tân Lập, Buôn Ma Thuột.
16. Nhà cổ kiến trúc Lào, Krông Ana, Buôn Đôn.


 Di tích khảo cổ:


17. Di chỉ khảo cổ học Kiến Đức, Dak R’lấp


18. Khu mộ táng Ea Knuếch, xã Eea Ktr, Krơng Ana
19. Mộ Chăm cổ, thơn 2, xã Hồ Sơn, Krơng Bơng.
20. Phế tích Chăm, thơn 3, xã Hồ Thành, Krơng Bơng
21. Đồi ơng Hồng, thơn Quảng Trụ, xã Buôn Triết, Lak


22. Vườn nhà ông Nam thôn 13, xã Ea Riêng, M’drak-nơi phát hiện trống
đồng


23. Vườn nhà ơng hố thôn 13, xã Ea Bal, Ea Kar-nơi phát hiện trống đồng
24. Bãi đá Kang Giang, suối Eea Kmốc, xã Ea H’leo, huyện Ea H’leo.
 Danh lam thắng cảnh:



</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

26. Thác Ba tầng, lâm trường Nghĩa Tín, Dak Nơng
27. Thác Gia Long, xã Ea Na, Krơng Ana


28. Thác Khói (Dray Sáp), xã Dak Sô, Krông Nô
29. Thác Trinh Nữ, Thị Trấn Ea T’linh, Cư Jut
30. Thác Dray H’linh, xã Hoà Phú, Cư Jut


31. Thác Ba Tầng (Dray Dlon), xã Ea M’rốc, Cư M’gar
32. Đồi Cư H’lâm, Xã Ea Pôk, Cư M’gar


33. Thác Suối Mơ, Xã Ea Vi, Huyện Ea H’leo


34. Vườn quốc gia Yook Đôn, Xã Krông Ana, Buôn Đôn
35. Rừng thuỷ tùng, Xã Ea Ral, Huyện Ea H’leo


36. Thắng cảnh hồ Lak, thị trấn Liên Sơn, Lak


37. Thác Krông Kma, Xã Khuê Ngọc Điền, Krông Bông
38. Thác Thuỷ Tiên, xã Tam Giang, Krông Năng


39. Rừng thuỷ tùng xã Ea Hồ, Krông Năng
40. Hồ Ea Súp, xã Ea Súp, huyện Ea Súp
41. Hồ Trúc, Thị Trấn Ea T’linh, Cư Jut
42. Thác Drai Si, Xã Ea Ta, Cư Jut


43. Thác Sương Mù (Drai Dhul), Xã Ea Tul, Cư M’gar
44. Thác Ea M’năng, Xã Ea M’năng, Cư M’gar


45. Hồ Doãn Văn, thôn 2 xã Dak Rtik, Dak R’lấp


46. Ea Đờn, Xã Quảng Điền, Krông Ana


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Nguồn: Đồng nghiệp.


Sưu tầm và biên tập: Trần Quốc Thành, 090 5 59 00 99


</div>

<!--links-->
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ATLAT ĐỊA LÍ VIỆT NAM TRONG DẠY HỌC MÔN ĐỊA LÍ LỚP 9
  • 28
  • 5
  • 35
  • ×