Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Nguyen Du duoi goc nhin lich su

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.58 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nguyễn Du dưới góc nhìn lịch sử</b>



<b>Hà Quảng</b>


<b>Trong thiên tài của Nguyễn Du, ông đã thừa hưởng được cái tính dịu dàng, nhã </b>


<b>nhặn và phong lưu của xứ Kinh Bắc nhờ ảnh hưởng của mẹ, đã hưởng được hào khí</b>


<b>của đất Hồng Lam, hùng tâm của người xứ Nghệ, cùng là lòng tiết nghĩa, khiếu văn </b>


<b>chương, do gia phong truyền xuống trải bao nhiêu đời nhờ ảnh hưởng của cha. </b>


<i>Hồn vẫn đi về, cảo thơm sực nức...</i>


Nguyễn Du tên tự là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm 1765 và mất năm 1820. Quê ông
gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở
Thăng Long. Ơng thuộc dịng dõi trâm anh thế phiệt, cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm
đậu nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ, phong tước Xuân quận công (tể tướng dưới
triều Lê); mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm), con gái quan Câu kê họ Trần ở
làng Hoa Thiền huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh).


Câu ca dao “Bao giờ ngàn Hống hết cây, sông Rum hết nước họ này hết quan” là chỉ cái việc làm
quan của họ Nguyễn Tiên Điền vậy.


Anh đầu Nguyễn Du là Nguyễn Khản đậu đồng tiến sĩ, làm quan đến chức Tham tụng, cùng ở
một triều với thân phụ. Anh thứ hai là Nguyễn Điều trúng tam trường thi Hội, làm quan đến chức
Trấn thủ Hưng hoá, phong tước Điền Nhạc hầu. Anh thứ ba là Nguyễn Dao trúng tứ trường thi
Hương, chịu chức Hồng lô Tự thừa. Anh thứ tư là Nguyễn Luyện trúng tam trường thi Hương.
Anh thứ năm là Nguyễn Trước trúng tứ trường thi Hương. Anh thứ sáu là Nguyễn Nễ trúng tứ
trường thi Hương, một nhà đều là khoa giáp xuất thân, cùng làm quan ở triều Lê cả.


Dòng họ Nguyễn Du không những nổi tiếng về khoa hoạn mà lại còn chiếm nhiều danh tiếng
trong lĩnh vực văn chương. Nguyễn Nghiễm còn để lại những tập <i>Quân Trung liên vịnh, Xuân </i>
<i>đình tạp vịnh</i>, và quyển <i>Việt sử bị lâm cung </i>cùng nhiều tác phẩm chữ Nôm, từng làm bài phú



<i>Khổng tử mộng Chu cơng,</i> nay cịn truyền tụng. Nguyễn Nễ còn để lại <i>Quê hiên giáp ất tập</i> và


<i>Hồ trình hậu tập</i> cũng sở trường về văn Nơm. Cháu Nguyễn Du là Nguyễn Thiện có tập thơ


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Dòng họ này lại còn được người đời nể trọng về lòng trung nghĩa. Tổ tiên thuở xưa theo Mạc thì
nhiều người tuẫn tiết khi nhà Mạc mất. Thời Lê, sau khi Lê mất, mấy anh em Nguyễn Khản,
Nguyễn Điêu, Nguyễn Luyện, Nguyễn Du cho đến cháu là Nguyễn Đạm đều khởi nghĩa cần
vương. Triều Tây Sơn sang đời Nguyễn nhiều người không chịu ra làm quan, kiên trinh giữ tiết
với chúa cũ.


Trong thiên tài của Nguyễn Du, ông đã thừa hưởng được cái tính dịu dàng, nhã nhặn và phong
lưu của xứ Kinh Bắc nhờ ảnh hưởng của mẹ, đã hưởng được hào khí của đất Hồng Lam, hùng
tâm của người xứ Nghệ, cùng là lòng tiết nghĩa, khiếu văn chương, do gia phong truyền xuống
trải bao nhiêu đời nhờ ảnh hưởng của cha.


Lúc mười tuổi Nguyễn Du mồ côi cha, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, thời niên thiếu ở với bác tại
Thăng Long, dấu vết đài các hoa lệ của kinh đô để lại nhiều dấu vết trong ký ức Nguyễn. Nhưng
bao nhiêu yếu tố kể đó cũng chưa đủ tạo thành cái tính cách phức tạp và mâu thuẫn của ông, nếu
ta không kể đến những ngày tháng loạn ly ơng phải sống điền dã nơi hang cùng xóm vắng, trong
sự thiếu thốn, lạnh rét như những người loạn dân thời bấy giờ.


Sinh ra trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học, năng khiếu thơ văn của Nguyễn Du
sớm có điều kiện nảy nở và phát triển. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ. Năm 1783,
Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì khơng rõ, ơng khơng tiếp tục thi lên nữa. Phải
chăng những năm niên thiếu của Nguyễn là những năm đầy biến động. Ở Bắc giặc giã nổi lên tứ
tung vì tệ tham nhũng, bè phái của các chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bấy giờ Nguyễn Khản và Nguyễn Điều là hai anh của Nguyễn Du chạy lên Tây Sơn để gọi quân
các trấn về trừ Kiêu binh mà khơng xong. Trong khi ấy thì qn Tây Sơn đã đánh được Phú
Xuân, thừa thắng kéo luôn ra Bắc, chúa Trịnh Khải thất thế phải chạy trốn rồi tự tử. Sau khi Bắc


Bình Vương tơn vua Lê rồi rút quân về Nam, thế lực họ Trịnh lại do tay Trịnh Bồng khôi phục.
Nguyễn Hữu Chỉnh cậy uy Tây Sơn diệt Trịnh, rồi vì chuyên quyền ở Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ
Văn Nhậm ra giết, đến khi Nhậm theo vết xe cũ của Chỉnh lại tự mình ra giết. Vua Lê cầu cứu với
Trung Hoa, Bắc Bình Vương bèn bỏ Lê mà xưng đế trước khi đánh tan quân Tôn Sĩ Nghị. Bọn
tôi cũ nhà Lê, một số thì chạy theo vua Chiêu Thống sang Tàu để lo khơi phục, một số thì vì danh
lợi hoặc vì thế bức phải quy phục nhà Tây Sơn, số nữa thì lẻn lút ở nhà quê mà ni chí khí để
chờ cơ hội.


Nguyễn Du lúc bấy giờ nhân tập chức của cha nuôi, đương làm Chánh thủ hiệu, một chức quan
võ ở Thái Nguyên, nghe tin vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu (năm Kỷ Dậu -1789) toan theo
ngự giá nhưng không kịp bèn về quê vợ ở làng Hải An huyện Quỳnh Cơi xứ Sơn Nam (bây giờ là
tỉnh Thái Bình). Ơng cùng anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn tập hợp hào mục mưu đồ khôi phục nhà
Lê, nhưng chung quy thất bại bèn phải về quê nhà ở Tiên Điền, một thời gian toan kiếm đường
vào Gia Định giúp chúa Nguyễn Anh, nhưng việc tiết lộ, ông bị trấn tướng của Tây Sơn là Thận
Quận Công bắt giam. May Thận Quận Công quen biết với anh ruột ông là Nguyễn Nể lại mến tài
ông nên chỉ giam vài tháng rồi tha. Bấy giờ ơng tự thấy mình không làm được người nghĩa sĩ đem
thân hy sinh cho chúa đành làm kẻ bình dân giữ trọn tiết trung trinh. Ngày tháng ông lấy sơn thuỷ
làm vui hoặc đi săn muông, hoặc đi câu cá, tuỳ hứng ngâm vịnh để khuây khoả, biệt danh Hồng
Sơn lạp hộ và Nam Hải điếu đồ có là vậy.


Khi thời thế xoay đổi, nhà Tây Sơn thất bại, Nguyễn Ánh thống nhất được Bắc Nam. Tháng sáu
năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long sau khi khôi phục Phú Xuân ra Bắc xuống chiếu triệu tập
những người dòng dõi cựu thần nhà Lê, Nguyễn Du cũng bị triệu ở trong số ấy. Ơng dẫu biết nhà
Lê khơng thể nào vãn hồi được nữa mà thiên hạ đã về theo nhà Nguyễn rồi, nhưng do lịng trung
qn, ơng quyết từ chối, không chịu ra làm quan cho nhà Nguyễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Mùa thu năm Gia Long thứ ba, ông cáo bệnh về quê, được hơn một tháng thì bị triệu về Kinh.
Tháng giêng năm sau được thăng hàm Đông Các Học Sĩ và phong tước Du Đức Hầu. Tháng tư
năm Gia Long thứ tám, ông được bổ chức Cai bạ dinh Quảng Bình. Tháng chín năm thứ mười
một, ông lại xin nghỉ về quê, đến tháng chạp lại bị triệu về Kinh, rồi tháng giêng năm sau thăng


hàm Cần chánh điện Học sĩ, và được cử làm Chánh sứ đi tuế cống Thanh triều. Tháng tư năm thứ
mười ba trở về nước, được nghỉ sáu tháng ở quê, rồi năm sau ông được thăng chức Lễ bộ Hữu
Tham tri. Năm đầu triều Minh Mạng (1820) vua Thánh tổ mới lên ngôi, ngự bút đặc phái ông làm
Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong. Ơng chưa kịp đi thì cảm bệnh mất tại Kinh ngày mồng 10
tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16/9/1820 hưởng thọ 56 tuổi.


Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh
và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí.


Nguyễn Du sinh trưởng ở thời loạn lạc, lại gặp cảnh nước mất nhà tan mà mình khơng thể nào
vãn hồi được thời thế, đành phải ơm mối hận lịng. Nguyễn khơng thể vui lịng nhận bổng lộc của
triều đình mới. Sách Đại Nam Chính biên liệt truyện chép rằng ông làm quan hay bị người trên đè
nén, không được thoả chí, cho nên thường buồn rầu ln [1]. Đối với vua thì mỗi khi yết kiến ra
vẻ sợ sệt, nhưng khơng biết nói năng gì. Có khi vua đã trách rằng: “Nhà nước dùng người, cứ kẻ
hiền tài là dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc. <i>Ngươi</i> với Ngô Vị, đã được ơn tri ngộ làm quan
đến bực Á Khanh, biết việc gì thì phải nói để hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ
vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện thôi!”. Thực ra, Nguyễn Du không phải là người buồn vì quan
trên đè nén, khơng phải là người sợ hãi rụt rè, mà chỉ là người dẫu ở tân triều mà lịng khơn qn
chúa cũ. Nhưng tâm sự ấy khó ngỏ cùng ai, cho nên Nguyễn Du thường có vẻ bực tức buồn rầu,
thậm chí có khi ông e sợ rằng đời sau cũng chưa chắc có người hiểu thấu được lịng mình.<i> Bất tri </i>
<i>tam bách dư niên hậu /Thiên hà hà nhân khấp Tố Như</i>?


Sống buồn bã, cho nên khi mắc bệnh nặng ông nhất định không chịu uống thuốc, chỉ chờ chết cho
xong. Lúc lâm chung ông bảo người nhà sờ tay chân, họ nói đã lạnh cả rồi thì ơng chỉ nói: “được,
được” rồi tắt thở, khơng hề trối lại điều gì, thế là ơng đã đem theo xuống mồ cái tâm sự u uất


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm: Hán văn có: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp
ngâm, Bắc hành tạp lục; Chữ Nơm có: Văn chiêu hồn hay còn gọi Văn tế thập loại chúng sinh,
Thác lời trai phường nón..., Sinh tế Trường Lưu nhị nữ, Truyện Kiều.



<i>Truyện Kiều </i>là tác phẩm kiệt xuất của Tố Như, Nguyễn Du đã bày tỏ lòng nhân ái với những số
phận không may trong cuộc đời, lên án các thế lực bạo tàn, thể hiện mơ ước tự do công lý của
nhân dân.<i> Truyện Kiều</i> là đỉnh cao của nền thơ ca nước ta, mở ra một giai đoạn mới của ngôn ngữ
và văn chương Việt.


Dưới góc nhìn văn hóa, Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tôc, tuy nhiên qua cuộc đời và hành
trạng mà ta đã phân tích trên kia, dưới góc nhìn lịch sử, ta cịn thấy nhiều nét nổi bật nữa ở con
người Nguyễn. Ơng cịn là một võ quan nhiều mưu đồ đại nghiệp, một vị văn quan biết cách chăn
dân, một nhà ngoại giao xuất chúng. Những năm làm Chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên, thời kỳ tụ
tập nghĩa binh toan chuyện phò Lê thể hiện phẩm cách của một võ quan không an phận, nuôi chí
lớn khơi phục lại cơ nghiệp Lê triều. Những năm làm tri phủ Thường Tín, rồi cai bạ Quảng Bình,
ơng đã nêu một gương sáng về đức trị dân của một ông quan thanh liêm. Tại nhiệm bốn năm,
chính sách rất là giản dị, chúng dân đều yêu mến. Nhờ vậy mới được phong tước Du Đức Hầu,
rồi về Kinh thăng hàm Cần chánh điện Học sĩ. Đáng kể nhất là những năm ông làm Chánh sứ đi
tuế cống Triều Thanh thành công rất được triều Nguyễn tín dụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tháng Tư năm Giáp Tuất (1814), Nguyễn Du cùng đoàn sứ thần về nước. Trong chuyến đi, ông
đã cho chọn giống cây hồng quý đem về trồng ở nhà vườn An Hiên (Huế) hiện vẫn còn được
người dân nâng niu chăm sóc. Sau khi hồn thành trọng trách cùng với đồn sứ bộ, Nguyễn Du
được thăng chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri.


Trong quá trình giữ cương vị Chánh sứ, đại diện cho quốc gia, ông đã để lại nhiều áng thơ văn,
nhiều ghi chép đặc sắc giúp cho những nhà nghiên cứu ngày nay có được cái nhìn khá kỹ càng về
hành trình của một sứ giả trên đất khách quê người.


Những tài năng đa diện và công lao của Nguyễn Du sau này đã được thể hiện qua các bài văn truy
điệu, mà nguời đời sau thường đoc trong dịp kỷ niệm ngày mất của ông (10/8 Canh Thìn 1820).
Tài kiêm Văn, võ:


... Khi trưởng thành Ất bảng chen tên, tài thư kiễm vang lừng hai vế


... Những muốn hùng binh mấy vạn rắp phen Trương Tử phục Hàn gia
Nội chính, Ngoại giao:


... Khi thủ hiên Tiên châu, khi Thần kinh lĩnh dỗn, đức thanh cần thấm thía đến mn dân.
Lúc Bắc hành chánh sứ, lúc Nam khuyết á khanh tài thao lước vang lừng trong hai nước
(Văn truy điệu Nguyễn Du - Đào Tử Minh - Hội Tri Tân, ngày 10/8 Giáp thân 1944)


Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du, sự bất tử, tình yêu của mọi người đối với Nguyễn được
ghi lại khá trọn vẹn trong bài Bia sau đây nhân dịp kỷ niệm 105 năm ngày mất của cụ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Kiếm gác bên đền, gió mưa vẫn sắc
Bút tựa mặt hồ, trăng sao vằng vặc
Cảnh ấy bia này, nghìn thu dằng dặc.


Ngày rằm tháng hai năm Kỷ Tỵ niên hiệu Bảo Đại thứ tư
Hội Khai trí Tiến Đức cẩn chi


Canh Tuất khoa Phó bảng Ưu Thiên Bùi Kỷ bái thảo.
---


[1] Theo Đại Nam liệt truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngồi tỏ vẻ giữ
gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như khơng biết nói năng gì...",


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×